Cội nguồn, thư pháp Xuân Đào
“Nói tiếng Việt chêm tiếng nước ngoài
là cách ‘tạo dáng’ trong lúc trò chuyện.”
B. Tiếng Việt ở ngoài nước
Những con số thống kê gần đây cho biết hiện có gần bốn triệu người Việt sống ở ngoài nước. Khoảng một nửa số này định cư tại Hoa Kỳ (nhiều nhất ở các tiểu bang California, Texas, Washington, Florida, Virginia…). Các quốc gia khác có khá đông người Việt là Pháp, Úc, Canada, Đức, Đại Hàn, Đài Loan, Campuchia, Thái Lan…
Người Việt định cư ở nước ngoài có thể tạm chia ra làm hai đối tượng:
– Người Việt rời khỏi đất nước khi đã trưởng thành, thông thạo tiếng Việt, tạm gọi: đối tượng A.
– Người Việt sinh ra hoặc trưởng thành ở nước ngoài, không thạo tiếng Việt, tạm gọi: đối tượng B.
1. Quê hương trong nét bút
Đối tượng A hầu hết là người Việt sinh trưởng trong Nam và rời đất nước sau năm 1975 (vào cuối năm 1974, chỉ có khoảng 26 ngàn người Việt tại Hoa Kỳ). 2 Vốn liếng tiếng Việt của nhóm này là “tiếng Việt cũ” (nếu ra đi năm 1975 hoặc không lâu sau đó), hoặc “tiếng Việt cũ” và “tiếng Việt mới” trộn chung (nếu sống khá lâu ở trong nước sau năm 1975).
Nhiều “người di tản buồn” đã ra đi gần như trắng tay, và “chúng ta đi mang theo quê hương” không chỉ là mang theo hình ảnh “con sông xưa, thành phố cũ” mà còn mang theo chút vốn liếng Việt ngữ, là tiếng nói và chữ viết của người Việt. Số vốn dự trữ ấy mang ra nước ngoài ít được sử dụng, cũng không đầu tư vào đâu được để sinh lợi, càng để lâu càng thêm hao hụt.
Phần thì hao mòn dần, phần thì phải “hội nhập” 1 vào dòng chính là ngôn ngữ của người bản xứ, tiếng Việt ít nhiều chịu ảnh hưởng của tiếng nước ngoài. Về cấu trúc ngôn ngữ chẳng hạn, người Việt ngoài nước nói “Xin vui lòng để lại lời nhắn của bạn sau tiếng beep” (Please leave your message after the beep) chứ không nói “Xin bạn vui lòng nhắn lại sau tiếng beep” như người Việt trong nước. Về việc chen tiếng bản xứ khi nói hay viết tiếng Việt chẳng hạn, hoặc do thói quen, hoặc do ưa thích.
Trong khi đó, sinh hoạt chữ nghĩa tiếng Việt ở nước ngoài là bức tranh khá ảm đạm. Một trong những cách để có được cái nhìn này là bước vào tiệm sách của người Việt. Khách yêu chữ nghĩa lác đác, thảng hoặc một, hai người cầm hờ hững trên tay cuốn sách, tờ báo, liếc sơ qua rồi lặng lẽ bỏ xuống. Một tiệm sách quen thuộc trong khu thương xá Phước Lộc Thọ của người Việt ở Calif. mới đây đã phải ngậm ngùi đóng cửa vì không cầm cự được lâu hơn. Ngoài ít tờ nhật báo phát hành tại các thành phố đông người Việt, hầu hết báo chí là “báo chợ” (báo phát không ở các chợ và cơ sở thương mại của người Việt, sống nhờ vào thân chủ quảng cáo). Các tạp chí về văn chương (thường gọi là “tạp chí văn học nghệ thuật”) lần lượt đình bản vì người đọc (lớn tuổi) lần lượt rơi rụng như những cánh… lá vàng rơi. “Báo nói” (các chương trình truyền thanh, truyền hình) và “báo mạng” (online) đánh bạt “báo giấy”, “báo in” (các từ ngữ “mới” của người Việt ngoài nước) do vừa tiện lại vừa lợi là độc giả không phải bỏ tiền mua báo. “Báo mạng” cũng phải hay, phải hấp dẫn, phải có những sáng kiến độc đáo mới “hút” và giữ được người đọc. Nếu không, người đọc chỉ click một cái là nhảy sang đọc “báo” khác.
Đối với đối tượng A thì tiếng Việt là “tiếng nước tôi”, là một phần “máu thịt” của mình. Đối tượng này không chỉ nói, nghe, đọc tiếng Việt thôi, mà còn có nhu cầu viết nữa. Viết như một thôi thúc. Viết để giải tỏa, phơi trải hay gửi gấm nỗi lòng mình trên trang giấy (hay trên màn hình computer). Viết để tìm gặp lại chữ nghĩa tiếng Việt. Viết để đi tìm “quê hương trong nét bút”. Người Việt lớn tuổi ở ngoài nước ngày càng có xu hướng viết nhiều hơn là đọc. “Người viết nhiều hơn người đọc”, “nhà văn nhiều hơn độc giả” là những cách nói vui có pha chút ngậm ngùi, đồng thời cũng cho thấy nhu cầu viết lách tiếng Việt của người Việt tha hương là nhu cầu “tâm tư tình cảm” khá bức thiết. “Sách ngày nay được in ra tràn lan, phần lớn do nhu cầu của người viết chứ không do nhu cầu của người đọc,” nhà văn Nguyễn Mộng Giác nêu nhận xét không mấy vui. “Tình trạng lão hóa trong sinh hoạt văn học của người Việt hải ngoại”, cách nói khá bi quan của ông, trước hết đến từ “tình trạng lão hóa trong ngôn ngữ”. Những ai còn chịu khó đọc, viết (và cả nói) tiếng Việt hầu hết ở độ tuổi đang bước vào buổi hoàng hôn của đời người. Sứ mạng “tử thủ” ngôn ngữ của người Việt được đặt lên vai những “người lính già xa quê hương” (tên bài hát của nhạc sĩ Nhật Ngân). Gọi là “lính già”, vì giả sử một người rời khỏi đất nước năm 1975 ở vào độ tuổi đôi mươi (khá rành tiếng Việt) thì bây giờ anh/cô ta cũng đã… gần sáu mươi rồi. Trong những buổi gọi là “Ra mắt sách”, thành phần khách tham dự hầu hết là những vị cao niên, trông giống như cuộc họp mặt của một “hội người già”. Khách tham dự khoảng một trăm người được xem là thành công.
Tháng trước tôi được người bạn gửi cho bộ sách có nội dung giáo dục, cổ xúy việc “gìn vàng giữ ngọc” nền tảng luân lý, đạo đức truyền thống của người Việt. Sách in đẹp, biên soạn công phu, nhưng không thấy ghi giá bán. Hỏi ra, được biết một nhóm người tâm huyết gồm các nhà văn, nhà giáo bỏ ra nhiều thì giờ và công sức xúm nhau thực hiện, chỉ để biếu không những ai có nhu cầu. Cầm cuốn sách trên tay như cầm một nỗi chua xót, ngậm ngùi.
Người Việt lớn tuổi ở ngoài nước không chỉ thèm viết mà còn thèm có người đọc mình. Nhiều sách hay, giá trị, biên soạn công phu như bộ sách nói trên in ra không có người đọc. Viết cho ai đây khi mà “người đọc” là những người lớn tuổi vốn đã ít ỏi lại ngày càng ít ỏi. Trong những cố gắng cuối cùng để đi tìm người đọc, những người viết ở nước ngoài có lúc trông vời về “hậu phương bao la” là khối lượng nhiều triệu độc giả ở trong nước, cho dù điều này có vẻ không đơn giản chút nào, vì mãi đến nay chuyện “giao lưu văn hóa” giữa “hai bên” dường như chỉ có một chiều. Trong lúc các “văn hóa phẩm” trong nước được tìm thấy đầy rẫy trong những thư viện ở ngoài nước thì sách báo của người Việt ở hải ngoại không dễ gì du nhập vào quốc nội. Chưa nói là liệu người đọc trong nước có sẵn sàng để đón nhận và cầm lên tay cuốn sách của một tác giả từng bỏ nhà bỏ cửa đi biền biệt bao năm, cũng như chưa nói là tác giả phải chịu sự dò xét không dễ chịu chút nào của “một bộ phận không nhỏ” 1 trong cộng đồng người Việt ở nước ngoài. Điều an ủi là, sự phát triển của phương tiện truyền thông hiện đại internet vẫn dành cho các cây bút hải ngoại một cơ hội: độc giả trong nước có thể đọc được những gì người Việt ngoài nước viết ra trên màn hình computer, tuy rằng không chính thức nhưng… có còn hơn không.
2. Bảo tồn và phát huy tiếng Mỹ
Đối tượng B, người Việt trưởng thành ở nước ngoài, có thể được xem là đối tượng quyết định về số phận và tương lai của tiếng Việt ngoài nước.
Trẻ em nước ngoài học tiếng Việt là học từ bố mẹ, thầy cô (nếu theo học các trường Việt ngữ). Học chữ nào là biết chữ ấy chứ không có ý kiến gì về “tiếng Việt cũ”, “tiếng Việt mới” cả. Vốn liếng khiêm tốn về Việt ngữ không đủ và không giúp các em ham thích đọc sách báo tiếng Việt hoặc tìm đến các chương trình truyền thanh, truyền hình của người Việt. Hơn thế nữa, học là học vậy chứ ít có cơ hội thực hành, hầu hết chỉ là để nói chuyện với bố mẹ và những người Việt lớn tuổi không rành tiếng bản xứ. Tiếng Việt của các em là thứ tiếng lơ lớ, cưng cứng, phát âm nghe từa tựa như là… tiếng Việt, và thường các em chỉ nói được ít câu ngăn ngắn.
Khi mà thế hệ thông thạo tiếng Việt mai một, ngôn ngữ ấy được thế hệ tiếp nối đặt đúng vào vị trí khiêm tốn của một sinh ngữ phụ, lâu lâu có dịp mang ra sử dụng để… không quên mình là người bản xứ gốc Việt. Hoạt cảnh các thí sinh hoa hậu đứng trên sân khấu phát biểu cảm tưởng bằng tiếng Việt để trả lời câu hỏi trắc nghiệm kiến thức hoặc khả năng ứng xử là một ví dụ. Các cô thường chỉ bập bẹ ít câu tiếng Việt bằng giọng đơ đớ với vẻ ngượng nghịu, rồi sau đó cười cười “Em xin phép được nói tiếng Anh, vì tiếng Việt em… không rành.”
Chuyện “tiếng Việt em không rành” cũng là điều tự nhiên và dễ hiểu: các môi trường chính như trường học, nơi làm việc, bạn bè và các đối tượng giao tiếp khác của các em trong sinh hoạt hàng ngày hầu như đều sử dụng ngôn ngữ chính là tiếng bản xứ. Các em có rất ít cơ hội sử dụng tiếng Việt, nếu có chỉ là với bố mẹ hoặc các bác, các cô chú lớn tuổi (với những bố mẹ “trẻ” thì cơ hội này càng hiếm hoi).
Giới trẻ, ngoài một số sinh sống trong cộng đồng có đông người Việt, thường tỏ ra miễn cưỡng, kém thoải mái và không có “cảm giác ngôn ngữ” khi sử dụng tiếng Việt (không cảm thấy tiếng Việt là “tiếng mẹ đẻ”, “tiếng nước tôi”). Các em cũng hiếm khi bước chân vào tiệm sách tiếng Việt, và nếu có lui tới thư viện cũng chỉ để tham khảo các tài liệu bằng tiếng nước ngoài (thường là tiếng bản xứ như Anh, Pháp…). Thú tiêu khiển và sinh hoạt thường ngày của các em là sách báo, phim ảnh, các chương trình phát thanh, phát hình bằng tiếng bản xứ, các hoạt động văn nghệ, thể thao và giải trí có màu sắc văn hóa nước ngoài. Nghe một bài hát tiếng Việt chẳng hạn, các em ít thấy hứng thú vì không hiểu bài hát nói gì, hoặc có hiểu thì cũng ít thấy rung cảm, cũng vì không có “cảm giác ngôn ngữ”.
Một anh bạn tôi lại có suy nghĩ khác, anh ta cho rằng tiếng Việt tuy khó mà sống vui, sống khỏe ở hải ngoại nhưng vẫn cứ… sống, không phải nhờ các trường dạy tiếng Việt, không phải nhờ sách báo hoặc các chương trình phát thanh, phát hình tiếng Việt mà ở một “sân chơi” khác. “Ở đâu?” tôi hỏi. “Anh có xem các DVD chương trình ca nhạc của Thúy Nga, Asia… không?” anh ta hỏi lại. “Trên sân khấu các ca sĩ trẻ người Việt hát những bài hát bằng tiếng Việt, và dưới sân khấu có khá đông khán giả trẻ người Việt. Ngày nào trong giới trẻ vẫn còn những em thích hát, thích nghe nhạc Việt thì… vẫn còn tiếng Việt.” Quả là như vậy, âm nhạc là một trong những môi trường nuôi dưỡng tiếng Việt. Giới trẻ ở hải ngoại có thể không nói và viết thông thạo tiếng Việt nhưng một số vẫn hát được nhạc Việt, vẫn tìm đến các sinh hoạt giải trí bằng âm nhạc Việt. Nhiều ca sĩ trẻ còn tìm đến những bài hát của miền Nam ngày trước, thậm chí cả những bài “nhạc tiền chiến” nữa. Yêu thích một bài hát tiếng Việt dẫn đến yêu thích tiếng Việt, hoặc ít ra cũng làm quen được với tiếng Việt. Những cuộc thi hát karaoke bằng tiếng Việt, những cuộc thi tuyển lựa “giọng ca vàng” hoặc “sáng tác mới”, những ca đoàn trong các thánh lễ của người Việt, những bài hát vui tươi thầy cô dạy cho học sinh trong các lớp học Việt ngữ… ít nhiều góp phần giữ cho tiếng Việt không mất đi.
Giữ cho tiếng Việt không mất đi đã là khó và đáng được “biểu dương” 1đối với người Việt ngoài nước, nói chi đến chuyện làm đẹp làm giàu thêm tiếng Việt. Các trường Việt ngữ mở ra ở hải ngoại hầu như đều cùng một mục tiêu là “bảo tồn và phát huy” ngôn ngữ và văn hóa Việt, và hầu như chỉ đạt được một nửa mục tiêu này, nghĩa là chỉ cố gắng “bảo tồn” chứ “phát huy” thì chưa được rõ nét lắm.
Trong khi đó, việc “bảo tồn và phát huy” ngôn ngữ của… người bản xứ, mặc dù không thấy ai hô hào, cổ động, lại có vẻ được chú tâm hơn. Tại những cộng đồng người Việt nói tiếng Anh, ta vẫn nghe khá nhiều tiếng Việt “mới” như: “hai!” (hi!), “goào!” (wow!), “chat” (chat), “net” (net), “phôn” (phone), “phen” (fan), “bai” (bye), “xeo” (sale), “óp” (off), “đao” (down), “điu” (deal), “gióp” (job), “lin” (clean), “mu” (move), “neo” (nail), “viu” (view), “đai-ật” (diet), “ấp-lai” (apply), “lai-xần” (license), “phân-đìng” (funding), “rì-xíp” (receipt), o-đờ (order), “ken-xồ” (cancel), “kòm-len” (complain), “lép-tóp” (laptop), “đao-lốt” (download), “i-meo” (email), “kem-pìng” (camping), “xóp-pìng” (shopping), “wíc-kèn” (weekend)… vân vân, kể ra không hết. Những từ ngữ mới này có làm “giàu” thêm kho tàng tiếng Việt hay không thì… không chắc lắm, và thường chỉ người Việt nói người Việt hiểu với nhau mà thôi. Nếu phải đặt tên, có thể gọi là “từ ngữ Mỹ-Việt” (như cách gọi “từ ngữ Hán-Việt”), là tiếng Mỹ đọc theo âm Việt.
3. “Chỉ sợ đàn con quên Việt ngữ”
Trẻ em sinh trưởng ở nước ngoài thường nghĩ sao nói vậy. Câu hỏi “Khi nào em nói tiếng Việt? Em có thích tiếng Việt không?” của cô giáo trong một lớp học tiếng Việt ở Westminster, Calif., nhận được những câu trả lời của học sinh:
“Em chỉ dùng tiếng Việt khi em ở nhà tại vì bị bắt buộc. Khi em ở trường em không dùng tiếng Việt tại vì em không thích.”
“Khi em ở nhà và ở trường em không thích nói tiếng Việt. Em chỉ nói tiếng Việt lúc trong lớp tiếng Việt.”
Một em khác nói ngắn gọn: “Em không ghét tiếng Việt, em chỉ không thích.” 3
Chỉ đơn giản là “không thích”. Không thích học tiếng Việt, không thích nói tiếng Việt. Kể ra “không thích” thì cũng khó mà ép uổng, có ép thì các em cũng miễn cưỡng và cũng… không thích. Thế nhưng, vì sao lại không thích?
“Điều khó nhất khi dạy tiếng Việt cho các em là gieo vào đầu các em tình yêu tiếng Việt,” 3 một thầy giáo trăn trở.
Có thể xem đấy là câu trả lời. Giới trẻ người Việt ở hải ngoại không thích sử dụng tiếng Việt là vì các em không có, hoặc thiếu vắng tình yêu tiếng Việt. Khi không “yêu” thì hờ hững, dửng dưng. Với bố mẹ các em, với những người lớn tuổi, tiếng Việt gắn liền với “quê cha, đất tổ”, hòa trong máu trong tim, nằm trên môi trên miệng từ thuở còn trong nôi cho đến ngày rời bỏ quê hương. Với các em thì không như thế, các em khó mà “yêu tiếng nước tôi từ khi mới ra đời”.
Hơn thế nữa, muốn cho con em mình có được tình yêu tiếng Việt thì bố mẹ của các em cần phải có tình yêu tiếng Việt trước đã (chứ không phải là tình yêu tiếng Mỹ, tiếng Tây hay thứ tiếng nào khác). Một trong những biểu hiện cụ thể của “tình yêu” ấy là tránh hoặc hạn chế việc sử dụng tiếng nước ngoài trong sinh hoạt gia đình và đời sống thường ngày.
Chuyện sính dùng tiếng nước ngoài vốn là “truyền thống” lâu đời của người Việt chứ chẳng phải mới đây, phát sinh từ tâm lý “chuộng hàng ngoại” của người dân một nước nghèo, chậm tiến. “Hàng ngoại” được yêu chuộng và ngưỡng mộ gồm cả ngôn ngữ của các nước có nền văn minh, văn hóa cao. Căn bệnh thích “xổ Nho” ngày trước và thói tật chêm tiếng Tây, tiếng Mỹ ngày nay vào câu nói, câu viết tiếng Việt một cách cố ý và không cần thiết là một “đặc trưng” của người mình. Người trong nước vừa ra đến nước ngoài đã nhanh chóng “tiếp thu” 1 kiểu cách ấy để tỏ ra mình cũng “đẳng cấp”,1 cũng văn minh lịch sự không kém ai. Người Việt tha hương về thăm quê nhà mỗi khi chuyện trò thường phải dặm thêm tiếng nước ngoài (hầu hết là tiếng Mỹ) vì ít nhiều đã… quên tiếng Việt. Bệnh “quên” này là có chọn lọc, vì hiếm thấy Việt kiều nào phải chêm tiếng Nga, tiếng Đức, tiếng Campuchia do sống lâu năm ở các nước này. Các xướng ngôn viên, người dẫn chương trình hoặc phụ trách các show truyền hình cũng thích chêm hoặc sử dụng tiếng Mỹ khi nói chuyện với đối tượng khán giả ngưởi Việt trong lúc vẫn có thể nói lưu loát tiếng mẹ đẻ. Nói tiếng Việt chêm tiếng nước ngoài là cách “tạo dáng” 1 trong lúc trò chuyện để tạo phong cách sành điệu, nói như ngôn ngữ “tiếng Việt mới”.
Điều đáng suy gẫm, không chỉ giới trẻ thôi mà nhiều người lớn sống ở nước ngoài cũng tỏ ra… không thích tiếng Việt, hoặc yêu tiếng nước ngoài hơn tiếng nước mình. Lắm lúc con cái nói tiếng Việt với bố mẹ thì bố mẹ trả lời bằng tiếng Mỹ hoặc tiếng Việt pha Mỹ, nghe toàn những “hi”, “ok”, “yes”, “no”, “dad”, “mom”, “you guy”, “oh my God!”, “come on!”, “good job!”, “no way!”, “stop it!”, “nice”, “perfect”, “amazing”… Gia đình là môi trường tốt nhất, thuận tiện nhất cho con em học và thực hành tiếng Việt, nhưng nếu bố mẹ, các bác các cô chú sính dùng tiếng Mỹ hơn tiếng Việt thì các em… chẳng học được gì. Hoặc, thay vì khuyến khích con em cố gắng dùng tiếng Việt, nhiều bố mẹ lại hay chế diễu những câu nói ngây ngô của con mình khi “thực hành” thứ tiếng này, khiến các em đâm ra “quê”, và vốn đã không thích học tiếng Việt lại càng thêm… không thích. “Tình yêu tiếng Việt” nếu chưa “gieo vào đầu” hoặc “chạm vào tim” các em được thì cũng dễ hiểu.
Ngoài những em có may mắn được gia đình chăm sóc kỹ và chịu khó học hỏi tiếng Việt, vốn liếng và trình độ Việt ngữ của các em có khi không hơn kém bao nhiêu so với mấy anh chàng người Mỹ thỉnh thoảng biểu diễn ít câu tiếng Việt để giúp vui những bạn bè người Việt. Khi phải nói một câu tiếng Việt, các em thường phải làm công việc “chuyển ngữ” 1 từ tiếng bản xứ (ngôn ngữ chính của các em) sang tiếng Việt ở trong đầu mình, xong rồi mới phát ra (tương tự người Việt lớn tuổi học tiếng nước ngoài). “Bố con không nhà,” một em người Mỹ gốc Việt trả lời điện thoại, “con không biết khi nào thì nó về.” Hoặc, “Em rất thần tượng ca sĩ L.T.” (thay vì “Ca sĩ L.T. là thần tượng của em”). “Thần tượng” vốn là danh từ nay biến thành động từ (cách này không lạ, vẫn gặp ở tiếng Mỹ), có thể xem như một từ ngữ “mới” được giới trẻ ở ngoài nước phát minh. (Trong lúc “tiếng Việt mới” ở trong nước có những cải tiến… ngược lại, như “lái xe” vốn là động từ nay biến thành danh từ, với nghĩa là “tài xế”). Những “phát minh” này không nhiều lắm nên cũng không làm giàu thêm được bao nhiêu kho tàng tiếng Việt.
Trong khi đó, các phương tiện truyền thông của người Việt ở nước ngoài, đặc biệt là các đài truyền hình, hầu hết chú trọng về thông tin và giải trí hơn là giáo dục. Các chương trình phỏng vấn ca sĩ, tâm tình nghệ sĩ hoặc “thời trang và mỹ phẩm” có khá nhiều, trong lúc đến nay vẫn chưa thấy có các chương trình dạy Việt ngữ kiểu “học mà vui, vui mà học” nào dành cho trẻ em và học sinh, sinh viên có nhu cầu học hỏi về tiếng Việt và văn hóa Việt.
Khi mà tiếng Việt chỉ đóng vai phụ mờ nhạt chứ không được thế hệ người Việt trưởng thành ở nước ngoài chọn làm “công cụ truyền đạt ý tưởng và giao tiếp”, tiếng Việt nếu không theo “ngày tháng tàn phai” thì cũng khó mà sống mạnh, sống hùng được.
Một vài “tản mạn” 1 về“tiếng Việt và thế hệ ngày mai” như trên cho thấy, không khó lắm để đoán trước được tương lai vận mệnh của tiếng Việt ở hải ngoại. Đôi lúc tôi tự hỏi, với những bà mẹ trẻ sinh con ở nước ngoài, liệu tiếng Việt của con mình có còn gọi là “tiếng mẹ đẻ” (chưa nói là “tiếng quốc ngữ”)?
“Chỉ sợ đàn con quên Việt ngữ / Đừng lo lũ trẻ kém Anh văn”, lời nhắn nhủ đầy tâm huyết của cụ Bảo Vân Bùi Văn Bảo, một nhà giáo lão thành khả kính đã quá vãng, dường như ít được các bậc phụ huynh lưu tâm. “Quên Việt ngữ” thì “đàn con” chẳng quên đâu, có điều lắm lúc chính bố mẹ các em cũng không hiểu được tiếng… Việt ngữ của các em.
C. Tiếng Việt đi đâu, về đâu?
Dân số phát triển thì ngôn ngữ cũng phát triển theo. Ngôn ngữ nào được số đông người dân trong nước sử dụng được xem là ngôn ngữ chính thống, cũng tựa như “nhiều người cùng đi trên một lối thì thành ra con đường” (đường tốt, xấu thế nào là chuyện khác).
Tiếng Việt đi về đâu? Câu hỏi này có vẻ đặt ra cho người Việt ngoài nước nhiều hơn, vì đối với người Việt trong nước thì tiếng Việt “vẫn đi bên cạnh cuộc đời”, bên cạnh mọi sinh hoạt bình thường của trên 85 triệu dân. Những sinh hoạt “không bình thường” của ngôn ngữ, nếu có cũng không nhiều, như là dạng chữ nghĩa khá đặc biệt của một “bộ phận” giới trẻ, gọi là “ngôn ngữ teen” (hay “ngôn ngữ chat”, hay “ngôn ngữ online”), chẳng hạn:
“chi`u nEj pun` mun’ kóc” (tạm “chuyển ngữ”: “chiều nay buồn muốn khóc”).
“iu an wa’ choj` lun!” (tạm “chuyển ngữ”: “yêu anh quá trời luôn!”).
Dạng chữ gọi là “tiếng Việt xì-tin” này không phải là ai cũng biết “giải mã” để đọc được, hiểu được. Bên cạnh đó, có những sinh hoạt chữ nghĩa lành mạnh hơn, như nghệ thuật “thư pháp” chẳng hạn. Nhà thơ Vũ Đình Liên, giá mà còn tại thế, dạo bước trên những vỉa hè “bên phố đông người qua”, hẳn ông phải ngạc nhiên và thích thú khi trông thấy có lắm “ông đồ trẻ” đang “hoa tay thảo những nét / như phượng múa rồng bay” rất vui mắt. Trong các tranh thư pháp ấy là những “Tiếng Việt còn, nước Việt còn”, “Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”, “Sống trong đời sống, cần có một tấm lòng”… Thư pháp chắt lọc những “chất ngọc” trong kho tàng tiếng Việt, từ những “lời vàng” đến những tục ngữ, ca dao, những áng thi ca đầy “hương sắc quê mình”.
1. “Tiếng Việt cũ”đi về đâu?
Câu hỏi “‘Tiếng Việt cũ’ đi về đâu?” đôi lúc vẫn được đặt ra cho người Việt miền Nam ngày trước, hiện đang sống ở trong nước hay ngoài nước.
Dù muốn dù không, đối tượng sử dụng “tiếng Việt cũ” ở trong nước không có cách nào khác hơn là phải tự điều chỉnh để thích nghi và “hội nhập ngôn ngữ” với “tiếng Việt mới”. Nói gì thì nói, “tiếng Việt mới” rõ ràng là thắng thế với đa số tuyệt đối của “đại bộ phận” 1trên 85 triệu người sử dụng tiếng Việt ở trong nước. Cho dù “nỗi buồn tiếng Việt” trở thành “cụm từ” mới khá phổ biến, cho dù có khá nhiều phê phán về những “nhếch nhác” 1 trong ngôn ngữ “tiếng Việt mới”, mọi nỗ lực nhằm vực dậy “tiếng Việt cũ” hoặc ngăn chận, đẩy lùi sự xâm lấn của “tiếng Việt mới”, gọi là để “giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt” đều có vẻ là những cố gắng… vô ích và tuyệt vọng.
Đối với người Việt yêu chữ nghĩa của miền Nam ngày trước thì cái đẹp của “tiếng Việt cũ” chỉ còn là cái đẹp “vang bóng một thời”, tựa như cái đẹp ngàn năm văn vật của Hà Nội cũ, của “ánh đèn giăng mắc muôn nơi / áo mầu tung gió chơi vơi” (“Hướng về Hà Nội”, nhạc Hoàng Dương), nay chỉ còn rớt lại nỗi luyến tiếc ngậm ngùi.
Điều an ủi là, một số từ ngữ của tiếng Việt ngày trước thế nào cũng còn tìm thấy được trong các bộ tự điển tiếng Việt về sau này, với chú thích là… “từ cũ” hay “từ cổ” (nói “cường điệu” 1 một chút cho vui). Dù sao, việc “tử thủ” ngôn ngữ “tiếng Việt cũ” của những “người lính già” cũng là hành động dũng cảm đáng ca ngợi, và ít ra cũng đã “can trường trong chiến bại” (mượn cái tựa sách của cựu Phó Đề đốc Hồ Văn Kỳ Thoại). Nói là nói vậy, đây không phải là chuyện “ai thắng ai” chi chi cả mà chỉ là một trong những quy luật tất yếu và tự nhiên của ngôn ngữ: những từ ngữ nào ít được sử dụng sẽ lần lần mai một đi. Đành ngậm ngùi cho “tiếng Việt cũ” từng làm nên văn hóa miền Nam Việt Nam một thời, nay chìm dần trong lãng quên. Kết luận này có thể làm một số người không vui, thậm chí không “nhất trí”, nhưng biết làm sao hơn.
Với trẻ em người Việt ở nước ngoài, tiếng Việt mà các em đang học nhiều phần là “tiếng Việt mới” hơn là “tiếng Việt cũ” vì bố mẹ và thầy cô giáo của các em phần lớn thuộc về thế hệ sau hơn là trước năm 1975. Các em cũng dễ làm quen với các “từ” của “tiếng Việt mới” hơn là “tiếng Việt cũ” ít còn được sử dụng. Muốn đi tìm lại dấu vết của “tiếng Việt cũ”, các em có thể vào thư viện tìm đọc sách báo cũ của các tác giả miền Nam. Các tác giả này, nếu còn tiếp tục viết sách, viết báo thì tiếng Việt trong câu văn của họ không hoàn toàn là “tiếng Việt cũ” nữa mà ít nhiều pha trộn “tiếng Việt mới” thâm nhập vào trong đầu một cách tự nhiên từ lúc nào họ cũng không ý thức được.
Chỉ riêng chuyện văn chương chữ nghĩa, như những ca sĩ “cũ” chỉ còn hát được cho lớp thính giả “cũ” nghe, những tác giả quen tên ở miền Nam ngày trước, nếu không thích ứng được thời đại mới, không “hội nhập” được “tiếng Việt mới”, không thay đổi cách viết, gồm cả thay đổi ngôn ngữ và “tư duy” 1 mới, sẽ chỉ còn được một ít độc giả “cũ” rơi rớt lại, hoặc… không còn độc giả.
“Những người viết mới”, ngày trước ta có “cụm từ” ấy thì ngày nay cũng có một đối tượng độc giả mới gọi là “những người đọc mới” mà “những người viết cũ” không thể nào không quan tâm nếu muốn những trang chữ của mình còn có người đọc. Những cây bút trào phúng của miền Nam ngày trước chẳng hạn, nếu không chịu thay đổi cách viết và vẫn dùng những “thuật ngữ” trào phúng cũ (như “đọi”, “rách”, “sức mấy”, “chịu chơi”, “bỏ đi tám”, “tuyệt cú mèo”, “con nhà lành”, “đầm giao chỉ”…) mà không chịu “cập nhật” 1 những thuật ngữ mang tính thời sự và hiện đại, sẽ không còn “ăn khách” nữa vì “những người đọc mới” không hiểu được và không thấy khôi hài. Ví dụ, nói “chuyện dài nhân dân tự vệ” hoặc “chuyện muôn đời lục quân Việt Nam” thì ít ai hiểu, nhưng nói “chuyện thường ngày ở huyện” thì nhiều người hiểu được. Nói “tự nhiên như người Hà Nội” thì có người hiểu người không, nhưng nói “vô tư quá!” thì ai cũng hiểu được.
Trong một cố gắng để bảo tồn những giá trị của “tiếng Việt cũ” và “gìn vàng giữ ngọc” những thành tựu của nền “văn học miền Nam Việt Nam” trước năm 1975, một ít tác giả ở nước ngoài đã dành nhiều thì giờ và công sức vào việc sưu tầm, nghiên cứu, biên khảo mọi sinh hoạt phong phú, đa dạng về văn hóa, nghệ thuật ở miền Nam ngày trước. Văn Học Miền Nam của nhà văn Võ Phiến, bộ sách nhận định tổng hợp khá đầy đủ về tác giả và tác phẩm mọi thể loại của văn học miền Nam thời kỳ 1954-1975, là một trong những cố gắng nổi bật. Hoặc, việc phục hồi và phổ biến rộng rãi gần như toàn bộ ấn bản các tạp chí Nam Phong, Thanh Nghị, Phong Hóa, Ngày Nay… dưới dạng e-book của một nhóm nhà văn, nhà nghiên cứu gần đây đều là những công trình tâm huyết thực sự có ý nghĩa, không chỉ làm tái hiện một giai đoạn lịch sử văn học mà còn bảo tồn được các di sản văn hóa và ngôn ngữ tiếng Việt “cũ” (cũ hơn cả “tiếng Việt cũ” được nói đến trong bài).
2. Hố thẳm của ngôn ngữ
“Hố thẳm” ở đây không mang ý nghĩa tương tự “hố thẳm của tư tưởng” như một tựa sách của nhà văn Phạm Công Thiện, cũng không mang ý nghĩa bí ẩn, mầu nhiệm nào của ngôn ngữ, mà là hố sâu của chia cách.
Tôi có cô em họ rất “dị ứng” với hai chữ “thân thương”. Một lần xem chương trình ca nhạc DVD thấy ca sĩ nào đó phát ngôn “TL rất trân quý sự ủng hộ của quý khán thính giả thân thương dành cho TL” là cô ấy bực mình, bấm remote control “rượt” cô ca sĩ chạy như tên bắn để nghe ca sĩ tiếp theo hát. Khi tôi hỏi vì sao cô lại ghét bỏ hai chữ ấy đến thế thì cô không giải thích rõ, chỉ nói, “Tại sao mình có những chữ ‘thân yêu’, ‘thân mến’, ‘quý mến’ rất là hay, rất là tình cảm mà không chịu dùng, lại dùng chi ba cái chữ ‘thân thương’, ‘trân quý’, ‘dấu ái’, nghe… dễ quạu.”
Những người khác có thể bị “dị ứng” và “dễ quạu” với những chữ khác như “nhất trí”, “bức xúc”, “báo cáo”, “tranh thủ”, “đột xuất”, “khẩn trương”, “sự cố”… Những tình cảm yêu, ghét này không có duyên cớ chính đáng, thế nhưng đánh đổ chúng có vẻ không dễ dàng chút nào. Hiểu theo nghĩa nào đó thì đây cũng là một dạng “kỳ thị ngôn ngữ”. (Nếu “thân yêu” là “rất hay, rất tình cảm” với người này thì “thân thương” cũng “rất hay, rất tình cảm” với người khác vậy). Lại có người nói rằng mỗi lần nghe những “từ” ấy là cảm thấy… tức ngực, khó thở, nặng đầu hoặc có cảm giác như bị kim chích vào người vậy.
“Cá nhân tôi” thì không yêu, chẳng ghét và cũng không bị những “phản ứng phụ” như thế mà chỉ thấy những “từ” ấy nghe kỳ cục và… vui vui. Thỉnh thoảng tôi cũng “ngẫu hứng” đưa các “từ” ấy vào sinh hoạt thường ngày:
“‘Nhất trí’ trăm phần trăm, giá nào cũng chơi!”
“‘Báo cáo’ là vụ này không có tôi à nghen.”
“Làm gì có chuyện bồ bịch, chỉ là ‘giao lưu tình cảm’ thế thôi.”
“Có chuyện gì ‘bức xúc’ mà mặt mũi nặng chình chịch vậy?”
“Tô phở ‘hoành tráng’ dễ sợ! Làm sao mà ‘xử lý’ nổi.”
Nghe những cách nói ấy thì ai cũng hiểu là… diễu.
Công bằng mà nói, bên mình có những từ ngữ “khe khẽ”, “nhẹ nhàng”, “êm ả”, “ồn ào”, “gần gũi”, “lạ lùng”… (là một dạng từ ngữ “láy”, một chữ có nghĩa, chữ kia chỉ là đệm vào cho xuôi tai chứ chẳng có nghĩa gì cả) thì cũng phải cho người ta có “khẽ khàng”, “im ả”, “yên ắng”, “ồn ã”, “gần gụi”, “lạ lẫm”… chứ. Bắt người ta phải giống mình thì kể cũng hơi… khó tính. Những từ ngữ ấy, theo tôi, làm phong phú thêm ngôn ngữ và làm “dày” thêm bộ tự điển tiếng Việt.
Sự chia cách trong ngôn ngữ không giống như những cách ngăn có giới tuyến, mà là những rào cản vô hình, bàng bạc trong đời sống, trong nếp suy nghĩ, trong thái độ, cử chỉ và trong cung cách đối xử với nhau, khiến con người không cảm thấy “gần” nhau được. Cùng một màu da, cùng chung tiếng nói, cùng một chữ viết, nhưng lại “bất đồng ngôn ngữ”. Nghe thì có vẻ mâu thuẫn, nhưng lại là chuyện thường tình khi mà mâu thuẫn là một trong những nét “đặc trưng” của người Việt.
Ngôn ngữ là dụng cụ, ta vẫn nghe vậy. Cũng là thanh gươm ấy, có người múa lên những đường kiếm đẹp mắt, tuyệt chiêu, có người múa may vụng về, quờ quạng. Nhưng nếu tước bỏ thanh gươm ấy đi, hoặc không còn giấy, bút để viết lách, hoặc con người câm và điếc cả thì liệu ngôn ngữ còn có ý nghĩa gì? Miệng lưỡi không còn thốt ra tiếng nói, tai không còn nghe những lời yêu hay ghét, liệu người ta có còn “dị ứng” vì những chữ nghĩa nghe chướng tai, có còn bắt bẻ chữ này dùng sai, chữ kia dùng đúng? Ngôn ngữ khi ấy là gì? Là câm lặng như bức tranh không lời nhưng nhiều ý? Là nói bằng cử chỉ điệu bộ, là nói bằng ánh mắt, là “những con mắt người tình / ấm như lời hỏi han”, hay là “những con mắt thù hận / cho ta đời lạnh căm” (“Những con mắt trần gian”, Trịnh Công Sơn)? Là nói bằng trái tim, như những kẻ yêu nhau ngồi bên nhau cả buổi, không nói năng câu gì, vì có “nói năng chi cũng thừa” (“Ma Soeur”, Nguyễn Tất Nhiên), nhưng mà lại… nói rất nhiều.
Những chuyện hay dở, đúng sai, phải trái ấy kết cục không đi đến đâu cả. Rõ ràng chữ nghĩa chỉ là sản phẩm của con người, chỉ là do con người “chế” ra. Vậy mà con người đôi lúc “đánh giá cao”1 ngôn ngữ, thậm chí mang “bệnh sùng bái” ngôn ngữ, sùng bái vật mà mình nặn ra, khiến ngôn ngữ “lên đời”,1 trở thành “phức tạp”. Ngôn ngữ cần phải thoát ra ngoài, vượt lên trên những tranh chấp, phe phái, những định kiến, thiên kiến, những đố kỵ, tị hiềm, những yêu và ghét. Cần phải trả ngôn ngữ về với ngôn ngữ, về đúng vị trí và “chức năng” 1 của nó, như nó đã từng.
Trong số những ý kiến về chuyện người Việt cần thống nhất việc sử dụng tiếng Việt có đề nghị xúc tiến thành lập một “hàn lâm viện” ngôn ngữ. Mặc dù mọi người hoàn toàn “nhất trí” trên nguyên tắc về đề nghị này, chuyện “hàn lâm viện tiếng Việt” đến nay vẫn chỉ là nói… cho vui và “nghe qua rồi bỏ”, tựa như cách nói “huề vốn”: “Chuyện ấy sau này lịch sử sẽ phán xét”. (Lịch sử nào? Viết bởi sử gia của “bên” nào? Liệu có tin được tính khách quan, trung thực của người chép sử chăng, khi mà gần đây người ta đã phải lật lại những trang sử Việt từ ngàn xưa, và đặt ra những nghi vấn về tính xác thực của những bài học lịch sử, sau khi “phát hiện” được những sử liệu khá bất ngờ, đến phải ngỡ ngàng).
Riêng tôi chỉ dám đưa ra một đề nghị nhỏ: các nhà ngôn ngữ học và biên soạn từ điển ở cả trong và ngoài nước cùng ngồi lại làm việc để soạn ra một bộ từ điển tiếng Việt thống nhất (về chính tả, tự loại, giải nghĩa từ ngữ, các mẫu câu thông dụng…). Tất nhiên trong “quá trình” 1 biên soạn, hai bên thoải mái trao đổi ý kiến, kể cả “tranh cãi” 1 về ý nghĩa và cách dùng một từ ngữ. Riêng việc ấy thôi cũng không dễ thực hiện chút nào và e rằng cũng chỉ là chuyện… nghe qua rồi bỏ.
Người ta nói với nhau bằng những lời lẽ êm dịu ngọt ngào, hoặc chua xót đắng cay, hoặc hằn học gầm gừ, hoặc văng tục chửi thề cũng bằng thứ ngôn ngữ ấy. Người ta nói để lấp bằng hoặc để đào rộng thêm ra những miệng hố cách ngăn cũng bằng thứ ngôn ngữ ấy.
Ôi, ngôn ngữ thực ra là gì, có quyền năng gì mà, nói như nhà phê bình Đặng Tiến, mang con người đến gần nhau và cũng khiến con người phải xa nhau.
3. “Nằm trong tiếng nói yêu thương”
Ngôn ngữ thường được hiểu là tiếng nói và chữ viết (chưa kể điệu bộ, cử chỉ…), tuy nhiên tiếng nói có vẻ được đề cập nhiều hơn. Thứ nhất, tiếng nói (âm thanh phát ra từ miệng người) có trước, chữ viết (ký hiệu ngữ âm) đến sau; thứ hai, lời nói là “đầu mối sự giao tiếp giữa người nọ với người kia”,4 nói như học giả Lê Văn Siêu. “Nói”, theo cách ông định nghĩa, “là cái cách dùng những lời như những phương tiện để diễn tình và ý của mình, trong cuộc sống… Cuộc sống xã hội càng phức tạp, sự giao tiếp càng cần tinh tế để nhận xét tình ý của người và biểu lộ tình ý của mình, thì những cách để diễn tình ý ấy lại càng nhiều.”4 Dẫn chứng về “những cách để diễn tình ý ấy”, ông kể ra vanh vách đến cả trăm kiểu “lời ăn tiếng nói” của người Việt (phân ra làm ba nhóm chính: nói lời, nói tiếng, nói điều), có thể được xem là những “chiêu thức” tinh diệu của môn võ “nói”. Những chiêu thức ấy lại thiên biến vạn hóa ngày càng nhiều thêm ra đến vô cùng vô tận.
Đọc những trang sách diễn giải về các chiêu thức thiên hình vạn trạng ấy của học giả Lê Văn Siêu, tôi “phát hiện” một điều: người Việt mình… nói nhiều quá, có lẽ trên thế giới này hiếm có dân tộc nào “nói” nhiều đến thế. Ai cũng muốn nói, không ai muốn nghe, nên chẳng ai nghe ai, nên chẳng ai hiểu ai. Liệu đấy có phải là một trong những nguyên nhân dẫn đến “bất đồng ngôn ngữ” (dẫu cùng chung tiếng nói)?
Những người đóng vai MC không chuyên nghiệp thường tỏ ra lúng túng và đau khổ vì không biết làm cách nào để thu hồi cái microphone từ tay một diễn giả “đột xuất”1 nhảy lên sân khấu “cướp diễn đàn”, nói tràng giang đại hải bất kể “quý khán thính giả” ở bên dưới có muốn nghe hay không. Những “nhà hùng biện” quyết tâm “tử thủ” cái microphone như vậy có khá nhiều trong các sinh hoạt của cuộc sống quanh ta.
Điều này cũng giải thích phần nào sự phát triển vượt mức của ngôn ngữ tiếng Việt, từ biến đổi đến khác biệt, đến “dị ứng”, khiến cho “từ Bắc vô Nam” không dễ gì mà “nối liền nắm tay”.
Bao nhiêu “chiêu thức” biến hóa ảo diệu ấy là bấy nhiêu kiểu cách nói năng của người Việt. Nói gần nói xa, nói tới nói lui, nói ngắn nói dài, nói văn vẻ nói vụng về…, nói gì thì nói cũng chỉ toát lên một ý. “Bắt” được cái ý ấy là “hiểu” được đối tượng. Thế nhưng, ngôn ngữ cũng đã có những lúc trở nên thừa thãi, vô tích sự, khi mà con người không còn muốn nghe, muốn đọc nhau nữa. “Dụng cụ ngôn ngữ” đành xếp xó.
Có phải chăng ngôn ngữ sau cùng không là gì cả? Tiếng thông reo vi vu, tiếng suối chảy róc rách, tiếng sóng vỗ rì rào, những thanh âm ấy thực ra là gì? Có phải là “ngôn” đâu, cũng làm gì có “ngữ”. Vậy mà nghe chúng, ta như nghe hồn mình lắng xuống, nghe lòng mình dịu lại, nghe tâm trí thảnh thơi nhẹ nhàng, tưởng chừng trong phút chốc quên hết những phiền muộn thế gian.
Những thanh âm phát ra từ thiên nhiên ấy nghe như tiếng nhạc, và âm nhạc cũng là thứ ngôn ngữ thân thuộc của con người. Từ đời thuở nào người ta từng nói với nhau bằng thứ ngôn ngữ ấy.
Một ngày kia tôi chạm tay vào đất / Một ngày kia tôi sẽ hiểu lòng tôi
Một ngày kia tôi sẽ đến bên Người / để cất tiếng chào / “Việt Nam ơi!”
Những câu ấy được “chuyển ngữ” từ lời của bài hát “Bonjour Vietnam”. Bài hát ấy, giọng hát mềm mại ấy cất lên ở ngoài nước và ở trong nước, đã rất được tán thưởng. Nhiều người Việt không hiểu được tiếng Pháp, chỉ nghe giai điệu ngọt ngào, nghe giọng hát êm dịu của cô ca sĩ và những tiếng “Việt Nam” ngân nga ở cuối bài hát cũng nghe lòng mình ngân lên và rung lên nỗi xúc động. Nỗi xúc động ấy cũng đến từ mối “đồng cảm” dành cho cô gái người Bỉ gốc Việt sống bao nhiêu năm ở quê người mà vẫn giữ mãi trong tim tình yêu quê nhà.
Phạm Quỳnh Anh, cô gái ấy không nói được tiếng Việt, nhưng có sao đâu, cô đã “nói” bằng giai điệu của bài hát ấy. Và thứ ngôn ngữ ấy cũng đã làm cho bao người nghe cô phải ứa nước mắt.
“Giá mà cô ấy hát bằng tiếng Việt thì tuyệt quá!” một người bạn tôi nói thế. Tôi hiểu, đối với người yêu tiếng Việt và yêu những bài hát của người Việt, nghe bài hát ấy cũng tương tự như xem cuốn phim nói về đất nước Việt Nam do người nước ngoài thực hiện. (Tác giả “Bonjour Vietnam” là người Pháp, ca nhạc sĩ Marc Lavoine). Cũng là tình yêu quê hương, cũng là nỗi niềm hoài hương, nghe người Việt nói với người Việt vẫn “thấm” hơn là nhờ người nước ngoài nói hộ “tiếng lòng”.
Quê hương ơi! / Bóng đa ôm đàn em bé / nắng trưa im lìm trong lá…
Quê hương ơi! / Tóc sương mẹ già yêu dấu / tiếng ru nỗi niềm thơ ấu / cánh tay êm tựa mái đầu…” (“Tình hoài hương”, Phạm Duy)
Nhiều lắm những bài hát tả tình tả cảnh về lòng yêu quê hương. Có một cách bày tỏ lòng yêu quê hương khác mà người ta không phải nhắc đến hai chữ “quê hương” (không phải nói “Quê hương ơi! Quê hương hỡi!…” hoặc “Quê hương là…” như thế này, như thế kia), mà nghe “rất quê hương”. Người ta chỉ nói về “tình yêu tiếng Việt”.
Nằm trong tiếng nói yêu thương
Nằm trong tiếng Việt vấn vương một đời
Sơ sinh lòng mẹ đưa nôi
Hồn thiêng đất nước cũng ngồi bên con
(“Nằm trong tiếng nói”, thơ Huy Cận)
Những câu thơ ấy bất giác gợi cho người ta nhớ đến câu hát quen thuộc, với chút ngỡ ngàng. Tiếng thơ, tiếng nhạc sao như không hẹn mà gặp, sao như cùng chung tiếng nói, cùng chung tiếng lòng?!
Tôi yêu tiếng nước tôi / từ khi mới ra đời…
Tiếng nước tôi / tiếng mẹ sinh từ lúc nằm nôi…
Ngày xưa người ta từng hát những câu ấy. Ngày nay người ta vẫn còn hát những câu ấy ở ngoài nước và ở cả trong nước nữa. Câu hát, bài hát của người nhạc sĩ từng bị “dị ứng” trong những năm dài chiến tranh, sau cùng đã nghe cất lên trên đất nước không còn chiến tranh; hơn thế nữa, cất lên từ giọng hát của những người trẻ thế hệ hôm nay.
Nghe Đ.T., một ca sĩ trẻ ở trong nước, hát say mê bài “Tình ca” ấy với giọng thiết tha, nồng nàn, 5 người ta không khỏi có chút nghĩ ngợi. Khi mà mọi người Việt, trong nước ngoài nước, đều hát chung một câu hát, một bài hát; hơn thế nữa, cùng chia sẻ những cảm xúc về một bài hát, một câu hát, dường như người ta cảm thấy dễ chịu hơn, gần gũi hơn. Cùng chia sẻ mối đồng cảm, hiểu theo nghĩa nào đó, là chia sẻ cách nghĩ cách nhìn, là chia sẻ những nỗi ưu tư, những niềm trăn trở của những trái tim cùng chung một nhịp đập.
Bao giờ cho đến bao giờ, những con người cùng chung tiếng nói, cùng một chữ viết không còn nữa những “bất đồng ngôn ngữ”, để cho ngôn ngữ không phải… ngậm ngùi.
Lê Hữu
1 Từ ngữ, cách nói phổ biến ở trong nước
2 Đỗ Tăng Bí, Dòng nhập cư vào Hoa Kỳ của người Việt Nam, Nhật báo Người Việt, Calif. 16/3/2005
3 Ngọc Lan, Tuổi trẻ gốc Việt có thực sự thích học tiếng Việt? Nhật báo Người Việt, Calif. 4/12/2011
4 Lê Văn Siêu, Nói nghĩa là gì? Tạp chí Văn, Đặc san Nghiên cứu và Phê bình văn học, Saigon, tập 1/1967, tr. 12-13
5 Đức Tuấn hát “Tình ca”của Phạm Duy: http://www.youtube.com/watch?v=rd9hCqhvodk