Việt Nam Hải ngọai là một thực thể, một danh xưng ít người Việt tưởng tượng được khi rơi nước mắt rời đất nước ra đi tỵ nạn CS. Một kỳ công do chính quân dân cán chính Việt Nam Cộng Hòa và hậu duệ đã làm trên đường lưu vong tỵ nạn CS sau khi Việt Nam Cộng hòa vì chiến lược tòan cầu của Mỹ thay đổi, Việt Nam Cộng hòa bị văng miễn, thua một trận 30-4-1975 – nhưng không thua một cuộc chiến tranh, Chiến Tranh Quốc Cộng.
Việt Nam Hải Ngọai hình thành, hiện sinh, hiện hữu tuy không có tuyên bố, tuyên ngôn như Pháp Quốc Hải Ngọai – France d’Outre Mer – doTướng De Gaulle đã làm sau khi lưu vong để từ điểm tựa đó kết họp, điều hợp công trình tranh đấu và chiến đấu phục quốc trở về Mẫu Quốc – la France.
Còn Người Việt vốn sống nhiều với nội tâm – làm mà không nói, Bằng nhiều phương tiện, qua nhiều giai đọan, từ nhiều nơi, nhiều nước định cư đông nhứt ở ba châu Bắc Mỹ, Tây Âu, Úc Châu. Nhưng người Việt tỵ nạn CS không thể sống được với CS đang tạm chiếm VN, càng xa nước, càng yêu nước thêm. Những người Việt này không phân biệt tôn giáo, địa phương, giới tính, dĩ vãng, v.v… ôm nhau, biến đau thương thành hành động, không sống được ở nước nhà nên đem hồn thiêng sông núi VN, văn hóa VN, lịch sử VN theo mình, làm thành một Việt Nam Hải ngọai. Làm từ con tim và khối óc VN, từ lịch sử VN 4000 năm, từ tinh thần bất khuất 1000 năm chống giặc Tàu, 100 năm chống giặc Tây, mấy chục năm chống Cộng sản từng ngày. Người Việt tỵ nạn CS cảm thấy thuộc về nhau (sense of belonging) cùng liên kết, hòa hợp nhau thành một Việt Nam hải ngọai.
Tiến bộ khoa học kỹ thuật của thời đại Tin Học biến Trái Đất thành xóm nhà, các dân tộc thành láng giềng càng giúp cho người Việt Hải Ngọai tuy ở xa ngàn dặm mà tình đồng bào gần nhau trong gang tấc. Và nguồn gốc, căn cước tỵ nạn CS làm cho người Việt Hải Ngọai đứng chung trong một thể chế tự do, dân chủ, nhân quyền, và dưới một quốc kỳ nền vàng ba sọc đỏ dù ở Úc, ở Pháp, ở Mỹ hay Canada, v.v… để có một Việt Nam Hải Ngọai đối kháng với chế độ Cộng sản độc tài đảng trị tòan diện đang thống trị nước nhà VN. Người Việt hải ngọai tranh đấu cho tự do, dân chủ, nhân quyền VN mà CS Hà nội đã tước đọat của hơn 80 triệu đồng bào VN còn kẹt nằm trong gọng kềm CS.
Việt Nam Hải Ngọai, đó là vốn quí nhân tài vật lực mà Tổ Quốc VN “mong cho mai sau” để khôi phục, tái thiết, phát triển nước nhà VN khi CS Hà nội sụp đổ. Các nước CS Đông Âu, Nga không có đối lực, tiềm năng này nên công cuộc giải trừ cộng sản, dân chủ hóa, phục hồi kinh tế đất nước chậm. Còn cộng đồng hải ngoại Trung Hoa, Ấn Độ, Cuba, nhứt là Do Thái ở Mỹ đã giúp cho nước nhà vô vàn tiến bộ.
Cái mộng của Nguyễn Trường Tộ, của Kỳ Ngoại Hầu Cường Để, Tây Du, Đông Du đã thành hiện thực. Không phải dễ gì cho một quốc gia nào đó có thể có được một cộng đồng ở hải ngoại trong lòng văn minh Tây Phương. Nhứt là ở Mỹ bởi vì cơ hội được cho nhập cư hàng loạt rất hiếm. Trong khi thực tế đòi hỏi cần phải có một số lượng đông đủ nào đó mới thành một cộng đồng được. Thí dụ ở Mỹ phải trên một, hai triệu người, nên anh chị em đi trước trong cuộc di tản sau 30-4-75 ở Mỹ đã nỗ lực vận động nhiều Tổng Thống Mỹ tăng số lượng cho thuyền nhân, cho HO, cho ODP người Việt để đạt được túc số trở thành cộng đồng đủ số, đủ thế và lực để phát triển.
Tuy bây giờ các cộng đồng người gốc Việt thành tố của Việt Hải Ngoại tại nhiều nơi chưa tổ chức “thống nhứt” theo kiểu kim tự tháp như nhiều người mong mỏi. Nhưng thời cơ, địa lợi khác thì tổ chức phải khác. Người Việt hải ngọai tổ chức theo kiểu “thuần nhứt, hợp nhứt ” qua liên kết theo chiều ngang với một mẫu số trong nhiều vấn đề. Nhứt là trong các lễ hội truyền thống, đấu tranh chánh trị chống CS, đấu tranh cho tự do, dân chủ, nhân quyền VN. Cộng đồng này đang hoạt động liên kết với nhau như tiểu bang, liên bang của Mỹ. Đó là một Việt Nam Hải Ngọai về hình thức và nội dung.
Đáng kính phục thay những người dành công của, sức lực và thì giờ dấn thân “ăn cơm nhà ra vác ngà voi hành tổng” để phục vụ cộng đồng, thành tố của VN hải ngọai. Được khen thì ít, bị chê lại nhiều, nhưng tinh thần cộng đồng trong tim óc vẫn mạnh hơn những tiếng bấc tiềng chì ra vào vốn phải có trong sinh hoạt quần chúng.
Quốc tế vận của các cộng đồng Việt Nam Hải ngọai rất lớn và hữu hiệu. Liên Âu gồm 27 nước trong đó có những nước hậu CS, đã đưa CS vào nhốt chung với Đức Quốc Xã. Vấn để nhân quyền VN, tự do tôn giáo VN đi vào Quốc Hội và Ngọai Giao Mỹ. Vấn đề Trung Cộng cướp biển đảo của VN trở thành vấn đề quốc tế.
Tại Mỹ tính đến năm thứ 37 đã có cả chục tiểu bang, cả trăm quận hạt, và thành phố chánh thức công nhận quốc kỳ Việt Nam nền vàng ba sọc đỏ được treo ngang hàng với quốc kỳ Hoa Kỳ tại các cơ quan hành chánh, trong các trường học, cũng như trong các lễ hội. Số đơn vị chánh quyền tiểu bang và địa phương này nằm trong lãnh thổ của hơn 25 tiểu bang – với dân số hơn phân nữa dân số nước Mỹ.
Chính CS Hà nội còn phải than. Thứ Trưởng Ngoại Giao CS Hà Nội Nguyễn Đình Bin, mấy năm trước đã từng than van, nói tại trụ sở Ngân Hàng Thế Giới, “Hiện nay có hai vấn đề nổi cộm và xúc phạm không thể chấp nhận được, và đã cản trở sự phát triển quan hệ với Hoa Kỳ. Đó là dự luật Nhân Quyền và sự kiện một số thành phố hay thị trấn của Hoa Kỳ đã đưa ra nghị quyết công nhận cho treo cờ 3 sọc của chế độ thân Mỹ từ 28 năm qua vẫn còn tồn tại”.
Và bây giờ “hai vấn đề“ đó cộng thêm vấn đề đất và biển CS Hà nội nhu nhựơc như thông đồng để cho Trung Cộng chiếm, vấn đề này trở thành vấn đề kẹt lớn cho CS Hà nội. Ngọai Trưởng Mỹ gần đây còn tuyên bố đại ý Hà nội muốn phát triển đối tác chiến lược với Mỹ, điều thiết yếu là cải thiện nhân quyền. Các nước cấp viện cho VNCS mới đây đòi hỏi CS Hà nội phải cải thiện nhân quyển.
Được như thế là nhờ nhiều cộng đồng VN gộp lại như một Việt Nam Hải Ngoại vận dụng một cách khéo léo, sáng tạo và hữu hiệu việc hội nhập vào dòng chánh kinh tế, chánh trị, quân sự, văn hóa, giáo dục, xã hội . Tại Mỹ nơi đông người Việt định cư nhứt thế giới, chiếm phân nửa tổng số người tỵ nạn CS trên thế giới, kinh tế tài chánh sở hữu của người Việt thừa sức phục hồi nền kinh tế nước nhà khi CS sụp đổ.
Người Việt ở nhiều nước đã đi vào Quốc Hội tiểu bang, liên bang, ngồi ghế Thứ Trưởng Bộ Liên bang, chủ nhiệm bộ môn đại học, đứng chỉ huy điều động chiến đoàn Thủy Quân Lục Chiến thiện chiến và Hạm trưởng Hải Quân. Lá phiếu người Việt chưa tự làm ra được một tổng thống, một nghị sĩ, dân biểu liên bang nhưng đã biết liên kết làm thành giọt nước tràn thắng cử cấp liên bang. Tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp đại học Mỹ ngang hàng với người Mỹ Trắng. Kiến thức khoa học kỹ thuật người Việt quá dư thừa để tái thiết nước nhà.
CS Hà Nội khan cổ kêu gọi đầu tư, mời mọc chất xám, dùng quá thừa mỹ từ để tuyên truyền chiêu dụ “khúc ruột ngàn dặm của quê hương”. Nhưng uổng công vô ích, về chơi thì có, bỏ chút tiền giúp cho bà con trong cơn ngặt hay giúp cho bà con làm ăn thì có, chớ làm việc cho CS thì không. Vì đại đa số đều nhớ nguồn gốc, thân phận, căn cước của mình, của gia đình, của công dồng mình là Việt Hải Ngoại tỵ nạn CS, là người Quốc Gia yêu tự do, dân chủ vốn là khắc tinh của CS Hà Nội độc tài, đảng tri toàn diện. Mục tiêu cuối cùng, cứu cánh sau rốt vẫn là giành lại tự do, dân chủ cho đồng bào trong nước.
37 năm chưa tới nửa đời người, mà người Việt tỵ nạn CS làm được như vậy, quả là một thành công xuất sắc, một trang sử đẹp trong lịch sử Việt Nam.
Vi Anh