Chúng ta không thể tránh được, cứ đến ngày 30 Tháng Tư mỗi năm lại chợt nhớ về quá khứ. Niềm tưởng nhớ thường có trong một ngày giỗ. Mà đúng hôm nay là một ngày giỗ. Ngoài những vị tướng chỉ huy tử tiết, như Tướng Phạm Văn Phú, Tướng Nguyễn Khoa Nam, Tướng Trần Văn Hai, Tướng Lê Văn Hưng, Ðại Tá Hồ Ngọc Cẩn, còn biết bao nhiêu các binh sĩ, sĩ quan khác cũng đã chết để bày tỏ khí tiết trong cùng một ngày. Có vị sĩ quan cảnh sát chọn công viên Lam Sơn làm nơi thể hiện lời nguyền chết vinh hơn sống nhục. Nhiều vị sĩ quan, công chức, đã về nhà, cùng chết với gia đình. Chúng ta hướng về tất cả những anh hùng liệt sĩ đó trong ngày giỗ tập thể hôm nay.
Và nhiều chiến sĩ vô danh khác nữa. Trong ngày 30 Tháng Tư năm 1975 có nhiều nhóm quân nhân (Nhảy Dù, Bộ Binh, Thủy Quân Lục Chiến, vân vân) đã quyết định cùng chết với nhau. Họ đứng khoác vai nhau, tự sát bằng những trái lựu đạn. Họ đã lựa chọn cùng nhau thể hiện tình “đồng sinh đồng tử, huynh đệ chi binh” một lần cuối cùng, trước khi tan hàng vĩnh viễn.
Chúng ta biết những chiến binh này có thể lựa chọn cách khác. Họ có thể chiếm cứ bất cứ ngôi nhà nào bên đường, lấy đó làm nơi tử thủ. Họ có thể bắn cho hết những viên đạn cuối cùng trước khi bị bên địch hạ sát. Giống như những người lính Nhật sau cùng trong trận Iwo Jima, lấy mạng đổi mạng. Nhưng vào giây phút tuyệt vọng nhất của đời mình, những người chiến binh này vẫn chứng tỏ họ vẫn sống nền đạo lý ngàn năm của dân tộc. Họ không muốn lôi kéo thêm những người lính khác phải chết với mình. Dù vừa mấy giờ phút trước đó, nhìn chỉ thấy đó là quân địch. Vì một tấm lòng từ bi vẫn chảy trong dòng máu Việt, các chiến sĩ này đã thấy: Cha mẹ, vợ con những người lính vô danh bên kia chắc cũng đang ngóng chờ ngày họ sống sót trở về. Nhớ lại những hành động tự sát tập thể trong giây phút tuyệt vọng đó, chúng ta chợt hiểu lời nguyện mà cha ông đã để lại: “Ðem đạo nghĩa để thắng hung tàn; lấy chí nhân mà thay cường bạo” (Nguyễn Trãi, Bình Ngô Ðại Cáo). Chúng ta đều có thể hãnh diện về hành động tự sát của những người lính Việt Nam Cộng Hòa này.
Các thế hệ sau phải làm gì để những người đã chết đều không ai chết uổng? Những con người tuẫn tiết đó đều chết trong khi chiến đấu bảo vệ quyền sống trong tự do dân chủ của người Việt ở miền Nam. Từ năm 1975 đến nay mấy thế hệ vẫn tiếp tục cuộc tranh đấu thiết lập một chế độ dân chủ tự do trên đất nước chúng ta. Chúng ta đang chứng kiến nhiều bạn trẻ còn non nớt hay sinh sau ngày 30 Tháng Tư năm 75, ở trong Nam hay ngoài Bắc, đang dấn thân trên con đường đó. Họ xứng đáng là những người nối dõi khí tiết hào hùng của các tiền nhân. Những người như Tạ Phong Tần, Nguyễn Phương Uyên, Nguyễn Ðắc Kiên, Huỳnh Thục Vi, Trịnh Kim Tiến, Việt Khang, vân vân, bị đánh đập, tù đày, gia đình bị dọa nạt, đàn áp, có bà mẹ đã tự thiêu chết; chỉ vì họ đòi phải cho dân tộc Việt Nam được sống trong tự do dân chủ. Các bạn trẻ này đã thể hiện tinh thần bất khuất của dân tộc; và cũng theo đuổi chí nguyện của những Nguyễn Khoa Nam, Lê Văn Hưng, Hồ Ngọc Cẩn, và những những tử sĩ hy sinh ngày 30 Tháng Tư năm 1975.
Trong ngày 30 Tháng Tư nhìn lại 38 năm qua, chúng ta vui mừng vì cuộc vận động tranh đấu cho dân chủ tự do ở nước ta hiện ngày càng tiến mạnh hơn và nhanh hơn. Ðảng Cộng Sản đang trên đà tan rã, không thể nào tránh được. Giáo Sư Ðào Văn Dương, một người đã hoạt động cách mạng từ trước năm 1945, thường nói với các học sinh cũ đến thăm cụ: “Các anh chị sẽ thấy, chế độ Cộng Sản sẽ chết trước mình.” Viễn ảnh đó không còn xa xôi nữa. Chế độ Cộng Sản đang trong giờ hấp hối. Cái chết này thực sự bắt đầu từ năm 1975. Ðó là thời điểm những mà những thủ đoạn lừa gạt tinh vi nhất của đảng Cộng Sản bắt đầu bị lộ diện; và càng ngày càng đưa họ xuống dốc.
Từ năm 1945, đảng Cộng Sản đã núp dưới chiêu bài dân tộc để lôi cuốn nhân dân. Họ núp dưới danh nghĩa “chống Mỹ cứu nước” để đẩy bao nhiêu thanh niên miền Bắc vào chỗ chết. Trong khi mục tiêu chính của họ là bành trướng một chủ nghĩa, một chế độ chính trị. Công cuộc bành trướng đó do Nga Xô và Trung Cộng lãnh đạo; còn nuôi tham vọng sau khi chiếm được toàn thể Việt Nam rồi sẽ nhuộm đỏ vùng Ðông Nam Á rồi lan khắp Châu Á và thế giới. Ðảng Cộng Sản đưa dân tộc Việt Nam ra hứng bom đạn trong cuộc tranh chấp giữa hai khối tư bản và Cộng Sản. Họ có vẻ hãnh diện về vai trò tiên phong này. Lê Duẩn nói: Ðánh miền Nam là đánh cho Liên Xô, cho Trung Quốc. Năm 1976 Phạm Văn Ðồng tới một hội nghị các nước Á Phi còn dậy chính phủ các nước khác rằng họ chưa thực sự độc lập, chưa thoát khỏi chế độ thực dân. Ông nói: “Chỉ khi nào theo chủ nghĩa xã hội thì mới thực sự độc lập,” khiến các người tham dự rùng mình.
Khi chiến tranh chấm dứt năm 1975 thì đảng Cộng Sản Việt Nam không thể dùng chiêu bài yêu nước như trước nữa. Không thể dùng khẩu hiệu “chống Mỹ” để biện minh cho các chính sách độc đoán và sai lầm làm dân ngày càng nghèo đói. Ðảng Cộng Sản để lộ bộ mặt thật của họ, là một guồng máy chuyên chế, tham nhũng và bất lực trước các vấn đề hiện đại hóa đất nước. Người dân Việt cũng có dịp so sánh hai chế độ ở miền Nam và Bắc, trước năm 1975. Nhiều nhà trí thức miền Bắc nhìn thấy những dấu vết của một xã hội tự do ở miền Nam, mặc dù chưa hoàn hảo nhưng vẫn còn dễ thở hơn ở miền Bắc. Một cậu bé năm đó 13 tuổi ở Thanh Hóa, sau cũng nhận ra khi nói “Giải phóng” thì phải thấy chính miền Nam đã giải phóng miền Bắc! Trước năm 1975 ông Nguyễn Văn Thiệu bảo: “Ðừng nghe những gì Cộng Sản nói…” Sau năm 1975 người đầu tiên nhìn ra lời đó đúng, là ông Trương Như Tảng, một Việt Cộng thứ thiệt. Thấy rồi, ông ta cũng tìm đường vượt biên. Sự sụp đổ của các nước Cộng Sản ở Âu Châu càng giúp người Việt Nam thấy rõ cả của chế độ mà Hồ Chí Minh đã gây dựng lên theo kiểu mẫu ông học ở Nga Xô chỉ tàn hại đất nước. Nhưng chưa bao giờ dân Việt Nam chán ngán và thù ghét chế độ Cộng Sản như bây giờ. Ðúng vào lúc chế độ đó đang lúng túng. Không những không biết lần mò ra đường nào để giữ cho đời sống kinh tế của nhân dân phát triển, mà họ còn không biết có cách nào để giải quyết những tranh chấp quyền lợi bên trong với nhau.
Nhưng chúng ta phải lo lắng trước, khi nhìn thấy tình trạng đảng Cộng Sản tan rã. Không thể đứng chờ và chứng kiến, không lo lắng. Những liệt sĩ Phạm Văn Phú, Nguyễn Khoa Nam, Trần Văn Hai, Lê Văn Hưng, Hồ Ngọc Cẩn đã được huấn luyện với khẩu hiệu: “Lúc bình an phải lo trước cơn nguy biến sẽ tới” (cư an, tư nguy). Bây giờ là lúc thể hiện châm ngôn đó.
Chế độ Cộng Sản thế nào cũng tàn tạ. Giống như một trái cây chín rồi, tự nó sẽ rụng. Giới thanh niên, trí thức trong cả nước đang rung cây cho trái rụng càng sớm càng tốt. Ðiều đáng ưu tư của dân tộc bây giờ không còn là lo chấm dứt chế độ tham nhũng bất công đó. Ðiều cần lo ngay tự bây giờ, là sau khi chế độ này tàn thì dân tộc Việt Nam xây dựng lại đất nước ra sao?
Trước hết, làm sao cho tiến trình dân chủ hóa được thực hiện mà không vấp phải những chướng ngại, như đã từng diễn ra ở nhiều nước đã trải qua kinh nghiệm chuyển từ độc tài hay chuyên chế sang chế độ dân chủ? Trong mục này tuần trước, chúng tôi đã trình bày trường hợp Bulgaria, một chế độ Cộng Sản đã “tự đảo chính,” một ngày sau khi bức tường Berlin sụp đổ. Ðảng Cộng Sản đã sửa hiến pháp, chính họ xóa bỏ điều số một (giống như điều bốn trong hiến pháp Việt Nam bây giờ) dành độc quyền cai trị cho đảng. Họ tự đổi tên, tổ chức bầu cử tự do, và thắng cử. Ở Rumania cũng vậy, chính các lãnh tụ Cộng Sản đã giết vợ chồng Nicolae Ceausescu để chạy theo các cuộc cách mạng 1989 ở Ðông Âu. Nhưng họ đã hành động chỉ để cướp lấy ngọn cờ cách mạng, để duy trì cả hệ thống quyền hành và tiếp tục trục lợi.
Thủ đoạn “tiếm danh nghĩa cách mạng” và “tiếm quyền cai trị” đã từng được đảng Cộng Sản Việt Nam sử dụng lành nghề, trong năm 1945. Nhưng đó cũng chỉ là một, trong nhiều mối nguy mà tiến trình dân chủ hóa có thể vướng mắc, cần phải biết để tránh vết xe đổ. Tại một nước đã chuyển từ độc tài quân phiệt sang dân chủ tự do như Chile, tiến trình dân chủ hóa đã bị cản trở trong 15 năm vì ngay từ đầu các nhà tranh đấu dân chủ đã nhượng bộ quá nhiều khi thương thuyết cuộc chuyển giao quyền hành với Tướng Augusto Pinochet. Tại những nước như Nga, Ukraine, tiến trình dân chủ hóa vụng về, để cho một số người tập trung các nguồn lợi kinh tế vào trong tay. Những nhà tư bản độc quyền này đã dùng tiền bạc chi phối và “tiếm vị” thao túng cả guồng máy nhà nước. Ngay tại những nước dân chủ hóa thành công nhất, như Ba Lan và Tiệp Khắc, thái độ “dửng dưng với chính trị” của những nhà lãnh đạo như Walesa, Havel, đã tạo ra một khoảng trống chính trị khiến nhiều vấn đề của quốc gia không được giải quyết sớm bằng các định chế và thủ tục dân chủ. Một hậu quả dễ thấy nhất, là nước Tiệp Khắc đã phải chia đôi, thành Cộng Hòa Tiệp và Slovac, mặc dù vào lúc quyết định chia đôi đó, dân chúng cả hai miền đều muốn giữ thể chế liên bang (trên 54% ở cả hai vùng).
Dân chủ hóa là một con đường đầy trông gai, một dòng sông có nhiều mỏm đá ngầm. Ngày 30 Tháng Tư này, chúng ta cần suy nghĩ ngay về vấn đề đó, để chuẩn bị tương lai một nước Việt Nam tự do dân chủ. Ðó là một cách đền ơn nghĩa những người đã chết trong ngày 30 Tháng Tư năm 1975 trong khi đang tranh đấu bảo vệ một mảnh đất tự do của nước Việt Nam.
Ngô Nhân Dụng