“Nếu ngân hàng cho bạn vay một ngàn đô la, ngân hàng là ông chủ của bạn. Nhưng nếu ngân hàng cho bạn vay một triệu đô la, bạn sẽ là ông chủ của ngân hàng.” (If the bank lends you a thousand dollars, the bank owns you. But if the bank lends you a million dollars, you own the bank).
Trung Quốc đang là chủ nợ lớn của Mỹ do đó phải o bế để bảo vệ, không cho nền kinh tế Mỹ bị sập. Chính như thế nên chủ nợ Trung Quốc đã trở thành…con nợ của Mỹ.
Dẫu quân đội Trung Quốc thiếu hiệu năng với nạn tham nhũng như đã bàn tuần trước, sức mạnh quân sự của Trung Quốc đã đang và sẽ là đề tài gây quan ngại. Trung Quốc xây dựng sức mạnh quân sự là để chiếm lĩnh vị trí siêu cường của Mỹ. Mỹ mạnh hơn Trung Quốc, do đó Trung Quốc còn dè chừng. Mỹ lép vế thì Trung Quốc tha hồ làm chủ, 80 phần trăm Biển Đông sẽ thuộc về họ.
Trên thực tế, Trung Quốc sẽ vượt qua những hạn chế hiện tại để xây dựng sức mạnh của mình như thế nào?
Theo một phân tích gia người Mỹ là Scobell thì Trung Quốc tiến hành việc xây dựng sức mạnh của một siêu cường quân sự theo 4 hướng:
1. Xây dựng một lực lượng Hải quân mạnh mẽ, kiểm soát các vùng biển mở và từng bước thách thức sự thống trị toàn cầu của Mỹ.
2. Tận dụng các nguồn cung nước ngoài và dựa vào năng lực sản xuất nội địa để phát triển kỹ nghệ quốc phòng với mục tiêu ít nhất là vượt Nga.
3. Phát triển chiến lược theo hướng “nhà ai nấy rạng”. Chấp nhận sự vượt trội kỹ thuật quân sự Mỹ, chiến lược phòng thủ của Trung Quốc tập trung vào việc giảm bớt lợi thế của Mỹ. Ví dụ như phát triển vũ khí chống vệ tinh, khai triển chiến tranh Internet.
4. Thực hiện ý nguyện của Mao, xây dựng quân đội không chỉ để bảo vệ đất nước, mà còn là động lực phát triển kinh tế, nâng cao uy tín của đất nước và là niềm tự hào của người Trung Quốc.
Từ năm 2009 Bộ trưởng Quốc phòng Lương Quang Liệt tiết lộ kế hoạch hiện đại hóa quân đội này rồi. Họ Lương muốn nâng cao khả năng tác chiến xa bờ của hải quân để làm chủ 80 phần trăm biển Đông. Song song, không quân cũng phải bay xa hơn để phối hợp với hải quân trong tham vọng bành trướng này. Ngoài ra, họ Lương cũng đề cập đến việc tăng cường năng lực của pháo binh bao gồm vũ khí nguyên tử lẫn vũ khí quy ước.
Nhưng muốn là một việc, làm được hay không là một việc. Theo nhiều nhà quan sát thì sức mạnh của Trung Quốc đang được phóng đại, không chỉ bởi các cường quốc mà còn bởi chính Bắc Kinh.
Trên thực tế thì Trung Quốc đã đạt được những bước phát triển mạnh về hải quân, không quân và lục quân, thí dụ hải quân có lực lượng trong hạm đội hải quân lớn nhất tại châu Á. Trên Tạp chí Foreign Affair nhà nghiên cứu chiến lược Drew Thomson cho rằng Quân đội Trung Quốc (PLA) không đáng sợ như người ta vẫn tưởng.
Giống như một máy computer muốn họat động tốt thì phải vừa tối về “hardware” là máy móc, các mạch chip v.v.. và “software” là các nhu liệu lập trình. So sánh với tiêu chuẩn của một siêu cường quân sự thì PLA vừa yếu về phần “cứng” là vũ khí và còn yếu về “phần mềm” là tính chuyên nghiệp và tinh nhuệ của lực lượng và tinh thần chiến đấu của người lính.
Về tính chuyên nghiệp và tinh thần chiến đấu thì chúng ta đã bàn trong tuần trước, qua các yếu tố tham nhũng, bè phái và tính “công tử” của đội quân tòan các đấng con trai duy nhất để nối dõi tông đường. Bây giờ chúng ta bàn sang phần “cứng”.
Phần “cứng” của PLA
Cho tới nay kỹ nghệ quốc phòng của Trung Quốc còn phụ thuộc vào kỹ thuật của nước ngoài, đặc biệt là của Nga.
Sau nhiều năm phát triển Trung Quốc vẫn chưa thể tự chế tạo được động cơ cho các chiến đấu cơ mà phải mua của Nga. Các máy bay do Trung Quốc tự chế tạo thì chỉ có phần vỏ, còn lại nhập phần ruột và chỉ sử dụng trong thao diễn còn các máy bay quân sự cơ tối tân nhất đều phải mua, từ chiến đấu cơ Sukhoi 35, vận tải cơ IL 476, máy bay tiếp liệu trên không IL 478 và cả dàn phòng không S – 400 v.v.
Theo ông Ruslan Pukhov, nguyên là Giám đốc Trung tâm phân tích kỹ thuật chiến lược, đồng thời là cố vấn của bộ Quốc phòng Nga, cho rằng Trung Quốc cần phải mất ít nhất một thập niên nữa để hoàn thiện động cơ máy bay trong số các kỹ thuật quân sự chủ chốt khác. Ông nói: “Trung Quốc vẫn còn phụ thuộc vào chúng tôi và sẽ tiếp tục phụ thuộc như vậy trong thời gian tới“.
Trong khi đó thì giới chuyên gia Mỹ cho rằng cần phải nhiều năm, thậm chí nhiều thập niên nữa thì Trung Quốc mới có thể chế tạo được loại hoả tiễn đạn đạo tấn công tàu chiến.
Đối với ông Vasily Kashin, một chuyên gia chiến lược chuyên nghiên cứu kỹ nghệ quốc phòng Trung Quốc cho rằng dù đã có những bước tiến đáng kể trong việc phát triển kỹ nghệ vũ khí, các bước tiến bộ này của Trung Quốc đang bị thổi phồng cùng với nỗ lực tuyên truyền đánh bóng của Trung Quốc.
Đa số giới phân tích chiến lược đều cho rằng Trung Quốc hiện không có khả năng thách đố tính ưu thế của Mỹ trong vùng Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương.
Lực lượng trên bộ của Trung Quốc được trang bị với kho vũ khí cũ kỹ của những năm 1980 và thiếu hụt đáng kể về khả năng chỉ huy và kiểm soát, phòng không, tiếp liệu và thông tin liên lạc.
Không quân của Trung Quốc cũng vậy, lạc hậu so với không quân của các cường quốc Tây Âu, cho dù Trung Quốc có khoảng 100 tiêm kích mới nhất Su – 27 của Nga và đã ký hợp đồng mua máy bay Su – 33s, có thể tác chiến từ hàng không mẫu hạm. Tuy nhiên hàng không mẫu hạm của họ chỉ mới sắp sửa hoàn tất và không thể sử dụng cho tác chiến, chỉ đế huấn luyện.
Theo nhận định thì Trung Quốc còn phải mất nhiều thập niên nữa thì mới có thể thách thức được ưu thế quân sự của Mỹ. Tuy nhiên đến lúc đó thì ai biết được Mỹ sẽ tiến xa đến mức nào?
Để qua mặt Mỹ thì phải chạy đua vũ trang. Liệu Trung Quốc có kiệt sức vì cuộc chạy đua này?
Kiệt sức trên đường trường
Dù Trung Quốc hiện có gối đệm tài chánh lớn hàng ngàn tỉ Mỹ kim dự trữ nhưng vẫn chưa đủ. Lý do là nền kinh tế của Trung Quốc lớn nhưng không mạnh, lại có nhiều nhược điểm.
Mặt khác, sức mạnh kinh tế tùy thuộc vào ổn định chính trị: liệu cuộc chạy đua này sẽ không gây ra tác động nào đến ổn định chính trị?
Thứ nhất, các chi tiêu quân sự khổng lồ sẽ tạo cảnh rối ren nội bộ về chiến lược vì không phải tòan bộ giới cầm quyền Trung Quốc đều là diều hâu cả và hiện vẫn cò nhiều người muốn đầu tư số vốn đã tích lũy vào các dự án xã hội hay phát triển nông thôn. Hiện hai phe vẫn đang ngấm ngầm tranh chấp với con đường tiếp tục phát triển vũ trang mạnh mẽ để thực hiện nhanh giấc mộng bá chủ thế giới hay tập trung tài nguyên để phát triển thành một cường quốc kinh tế.
Cho đến nay giới diều hâu đã tạm lấn lướt. Không kể vụ khủng hỏang quyền lực trong vụ Bạc Hy Lai đã cho phe quân nhân nắm cán cân quyền lực khi đại hội tòan quốc sắp diễn ra vào cuối năm nay, về lý luận thì phe nay nhấn mạnh đến tấm gương của Nhật: là cường quốc kinh tế, Nhật phải trông cậy vào ô dù quân sự của Mỹ.
Theo họ thì Trung Quốc không thể trông cậy vào ai và sức mạnh kinh tế phải đi đôi với sức mạnh quân sự. Do đó phải chạy đua.
Thế nhưng cuộc chạy đua vũ trang trong thập niên 80 của thế kỷ 20 là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến việc Liên Xô phá sản. Ông Bob Dole, nguyên là lãnh tụ của Cộng Hoà tại Thượng viện Mỹ, từng là ứng cử viên tổng thống, tuyên bố trên tờ the New York Times: “Bằng cách tăng cường lực lượng phòng vệ chứ không phải tấn công, Reagan đã làm cho Liên Xô sụp đổ”.
Trong khi đó thì tài liệu giải mật về biên bản các cuộc họp của Bộ Chính trị Liên Xô ghi nhận nỗi lo lắng về việc xây dựng hoả tiễn phòng vệ trong chương trình “Chiến tranh giữa các vì sao”, lo lắng về sự cách biệt ngày càng gia tăng về quân sự và kỹ thuật giữa Mỹ với Liên Xô.
Công lao này thuộc về tổng thống thứ 40 của Mỹ, ông Ronald Reagean, được xem là người thúc đẩy cho sự tự hủy diệt của Liên Xô. Từ khi nhậm chức tổng thống, ông Reagan đã buộc Liên Xô phải căng sức chạy theo Mỹ trong cuộc chạy đua vũ trang này,
Bởi vậy, sau khi Ronald Reagan tạ thế vào tháng Sáu năm 2004, tạp chí The Economist tại Anh đã đăng hình ông lên trang bìa với dòng chữ: Người chiến thắng chủ nghĩa cộng sản.
Cuộc chạy đua vũ trang này làm cho Liên Xô kiệt quệ và bộc lộ những yếu kém ngay trong bản chất của nó. Năng lực của một chính quyền thể hiện khả năng phản ứng nhanh nhạy và hiệu quả trong những cuộc khủng hoảng hay tình trạng khẩn cấp và nhà nước Liên Xô đã hoàn toàn lúng túng trong vụ nổ lò phản ứng tại Ukerain hay vụ động đất tại Armenia. Đến khi lên cầm quyền thì ông Mikhail Gorbachev nhận ra rằng Liên Xô không thể tiếp tục tồn tại theo phương thức cũ.
Vì cạnh tranh với Mỹ trong mưu toan bá chủ hoàn cầu nên Liên Xô đã tan rã sau khi không kham nổi tham vọng này và bộc lộ những yếu kém và bất cập trong cơ chế chính trị – kinh tế và xã hội của mình.
Trường hợp Trung Quốc cũng tương tự. Nuôi tham vọng trở thành siêu cường số một nhưng tự thân nó thì chứa đầy những mầm mống tan rã.
Sức mạnh kinh tế của Trung Quốc dựa vào thị trường thế giới. Nhưng hiện chính cuộc chạy đua vũ trang và thái độ bá quyền của nó đã khiến một phần lớn của thế giới là ASEAN, Nam Hàn, Nhật, Mỹ và Úc liên hiệp lại nhau với nhau. Trung Quốc càng chạy đua, càng diều hâu, sẽ bị thế giới xa lánh và bất lợi về kinh tế.
Đến lúc đó thì nước Trung Quốc sẽ hụt đà, mất cân bằng có còn là Trung Quốc “ổn định” với ngân sách an ninh nội địa còn cao hơn ngân sách quốc phòng của hôm nay?
Nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa không mang danh xưng liên bang nhưng lại là tập hợp của các sắc tộc bị xâm lược chung quanh nước chủ nhà Đại Hán. Một khi chính quyền trung ương yếu đi thì phong trào ly khai sẽ nổi lên, từ Tây Tạng, Tân Cương cho đến Mãn Châu.
Trong khi đó thì thể chế chính trị của nó chỉ phục vụ một thiểu số đặc quyền và cái chính quyền xưng là “Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa” chẳng dính dáng chút nào đến nhân dân Trung Hoa. Chủ nghĩa cộng sản đã lỗi thời và Đảng cộng sản Trung Quốc đang bám vào tinh thần ái quốc kiểu Đại Hán.
Với những bất cập này, Trung Quốc sẽ chạy theo đối thủ của mình như thế nào?
Chạy theo đối thủ
Các thông tin cho thấy còn lâu Trung Quốc mới qua mặt Mỹ về kinh tế. Kinh tế Trung Quốc lớn nhưng không mạnh và nền kinh tế Mỹ mạnh gấp hai Trung Quốc.
Theo Quỹ Tiền tệ Quốc tế, thu nhập đầu người (GDP per capita) của Trung Quốc trong năm 2010 là 4,82 USD, so với của Mỹ là 47,84 USD. Cứ giữ nguyên tốc độ tăng trưởng này thì còn lâu Trung Quốc mới bắt kịp Mỹ. Với quá nhiều mầm mống xung đột, bấp bênh về tài nguyên cũng như đã đạt tới mức tăng trưởng bão hoà: tốc độ tăng trưởng trên sẽ có lúc giảm xuống và theo các kinh tế gia cho rằng Trung Quốc phải mất gần 50 năm nữa mới kịp Nhật và 100 năm nữa mới kịp Mỹ.
Nhiều người cho rằng Mỹ đã hết thời vì hàng Trung Quốc tràn ngập nước Mỹ: Trung Quốc bỏ tiền ra mau tiền Mỹ để phá giá đồng tiền để xuất cảng hàng vào Mỹ.
Tuy nhiên trong bài “‘Made in China,’ but Still Profiting Americans” (‘Chế tạo tại Trung Quốc’, tuy nhiên người Mỹ vẫn hưởng lợi) đăng trên New York Time ngày 15.8.20121, ký giả Catherine Rampell đã dẫn kết quả nghiên cứu của Ngân hàng Dự trữ Liên bang tại chi nhánh San Franscico, cho thấy:
– Với mỗi Mỹ kim hàng “Made in China” bán được tại Mỹ, Trung Quốc chỉ mang về nước cao tay là 45 xu. Với các sản phẩm bán lẻ, Trung Quốc chỉ mang về được 36 xu.
– Cô số 55 hay 64 xu còn lại vào tay ngườ Mỹ gồm các dịch vụ vận chuyển, thuê kho hàng, luơng cho người bán hàng, chi phí quảng cáo cho món hàng, lợi tức cho các cổ đông của các siêu thị nhân bán các món hàng này.
– Tuy nhiên số lượng hàng nhập cảng từ Trung Quốc chiếm tỷ lệ khá nhỏ trong chi tiêu của người Mỹ.
– Trong tổng số tiều chi tiêu của người Mỹ chỉ có 13.9 phần trăm dành cho hàng nhập cảng, kể cả nhập cảng “nguyên hàng” hay “phụ tùng”. Và trong số này thì hàng nhập cảng từ Trung Quốc chỉ chiếm có 1.9 phần trăm tổng số tiền chi tiêu của người Mỹ.
Trung Quốc còn bỏ tiền ra mua công khố phiểu để trở thành chủ nợ chính của Mỹ và đây cũng là điểm “hết thời” của Mỹ. Ở đây chúng ta không thể không dẫn lại phát biểu nổi tiếng của nhà kinh tế Pháp Paul R. La Monica: “Nếu ngân hàng cho bạn vay một ngàn đô la, ngân hàng là ông chủ của bạn. Nhưng nếu ngân hàng cho bạn vay một triệu đô la, bạn sẽ là ông chủ của ngân hàng.” (If the bank lends you a thousand dollars, the bank owns you. But if the bank lends you a million dollars, you own the bank).
Trung Quốc đang là chủ nợ lớn của Mỹ do đó phải o bế để bảo vệ, không cho nền kinh tế Mỹ bị sập. Chính như thế nên chủ nợ Trung Quốc đã trở thành…con nợ của Mỹ.
Nếu đồng tiền bị giảm giá thì hàng nhập cảng sẽ đắt hơn và hàng xuất cảng sẽ rẻ hơn: đây chính là yếu tố kích thích kinh tế nội địa và tạo công ăn việc làm. Tiền giảm giá thì dân trong nước sẽ ít du lịch nước ngoài hơn và do đó cũng chỉ tiêu pha trong nước, đây cũng là yếu tố kích thích thị trường nội địa, nhất là ngành du lịch.
Để được như thế, từ hơn 10 năm nay Trung Quốc đã liên tục can thiệp để làm yếu đồng tiền của mình và hầu như bỏ ngoài tai các lời phàn nàn hay đe doạ của Mỹ. Nay thì đã đến lúc Mỹ ra tay, chơi trò dĩ độc trị độc bằng cách phá giá đồng tiền của mình.
Trung Quốc đã thao túng hối suất nhân dân tệ (NDT) với Mỹ kim bằng cách mỗi ngày bỏ tiền ra để mua vào 1 tỷ Mỹ kim và mua như thế trong gần 10 năm để giữ nhu cầu cao đối với tiền Mỹ, do đó giữ giá tiền Mỹ cao lên và nhờ đó bảo vệ công ăn việc làm của người dân Trung Quốc và bảo đảm sự ổn định chính trị khi ai cũng có công ăn việc làm. Số lượng tiền Mỹ này không phải giữ nguyên một chỗ mà còn dùng vào việc khác, thí dụ dùng để mua tiền Úc nhằm thanh toán các giao dịch khoáng sản. Cho đến qúy III của năm 2010 số lượng dự trữ ngoại tệ của Trung Quốc hiện tại đã lên tới hơn 2,500 tỷ Mỹ kim.
Chính vì thế nên cán cân mậu dịch Mỹ – Trung đã nghiêng hẳn về phía Trung Quốc và trong khi Trung Quốc tận hưởng tình trạng “xuất siêu” (xuất cảng nhiều hơn nhập cảng) thì Mỹ lâm tình trạng “nhập siêu” (nhập nhiều hơn xuất). Từ lâu các nhà lập pháp Mỹ đã tranh cãi rất nhiều về đề tài này cũng như gây áp lực lên giới hành pháp. Theo họ thì Mỹ có thể tạo ra nửa triệu việc làm trong vòng 2 năm và làm hồi sinh các thành phố kỹ nghệ vang bóng một thời tại các bang Michigan, Illinois, Indiana, Ohio và Wisconsin mà không tốn một đồng xu nào cả: chỉ đơn giản buộc Trung Quốc ngừng hẳn việc thao túng tiền tệ, ngừng việc làm cho đồng Nhân dân tệ yếu một cách giả tạo để thúc đẩy xuất cảng và tăng trưởng kinh tế.
Đó là chiêu thức mà Trung Quốc đã theo đuổi từ bao nhiêu năm nay, sau khi thực hiện việc mở cửa và cải cách kinh tế. Để làm việc này, Trung Quốc không đơn thuần sử dụng độc quyền chính trị và kinh tế để ấn định giá hối đoái ở mức nào đó, tương tự chính phủ Việt Nam những năm trước, mà trên thực tế họ còn làm nhiều hơn thế bằng các biện pháp thị trường: bỏ tiền ra để mua đồng Mỹ kim.
Nhưng càng làm như thế, Trung Quốc càng trở thành con tin của Mỹ. Các quan sát viên ước tính rằng cho đến qúy III của năm 2010 số lượng Mỹ kim dự trữ của Trung Quốc đã lên tới hơn 2,500 tỷ Mỹ kim. Sau đó Trung Quốc trích một số Mỹ kim này để mua các trái phiếu mà chính phủ Mỹ phát hành.
Lấy thí dụ một công ty Mỹ đầu tư vào Trung Quốc số tiền 5 tỷ Mỹ kim. Công ty này không đơn giản chuyển tiền từ Mỹ vào Trung Quốc mà lấy ngay tiền của Trung Quốc qua các dịch vụ tài chính từ khoản Trung Quốc cho Mỹ vay qua việc mua trái phiếu.
Các công ty này lấy tiền của Trung Quốc, sử dụng nhân công rẻ mạt của Trung Quốc, sản xuất ra sản phẩm khoảng 100 Mỹ kim nhưng bán sang các thị trường khác với giá 500, 600 Mỹ kim và tiền lời sẽ chảy hết về Mỹ. Xét xem ai lợi hơn ai?
Trong khi đó, nếu Trung Quốc chơi trò phá để kinh tế Mỹ xuống, tiền Mỹ mất giá, kẻ lãnh hậu quả chính là Trung Quốc, 2500 tỷ Mỹ kim chỉ mất giá 1 phần trăm thôi, họ sẽ thiệt hại bao nhiêu. Do đó Trung Quốc phải làm sao để kinh tế Mỹ luôn vững mạnh.
Mà khi đồng tiền Mỹ mất giá thì nước Trung Quốc với 1.2 tỷ dân sẽ sinh loạn. Lúc đó hàng không xuất cảng được thì sản xuất đình đốn và do đó thất nghiệp lên cao, tỷ lệ bần cùng lên cao. Bần cùng sinh đạo tặc, mấy trăm triệu dân không có việc làm thì chóng hay chầy cũng vác dao hay súng đi ăn trộm và có thể quay lại chống chính quyền.
Phạm Đức Đồng Hùng
One Comment
binhkhe
Hy vọng mọi diễn tiến sẽ tốt đẹp giữa TQ/HK theo như bài phân tích của ông Phạm Đức Đồng Hùng .