Chiến lược năm nay (2014), 39 năm sau ngày Quân đội miền Bắc chiếm Sài Gòn 30/04/1975, bắt đầu từ cuộc vận động “kiều bào” từ 09 đến 29/03/2014 ở Gia Nã Đãi, Hoa Kỳ và Hàn Quốc của Thứ trưởng Ngọai giao Nguyễn Thanh Sơn, Chủ nhiệm Ủy ban Nhà nước về người Việt ở nước ngòai (NVNONN).Ông Nguyễn Thanh Sơn nói mục đích chuyến đi dài ngày của ông qua 3 nước là để gọi là “xóa bỏ sự ngăn cách, thù hận, tiến tới thực sự hòa giải, hòa hợp và đại đoàn kết dân tộc.”
Ngòai gặp “đại diện chính quyền sở tại” là chuyện đương nhiên theo phép ngọai giao, ông Sơn đã lạm dụng nhóm chữ “cộng đồng người Việt thuộc nhiều thành phần đa dạng khác nhau: số bảo thủ cực đoan, giới truyền thông báo chí người Việt, doanh nhân, trí thức..” để “vơ vào” và “gây ảo tưởng” cho người trong nước hiểu rằng phái đòan Việt Nam đã được Cộng đồng chống Cộng người Việt ở Canada và Hoa Kỳ, kể cả giới đông đảo Nhà báo “Việt kiều” vốn không cảm tình với chế độ, đón tiếp nồng hậu.
Ông Nguyễn Thanh Sơn không nêu tên những người được ông “mạ kền” và “đánh bóng” là “bảo thủ cực đoan” hay “giới truyền thông báo chí”, nhưng ai cũng biết số người này, nếu có, cũng chỉ đáng xếp vào hàng “tôm tép” mà Cộng đồng nơi họ cư ngụ đã “nhẵn mặt”, đặc biệt ở hai nơi Texas và California.
Bằng chứng như đã có vài ba người, từng đi về Việt Nam một số lần theo sắp xếp của ông Nguyễn Thanh Sơn đã có mặt trong đòan khỏang 50 “kiều bào” đi thăm Trường Sa nhân dịp 30/4/2014.
Con số đầu tiên dự kiến có 70 “Kiều bào”. Và theo Thông tấn xã Việt Nam (TTXVN) thì: “Đa số là các doanh nhân đang thực hiện dự án đầu tư ở Việt Nam, đã lớn tuổi, có tư tưởng yêu nước và theo đạo Phật.”
Nói cách khác thì họ là Hội viên của Hiệp hội Doanh nhân Việt Nam ở Nước ngòai (DNVNONN)” do đảng Cộng sản Việt Nam thành lập.
Nhìn một vài người xuất hiện trên màn ảnh nói lý do tại sao họ đi Trường Sa, người coi cảm thấy thương cho ông Thứ trưởng Nguyễn Thanh Sơn vì ông đã “lỡ thổi phồng” họ tới mức “không cần thiết” đến độ phản tuyên truyền !
Tuy vậy, ông Sơn vẫn không ngại để khoe tiếp rằng: “Chuyến đi của tôi năm 2012 là chuyến đi đầu tiên mang tính chất đột phá và thăm dò tới những người còn có tư tưởng hận thù với đất nước. Cuộc tiếp xúc lần đầu đó tôi cho là thành công, bởi vì tất cả những nơi tôi đến thì họ đều gặp tôi, đặc biệt ở Texas thì số lượng rất đông. So với chuyến đi năm 2012, thì chuyến đi lần này thành công hơn nữa vì số lượng người gặp đông hơn, thành phần cực đoan bảo thủ, đặc biệt là số cốt cán trong các phong trào chống đối chúng ta, đến gặp nhiều hơn. Tôi cho rằng như vậy là họ đã cởi mở và bắt đầu có niềm tin. Con người ta ai cũng có cội nguồn, cuối đời ai cũng muốn trở về quê hương, cũng muốn thấy quê hương đất nước phát triển tốt đẹp. Tôi hiểu tâm nguyện đó của bà con và mong sẽ đặt những viên gạch, những nền móng để bà con trở về được vững chắc, để thực sự là hòa giải, hòa hợp.”
Hãy cứ để cho ông Sơn và Chính phủ CSVN nuôi hy vọng. Nhưng ông Sơn cũng nên thành khẩn với chính mình khi làm báo cáo với Bộ Chính trị kiểm điểm sau 10 năm thi hành “Nghị quyết 36 của Bộ Chính trị về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài” (26/3/2004 – 26/03/2014) đã thu đạt được những gì và có bao nhiêu “kế họach” lớn, nhỏ đã tan ra mây khói?
XÔI HỎNG BỎNG KHÔNG
Cái hỏng đầu tiên và quan trọng nhất là nhà nước CSVN đã thất bại thê thảm trong kế họach chiêu dụ trên 300.000 trí thức, chuyên gia “Việt kiều” về giúp nước.
Sau 10 năm, số Trí thức-chuyên gia “Việt kiều” chịu quay về giúp Việt Nam chỉ mới chưa đầy 400 người, ở vào giai đọan cao nhất.
Lý do rất đơn giản: đảng vẫn không tin “trí thức Việt kiều” trong khi “trí thức đảng” học hành không bằng ai, nhưng lại được đảng giao quyền “cai trị” trí thức hải ngọai.
Để có bằng chứng, rất tiếc tôi (Phạm Trần) phải lập lại thông tin dưới đây lần thứ 3, sau khi đã sử dụng 2 lần trong các bài viết trước vì tình trạng vẫn như thế.
Năm 2012, Giáo sư Nguyễn Quốc Vọng của Đại học danh tiếng Kỹ thuật và Thiết kế RMIT, Úc Đại Lợi, nói: “ Qua thực tiễn 2 năm trở về nước được làm việc, tôi thấy có những nguyên nhân chính sau đây:
– Việt Nam chưa thực sự thấy được mối quan hệ hữu cơ giữa khoa học kỹ thuật và phát triển kinh tế, nên một số chính sách và cơ chế để thu hút trí thức không được nghiêm chỉnh thực hiện. Một khi trí thức trong nước chưa được sử dụng đúng mức thì việc trở về của trí thức Việt kiều sẽ không bao giờ xảy ra vì họ đang được làm việc trong điều kiện tốt nhất của nước sở tại;
– Chưa làm tốt việc cung cấp thông tin về những vấn đề nhạy cảm (ví dụ như biên giới biển đảo, Hoàng Sa Trường Sa, quặng mỏ bauxit Tây Nguyên…) nên trí thức Việt kiều không thấy được Việt Nam đã có sự thay đổi, tiến bộ về mặt dân chủ, phản biện, tự do tôn giáo, từ đó đâm ra hoang mang, lo sợ… không muốn trở về nước;
– Chưa có đầu mối để tìm tòi, liên lạc, mời gọi… do chính trí thức Việt kiều đảm trách vì trong hàng trăm, hàng ngàn công nghệ cao của thế giới, phải là người có kiến thức mới có thể lựa chọn những công nghệ tốt nhất, thích hơp nhất và có lợi nhất cho đất nước;
– Thủ tục giấy tờ về nước phải thông qua nhiều Bộ ngành nên rất rườm rà, mất thời gian;
– Tinh thần “vọng ngoại” của một số ít người trong nước vẫn thích “mắt xanh mũi lõ” dù rằng có nhiều khi “mắt xanh mũi lõ” lại ở trình độ khoa học kỹ thuật thấp hơn, không hiểu Việt Nam hơn trí thức Việt kiều;
– Tính “địa phương” và “trong ngoài” còn khá phổ biến, môi trường làm việc dựa nhiều vào cảm tính nên nhiều khi không công bằng, thiếu tin tưởng làm trí thức Việt kiều trở thành những thứ trang trí, không có thực quyền và cơ hội đóng góp sở trường khoa học kỹ thuật của mình.
Giáo sư Vọng kết luận bài viết của ông trên Tạp chí Tia Sáng (Bộ Khoa học và Công nghệ) ngày 07/09/2010: “Từ những năm 1970 Hàn Quốc đã mạnh dạn triển khai chính sách mời gọi trí thức Hàn kiều ở Mỹ trở về đóng góp. Ba mươi năm sau Hàn Quốc vươn lên trở thành nền kinh tế thứ 13 của thế giới. Cũng thế Trung Quốc đã ứng dụng chính sách ưu đãi mời gọi trí thức Hoa kiều, và họ cũng đã tiến rất nhanh trong công cuộc hiện đại hoá công nghiệp hoá đất nước, trở thành nền kinh tế thứ ba trên thế giới. Chỉ có Việt Nam, đã hơn ba mươi năm sau ngày giải phóng, mà vẫn còn loay hoay mãi với câu hỏi về trí thức Việt kiều.”
Ông Nguyễn Di Niên, nguyên Bộ trưởng Ngọai giao là người có nhiều công trong việc hình thành Nghị quyết 36 giải thích với Báo Việt Nam Net ngày 23/01/2012: “ Cái quan trọng nhất là làm thế nào để sự phân biệt giảm đi và người trong nước phải gần gũi hơn, chìa bàn tay ra để kéo lại. Như chuyện anh muốn vỗ tay thì phải vỗ bằng hai tay, chứ không thể một tay. Nó phải từ hai phía. Hai phía phải tìm cách để cùng gặp nhau. Cần thúc đẩy, làm mạnh hơn như tạo điều kiện cho kiều bào đầu tư rộng rãi hơn.”
Ông Niên nhìn nhận con đường kéo được người Việt ở nước ngòai về hợp tác với Nhà nước CSVN còn dài.
Ông nói: “Gần tròn 10 năm thực hiện Nghị quyết, nhìn lại, không thể phủ nhận đã có những bước rất tốt nhưng đoạn đường còn phải đi tiếp vẫn dài lắm. Nhưng sau 10 năm thì thực tiễn cũng cho thấy cần những đổi mới, bổ sung trong triển khai trên thực tế, có những điều phải sửa, phải chấn chỉnh và quyết liệt hơn.”
Ngòai chuyên gia “Việt kiều”, Đảng cũng thất bại trong kế họach dùng ông Nguyễn Cao Kỳ, nguyên Phó Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa vào công tác “hòa hợp dân tộc”, sau chuyến về Việt Nam đầu tiên của tướng Kỳ vào tháng 01/2003.
Đã có thời gian, dưới thời Chủ tịch Nước Nguyễn Minh Triết-Thủ tướng Phan Văn Khải, nhiều giới trong đảng CSVN đã hy vọng ông Kỳ sẽ tạo được một “gạch nối” để các thành phần Lãnh đạo cũ của Việt Nam Cộng Hòa quay về “hòa hợp” với chế độ mà họ từng cầm súng chống lại.
Rất tiếc, quyết định “tự quên đi qúa khứ hào hùng của một Thiếu tướng Không Quân VNCH” rồi quay lưng lại với các “chiến hữu và đồng bào miền Nam”, để về Việt Nam với hy vọng được chế độ nhờ cậy, ông Kỳ đã bị cả hai phía “Quốc-Cộng” đẩy vào chân tường cô đơn cho đến khi ông qua đời tại Mã Lai Á tháng 7/2011.
THẤT BẠI Ở NƯỚC NGÒAI
Trong khi đó, vào dịp kiểm điểm “thành tích” sau 8 năm thi hành Nghị quyết 36 (2012), Thứ trường Nguyễn Thanh Sơn đã thừa nhận: “ Công tác nắm tình hình ở nhiều địa bàn chưa sâu, chưa có biện pháp hữu hiệu trong việc củng cố các hội đoàn tích cực, phát triển lực lượng nòng cốt làm cơ sở để vận động tập hợp kiều bào. Chưa mạnh dạn mở rộng diện tiếp xúc, đấu tranh trực diện với một số đối tượng có các hoạt động đi ngược lại lợi ích của cộng đồng và đất nước.
Công tác thông tin, tuyên truyền đối với cộng đồng NVNONN tiếp tục được đẩy mạnh hơn so với trước, nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu ngày càng lớn và đa dạng của kiều bào.” (Báo điện tử ĐCSVN, 20-01-2012)
Tuy nhiên, theo dõi từ “lời nói đến hành động” của viên Thứ trưởng 57 tuổi Nguyễn Thanh Sơn mới thấy bên cạnh những lời “đường mật hòa giải-hòa hợp” để đòan kết dân tộc, còn hiện ra một Nguyễn Thanh Sơn có đầu óc “quân phiệt quyết ăn thua đủ” với những “Việt kiều” không muốn “hòa hợp” với chế độc độc tài CSVN.
Ông Sơn đã để lộ ra tâm địa này trong bài viết trên báo Quân đội Nhân dân ngày 12/09/2011: “Các cơ quan đại diện (của Chính phủ ở nước ngòai) cần mạnh dạn mở rộng diện tiếp xúc cộng đồng, kết hợp công tác vận động cộng đồng với vận động chính quyền, bạn bè sở tại nhằm phân hóa cô lập các phần tử cực đoan. Đồng thời, tăng cường phối hợp với các cơ quan liên quan, chủ động trong công tác đấu tranh với các phần tử lợi dụng vấn đề dân chủ, nhân quyền, tôn giáo để chống phá đất nước.”
Thái độ hằn học và xuyên tạc người Việt có lập trường chống chính quyền CSVN của ông Sơn không mới.
Nhưng khi các cấp lãnh đạo khác coi người Việt tị nan chống chế độ là “chống phá đất nước” và “nhân dân ta” thì ông Sơn đã nói chệch đi “chống lại đất nước”.
Thực tế không người Việt Nam nào nuôi manh tâm “chống lại tổ quốc và nhân dân”, ngọai trừ những kẻ làm tay sai cho ngọai bang hay để bảo vệ quyền lợi ích kỷ của phe nhóm. Nhưng có người Việt chống lại chủ nghĩa Cộng sản (hay đang được gọi ở trong nước là Chủ nghĩa Mác-Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh) và chính quyền độc tài và phản dân chủ CSVN vì chính quyền này đã và đang tước đọct mọi quyền căn bản của con người Việt Nam.
Ngoài ra ông Nguyễn Thanh Sơn cũng đã từng xuyên tạc lý do bỏ nước ra đi của hàng triệu người dân miền Nam sau ngày 30/4/1975 như ông chứng minh trong cuộc đối thọai với phóng viên Minh Hòa của Đài Tiếng Nói Việt Nam ngày 02/11/2010:
PV: Thưa Thứ trưởng, được biết là ông sẽ đích thân có các cuộc gặp gỡ các phần tử đi ngược lại các lợi ích của dân tộc. Xin ông cho biết cụ thể các cuộc gặp đã được tiến hành như thế nào?
Thứ trưởng Nguyễn Thanh Sơn: Trong quá trình quá trình hòa giải, hòa hợp dân tộc, chúng ta không muốn đặt các tổ chức, cá nhân này ra khỏi vị trí với cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài vì chúng ta muốn cảm hóa họ, cùng họ nhìn nhận một cách khách quan thực chất phát triển của đất nước, nhìn nhận khách quan vị thế phát triển của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Những người này có thể ra đi bằng nhiều con đường khác nhau, họ được tuyên truyền về những nỗi kinh hoàng không có hoặc không tưởng, họ bị nhồi nhét vào đầu quá nhiều những tư tưởng hận thù… “
“…Hiện nay, còn lại bộ phận không nhiều những người đi ngược lại lợi ích dân tộc và họ càng bị phân hóa, bị yếu đi bởi khi chúng ta tổ chức càng nhiều hoạt động ở trong và ngoài nước, bà con càng có nhiều thông tin, càng hướng về quê hương đất nước, hiểu về quê hương đất nước thì càng không tin họ. Chính vì vậy, số lượng dù còn ít nhưng họ lại rất quyết liệt, kiên quyết chống phá chúng ta vì họ đang hoảng loạn trước nguồn cung cấp tài chính của quốc gia sở tại và chính vị thế và uy tín của họ đang bị giảm sút….”
Nhưng ông Sơn không nói ra “quốc gia sở tại” nào đã “cung cấp tài chính” cho những người Việt ở nước ngòai làm cái việc “chống phá chúng ta” không, hay ông chỉ “ăn ốc nói mò” để xuyên tạc lấy điểm với đảng?
Hành động thiếu trong sáng có chú ý xấu này của Thứ trưởng Nguyễn Thanh Sơn đã được lập lại không một chút hổ thẹn nào khi ông ta vu khống số người Việt biểu tình trước Tòa Bạch Ốc chống chuyến thăm Hoa Kỳ của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang ngày 25/07/2013.
Ông Sơn nói: “Tôi cho rằng là những cái biểu tình chống đối của bà con cô bác ở bên ngoài đối với chủ tịch nước vừa qua nó chỉ là những cái hiện tượng. Tôi nghĩ rằng là tất cả mọi người không phải ai cũng muốn như vậy. Có những người chì vì đồng tiền,có những người chì vì nhu cầu cuộc sống, có những người chỉ vì một chút thu nhập thêm mà tham gia những hoạt động đó, chứ trong lòng tôi nghĩ qúy vị cũng không có những suy nghĩ muốn phá hoại quan hệ Mỹ-Việt.” (Trích phỏng vấn của Phố Bolsa TV)
Đáng lẽ ra ông Sơn phải là người hiểu rõ tại sao nhà nước Việt Nam đã thất bại trong kế họach “hòa giải, hòa hợp” dân tộc. Bởi vì đảng CSVN chỉ muốn người Việt ở nước ngòai bảo nhau bồng bế về “hòa hợp” vào với chế độ, chịu nhận quyền cai trị của đảng CSVN để lao động để duy trì chế độ.
Hơn nữa, hai chữ “hòa giải” mới được ông Sơn và một số báo ở Việt Nam sử dụng vài năm nay thôi chứ trước đây họ chỉ dùng hai chữ “hòa hợp”, ngay cả khi các viên chức đảng nói chuyện “bắt tay” quên đi qúa khứ với ông Nguyễn Cao Kỳ.
Ngòai ra Nhà nước cũng chỉ muốn “hội nhập” mà không muốn bị “hòa tan”, chủ trương “đổi mới” mà kiên quyết “không đổi màu” theo định hướng của Hội đồng Lý luận Trung ương mà đã có thời nằm trong tay Tổng Bí thư đảng Nguyễn Phú Trọng khi ông giữ chức Trưởng ban Tư tưởng-Văn hoá Trung ương (bây giờ gọi là Ban Tuyên Giáo).
Thực tế tình hình “hòa giải-hòa hợp” hiện nay giữa người Việt Nam ở nước ngoài và chính quyền trong nước đã rã ra từng mảnh vụn vì làm theo quan niệm “ta thắng trận, ta phải chế ngự” của những người như ông Nguyễn Thanh Sơn và đảng CSVN.
Như vậy hy vọng của ông Sơn, sau chuyến đi 3 nước Canada-Hoa Kỳ và Nam Hàn trong tháng 3/2014, sẽ tạo được những “viên gạch, những nền móng” để người Việt ở nước ngoài “trở về được vững chắc, để thực sự là hòa giải, hòa hợp” với đảng và nhà nước CSVN coi như đã tan vỡ trong trứng nước.
MẠ LỴ VÀ QUYÊN TẠC
Tại sao? Bởi vì trong đảng CSVN vẫn còn những người như ông Đào Dục Tú viết “mạ lỵ đồng bào phải bỏ nước ra đi” và “xuyên tạc về cuộc chiến” kết thúc ngày 30/04/1975.
Với tiêu đề: “Hòa giải hòa hợp”- tiếng gọi không vô vọng nữa!” đăng trên 2 báo điện tử “Nguyễn Tấn Dũng” (nguyentandung.org) và “Trương Tấn Sang” (truongtansang.net) ra ngày Thứ bảy, 19/04/2014, tác gỉa Đào Dục Tú viết về Cộng đồng người Việt Nam ở nước ngòai, phần đông ở Bắc Mỹ và Châu Âu như thế này: “Nhìn lại cái gốc sinh ra cộng đồng ấy là cuộc chiến tranh Việt Nam do người Mỹ tiến hành và đủ thứ hệ lụy của nó, người ta không thể không thấy một thực tế hiển nhiên. Đó là chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của người Mỹ thập kỷ sáu mươi và nửa đầu thập kỷ 70 thế kỷ trước, theo đà tăng tốc độ và cường độ chiến tranh Việt Nam mỗi ngày một cao hơn, đã dần dần khoác lên vai, chất lên lưng người Việt bên kia vĩ tuyến 17, từ con sông tuyến Bến Hải đổ vào tới mũi Cà Mau….”
Hay:”Có lẽ nào giữa người Việt với nhau, gần 40 năm sau chiến tranh, chia cắt, hận thù vẫn cố chấp khư khư ôm “mối thù truyền kiếp” thực ra phần nhiều do tình thế lịch sử chiến tranh Việt Nam của Mỹ gây nên.”
Ô hay, đâu phải tự nhiên mà nửa triệu Quân Mỹ đã lần lượt tham chiến ở miền Nam Việt Nam từ năm 1960 đến khi có Hiệp định Ba Lê tháng 1/1973? Và Hoa Kỳ đã “tiến hành” hay “gây nên” cuộc chiến 20 năm ở Việt Nam Cộng hòa để làm gì?
Bằng chứng lịch sử sáng như ban ngày đã chỉ rõ chính đảng Lao động Việt Nam, sau này đổi tên thành đảng Cộng sản, đã chủ mưu “tiến hành” và “gây nên” cuộc chiến từ Vỹ tuyến 17 xuống mũi Cà Mâu của miền Nam Việt Nam từ năm 1959. Sự có mặt của quân đội Mỹ và các nước đồng minh khác, trong số đó có Nam Hàn (Nam Triều Tiên) là để giúp Quân và Dân miền Nam bảo vệ đất nước trước làn sóng xâm lăng của đội quân miền Bắc.
Như vậy, những “hệ lụy của nó” là do chính miền Bắc đã gây ra cho nhân dân miền Nam, trong đó bao gồm cả tội ác chính trị và kinh tế từ sau 30/04/1975. Các chủ trương: bắt bỏ tù lao động với điều kiện ăn ở, y tế khe khắt đã làm chết nhiều người mang danh “học tập cải tạo” được áp đặt lên hàng trăm ngàn quân-cán-chính VNCH; chính sách “đánh tư sản mại bản” được gọi là “cải tạo kinh tế” nhằm tiêu diệt tận gốc tầng lớp tư sản ở miền Nam.
Thêm vào đó là kế họach “đuổi dân thành phố và vợ con binh lính VNCH” đi vùng “kinh tế mới” không có điều kiện sống để cướp lấy tài sản của họ còn là nguyên nhân khiến hàng trăm ngàn người dân miền Nam đã liều chết vuợt biển hay vượt đường bộ qua ngả Cao Miên đến Thái Lan và các nước Đông Nam Á tìm tự do trong thập niêm 80.
Lịch sử “Thuyền nhân” (Boat People) và hàng chục ngàn xác người dân vô tội bị chết chìm, bị hải tặc tấn công trên Biển Đông chẳng lẽ cũng do người Mỹ “tiến hành” và “gây nên” hay sao?
Với cái nhìn chủ ý xuyên tạc và ngụy biện như thế về nguyên nhân cuộc chiến trong Nam và lý do dân phải bỏ nước ra đi nên không riêng Tác gỉa Đào Dục Tú mà cả Thứ trường Nguyễn Thanh Sơn đã chạy trốn trách nhiệm cho đảng khi ông nói rằng: “Chúng ta cần hiểu đúng về sự ra đi của họ. Họ ra đi không phải vì hận thù với đất nước, mà vì chưa hiểu đúng về chế độ, vì mưu cầu một cuộc sống khác tốt hơn trong khi chúng ta còn khó khăn.”
Một lần nữa, ông Sơn đã lẫn lộn giữa “hận thù với đất nước” và “hận thù với chế độ”. Và khi nói rằng người bỏ đi “vì chưa hiểu đúng về chế độ, vì mưu cầu một cuộc sống khác tốt hơn” là viên chức ngọai giao cấp Thứ trưởng này đã xuyên tạc nguyên nhân “đành phải nhắm mắt đưa chân” của Thuyền nhân sau khi 25 triệu người dân miền Nam đã nhìn rõ “mặt thật” của người Cộng sản Việt Nam sau ngày 30/04/1975.
Vì vậy không làm gì có chuyện “giá như” theo lối lý luận “con lươn” của người viết tên Đào Dục Tú. Ông Tú viết: “Giá như tinh thần “Không có bên thắng bên thua giữa người Việt với người Việt. Chỉ có nhân dân Việt Nam là người chiến thắng cuối cùng cuộc chiến tranh này” được thấu suốt thời kỳ hậu chiến, đi vào lòng người. Giá như… Thật đáng tiếc những hành xử duy ý chí trong lĩnh vực kinh tế và quản lý xã hội thời hậu chiến như đổ dầu chữa cháy…”
Hẳn ông Tú còn nhớ chính Tổng bí thư Lê Duẩn đã nói câu “Không có bên thắng bên thua giữa người Việt với người Việt. Chỉ có nhân dân Việt Nam là người chiến thắng cuối cùng cuộc chiến tranh này”, nhưng cũng chính ông Lê Duẩn đã quyết định “đầy đọa” quân-dân miền Nam xuống tận bùn đen và chết chóc sau ngày 30/4/1975. Rồi cũng chính cái Bộ Chính trị do Lê Duẩn đứng đầu đã có những quyết sách san bằng nền kinh tế trù phú trong Nam xuống ngang hàng với xã hội bần cùng ở miền Bắc. Và cũng chính ông ta và tập thể cầm quyền của CSVN phải chịu trách nhiệm với lịch sử về những tan nát, đẩy đất nước đến bờ vực thẳm sau 10 năm hậu chiến.
Và chẳng lẽ ông Lê Duẩn và những người như các ông Trường Chinh Đặng Xuân Khu, Phạm Văn Đồng, Phạm Hùng, Tố Hữu, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười và Võ Văn Kiệt, v.v… không có trách nhiệm gì trước lịch sử đau thương của dân tộc về những xác người Việt Nam trôi dạt trên Biển Đông hay sao?
Và giờ đây, sau gần 30 năm được gọi là “đổi mới”, tại sao Việt Nam vẫn còn bần cùng, lạc hậu và chậm tiến? Tại sao luân thường, đạo lý dân tộc của trên 4.000 năm văn hiến đã bị đảo lộn? Tại sao kinh tế vẫn hòan tòan lệ thuộc vào nước ngòai, đặc biệt Trung Cộng? Tại sao công nhân và nông dân là hai thành phần đóng góp tài sản và xương máu nhiều nhất cho đảng CSVN tồn tại đang phải chịu thiệt thòi nhất trong xã hội? Tại sao bất công xã hội vẫn chồng cao như núi? Và tại sao “quốc nạn” tham nhũng, lãng phí trong hàng ngũ cán bộ, đảng viên—nhất là những kẻ có chức có quyền vẫn còn “nghiêm trọng.”
Cũng tại sao thanh niên là thành phần rường cột của quốc gia đã phai nhạt lý tưởng, không muốn tôi luyện và trau dồi kiến thức để xây dựng đất nước tiến lên “ngang tầm thời đại” với các dân tộc láng giềng? Tại sao trí thức hết còn được kính trọng là các bậc tôn sư? Và tại sao tội ác trong xã hội do giới thanh thiếu niên gây ra đã đến mức báo động? Tại sao Việt Nam tiếp tục có trên 10.000 người chết vì tai nạn lưu thông hàng năm. Và nhiều người dân cũng muốn đảng trả lời tại sao một dân tộc anh hùng như người Việt Nam mà vẫn còn chia rẽ trước hiểm họa xâm lăng của Trung Cộng?
Vì vậy mà thắc mắc của Tác gỉa Đào Dục Tú hỏi tại sao 39 năm sau ngày 30/04/1975 vẫn còn “biết bao nhiêu người khác bất chấp thực tế lịch sử, cứ để nấm mồ quá khứ mang tên “quốc hận” đè nặng tâm hồn, bịt chặt mọi cánh cửa hòa giải” có cần phải trả lời không?
Tất nhiên không cần thiết vì sự tồn tại bất chấp lòng dân và trào lưu tiến bộ của thời đại hậu Cộng sản Liên Xô của đảng độc tài Cộng sản Việt Nam đã “bịt chặt mọi cánh cửa hòa giải” với những nạn nhân của chế độ.
Phạm Trần