Có lẽ đây là đề tài cũ nhất trong những cái cũ nhưng nó lại là thứ mới nhất trong những cái luôn mới. Bởi vì, người trí thức bao giờ cũng có sứ mệnh khai sáng cộng đồng và đây là căn tính của khoa học, với một nhà trí thức tiến bộ, có lòng với nhân dân, dân tộc, quốc gia, câu chuyện đời tư sẽ rất chông gai, thậm chí đau khổ dưới chế độ độc tài.
Nhưng, với những trí thức chuyên chế vô sản, hay nói đúng hơn, với những kẻ mang danh sĩ phu nhưng lại rất khéo léo luồn lách, lươn lẹo để đạt mục đích vinh thân phì gia thì nhà nước độc tài là mảnh đất màu mỡ để họ thực hiện ý đồ. Trong trường hợp trí thức chuyên chế vô sản quá nhiều thì đất nước sẽ ra sao? Và trong trường hợp ngược lại? Đâu là đất dụng võ cho một trí thức chân chính?
Những trí thức chân chính, tỉnh thức trước vận mệnh quốc gia thường chọn một trong hai thái độ: Im lặng, rút lui hoàn toàn để nghiên cứu và không bàn đến bất kỳ vấn đề nào liên quan đến chính trị hoặc hai là thao thức trước vận mệnh đất nước và đau đáu về thân phận con người, đồng tộc, lựa chọn dấn thân để phục vụ khoa học và con người. Rất tiếc là tỉ lệ trí thức dấn thân không cao cho mấy ở thể chế độc tài, đảng trị này.
Và, trong một chừng mực và ý nghĩa nào đó, dấn thân cho khoa học cũng đồng nghĩa với dấn thân cho con người, cho dân tộc, quốc gia. Vì tất cả những gì liên quan đến khoa học đều có giá trị một khi nó mang lại lợi ích nhân bản, phục vụ con người theo chiều hướng tốt đẹp, thân thiện và hòa bình. Và đương nhiên, những nhà khoa học mang ý thức dân chủ, những người chấp nhận dấn thân cho sự nghiệp dân chủ, nhân quyền của đất nước là những nhà trí thức đích thực.
Họ phải đối mặt với hàng loạt các trở ngại từ thân phận chính trị cho đến thân phận khoa học và thân phận cá nhân, trong đó, đáng kể là một đội ngũ trí thức vốn phục vụ cho chế độ Cộng sản hơn hai mươi năm, đến sau 30 tháng Tư năm 1975, họ giật mình, sực tỉnh trước sự sụp đổ của dân tộc, sự tiêu tán của hàng triệu mái ấm và sự hủy hoại của một nền văn hóa miền Nam Việt Nam, họ suy tư, tỉnh thức và tiếp tục dấn thân cho một cuộc cách mạng mới đầy rủi ro, cô đơn và tai ương.
Phan Khôi, Trần Đức Thảo, Phan Đan, Trần Dần, Hữu Loan, Lê Đạt… và nhiều trí thức khác trong vụ Nhân Văn Giai Phẩm đã phải đón nhận sự hà khắc, ép uổng và đày đọa từ chính cái chế độ mà họ từng phục vụ, từng chịu nếm mật nằm gai để phụng sự. Cuộc đời của những trí thức này bị đọa xuống đến mức không còn bất kỳ mảy may cơ hội nào để tồn tại (chứ đừng nói đến sống).
Phan Khôi về già bị tịch thu hết nhà cửa, phải dắt díu vợ con đến ở trọ nhà của Chế Lan Viên, một ngày “đẹp trời”, Chế Lan Viên đi nhậu về, cầm cây chổi trành, chỉ thẳng vào Phan Khôi (đáng tuổi cha mình) và quát: “Thằng già, mày dọn đồ cút khỏi nhà tao, mày là thằng phản động!”. Và Cụ Phan Khôi lủi thủi dọn áo quần, chăn chiếu, dắt bà vợ già lang thang rày đây mai đó, ăn nhờ ở đậu tứ xứ cho đến cuối đời!
Hữu Loan phải về quê đi vác đá, chở đá bằng chiếc xe đạp cà tàng kiếm tiền nuôi vợ con, suốt một đời không dám đi ra khỏi làng vì sợ đụng đến tiền mua gạo nuôi con. Cũng may, đến gần cuối đời, Văn nghệ Sài Gòn mời ông vào chơi một chuyến và Xuân Thống ở miền Trung bỏ tiền mua vé mời ông về Quảng Nam chơi vài ngày, sau đó tặng ông một ít tiền về quê. Đến lúc sắp nhắm mắt tắt thở thì có một công ty xuất bản đến mua bản quyền bài thơ Màu tím hoa sim với giá 150 triệu đồng (tương đương $ 7.500). Và cuộc đời nghệ sĩ, trí thức của ông trôi qua trong mấy chục năm cuối đời buồn tủi, khổ sở, đói khát…
Trần Đức Thảo bị đày trong một căn phòng trọ gọi là tiêu chuẩn nhà nước cấp nhưng trên thực tế đó là giam lỏng trong một căn phòng, để cho chết dần chết mòn. Đến cuối đời, ông “được” sang Pháp để rồi chết xa xứ trong buồn tủi và không người thân.
Trần Dần cũng có cuộc đời éo le không kém, ông bị nhà cầm quyền Cộng sản ghép cho cái tội làm thơ phản động, mang tư tưởng tiểu tư sản, thuộc thành phần phản động, phần đời còn lại ông phải ngồi tù, ra tù thì sống trong đói khổ, rách rưới. Tất cả hệ lụy này đều xuất phát từ một nguyên nhân duy nhất: Trần Dần và những ngưởi anh em của ông trực nhận ra chế độ Cộng sản đã không thành thật với quốc dân, và mọi giá trị khoa học, nghệ thuật đều bị bóp méo dưới bàn tay tuyên truyền của họ, họ đã biến những nghệ sĩ chân chính thành một thứ công cụ tuyên truyền.
Đó là những nghệ sĩ, trí thức từng phục vụ cho nhà nước Cộng sản Việt Nam, với những nghệ sĩ, trí thức không phục vụ nhà nước, không từng là đảng viên Cộng sản hoặc là đối tượng vào đảng Cộng sản thì mọi chuyện còn mệt mỏi, rắc rối và khổ sở hơn.
Sau vụ Nhân Văn Giai Phẩm, còn nhiều vụ khác như bác sĩ Nguyễn Đan Quế, luật sư Lê Thị Công Nhân, Nguyễn Văn Đài… đều liên quan đến thân phận chính trị, thân phận khoa học và thân phận cầm bút của nhiều nghệ sĩ trí thức. Gần đây nhất là vụ nhóm Mở Miệng và các blogger. Nếu như các thành viên nhóm Mở Miệng từ Lý Đợi, Bùi Chát, Khúc Duy, Nguyễn Quán chỉ vì triển khai ý niệm giải trừ trung tâm, giải thiêng, đặt lại vấn đề về cái gọi là “trung tâm, chuẩn mực và tiên phong lãnh đạo… nghệ thuật”.
Và, những tác giả, nghệ sĩ trẻ của nhóm Mở Miệng đã chấp nhận một cái giá đắt mà nhà cầm quyền độc tài trao cho họ là liên tục bị quấy rầy, bị giang hồ giả dạng chặn đường đánh đập, bị thất nghiệp, bị nhiều thứ rắc rối khó mà tưởng tượng được.
Cùng thời điểm với nhóm Mở Miệng, những blogger nhưng Nguyễn Văn Hải, Phan Thanh Hải, Tạ Phong Tần, Huỳnh Ngọc Tuấn, Huỳnh Thục Vy và nhiều văn nghệ sĩ, trí thức khác đã bị bắt, bị nhục hình, bị lăng mạ trên các phương tiện thông tin nhà nước.
Bằng cách vu những tội không liên quan đến chính trị như trốn thuế, quan hệ tình dục ngoài hôn nhân, vi phạm luật giao thông… để bắt các blogger, trí thức, và dùng thủ đoạn xử kín nhưng lại công khai loan tin bất lợi cho các nhà dân chủ để đặt họ vào tình thế tới cũng không được mà lui cũng không xong, gieo hoài nghi vào những người cùng chí hướng và đặc biệt là bằng mọi giá, đẩy họ vào chốn lao lý, tù đày. Chỉ vì yêu nước, những văn nghệ sĩ, trí thức phải lãnh chịu mọi thứ đòn thù nặng nề từ nhà nước độc tài. Cái giá của yêu nước và tỉnh thức dưới triều đại Cộng sản độc tài là tù đày, lao lý và tính mạng bị đe dọa.
Ngược với chuyện này, có vài ngàn người có ăn học tử tế, được gọi là trí thức lại khom lưng chấp nhận phục vụ cho đảng độc tài, phục vụ cho kẻ cố tình níu trì tiến trình văn minh nhân loại. Và mục đích duy nhất trong lựa chọn này là được yên thân, vinh thân phì gia, nhà cao cửa rộng, mặc cho đồng loại, dân tộc đang đau khổ, rên xiết vì mất mát, vì bị cướp trắng, bị ép uổng đủ điều… Cái mà họ nhận được là nhà lớn, đất vàng, xe hơi, gái đẹp và quyền lực, và để có được thứ này, họ đạp lên trên mọi suy tư, thây kệ mọi chuyện.
Và, để được như thế, họ buộc phải tự biến mình thành công cụ của nhà nước độc tài, họ vắt óc suy nghĩ những chiêu thức, thủ đoạn để triệt tiêu đối phương. Mà đối phương ở đây chính là những đồng nghiệp, đồng giới và chưa từng gây thù chuốc oán gì với họ. Nhưng họ buộc phải hiến kế triệt tiêu, vì họ đã ăn cơm, nhận nhiều thứ ơn mưa móc mà nhà nước Cộng sản dành cho họ. Và, để “yên lòng” thực hiện sự chỉ định, chỉ đạo của ông chủ Cộng Sản, họ tự gắn cho mình cái mác vì nhân dân, phục vụ cho đảng tiên phong, là một trong những đốm lửa trong ngọn đuốc lãnh đạo của đảng để dắt dân tộc này ra khỏi bóng tối.
Với kiểu lý luận như vậy, họ có thể tha hồ dùng thủ đoạn với đồng liêu, đồng môn mà không thấy áy náy lương tâm. Thậm chí, một người nào đó bị bắt, bị sát hại vì tội yêu nước mà trong đó có một phần góp tay của họ thì họ lại cho rằng mình đã giúp cho dân tộc loại bớt một thành tố phản động.
Nhằm nâng cao dự án, kinh phí và quyền lực trong quá trình phục vụ, bợ đỡ chế độ, họ không ngại ngần vắt trán để nghĩ ra những dự án nhằm triệt tiêu, ám hại những nhà yêu nước và hơn hết là nhằm ám sát nền văn hóa dân tộc, ám hại ý thức tự do, dân chủ còn sót lại trong nhân dân và ám toán những tố chất căn bản của khoa học, nhân văn.
Trong những ngày gần đây, giới sư phạm ở Hà Nội nói riêng và Việt Nam nói chung lại dấy lên một sự việc mà ngưởi chứng kiến không biết phải nhận xét như thế nào, chuyện về đề tài nghiên cứu của Nhã Thuyên, tên thật là Đỗ Thị Thoan, nhà thơ và là giảng viên đại học sư phạm. Nhã Thuyên đã lấy đề tài nghiên cứu là thơ của nhóm Mở Miệng, cô đã viết một luận văn khá mới lạ và sắc sảo. Và, cái mà cô nhận được là nhiều bài lên án gay gắt, nhiều lời nguyền rủa của các trí thức chuyên chế. Xin trích đoạn: “Sau khi thừa nhận “nhu cầu cách mạng” để thực hiện “nhu cầu cách tân” về nghệ thuật của nhóm Mở Miệng, thừa nhận họ văng tục và nói về cứt đái nhưng muốn lật đổ hơn là xây dựng (tr.31), tác giả Đỗ Thị Thoan không hề giấu giếm đối tượng “cách mạng” và “lật đổ” không chỉ là những khái niệm của văn chương học thuật mà là thể chế chính trị. Bởi tác giả cho rằng: Cơn hưng phấn của thời Đổi Mới nhanh chóng biến thành nỗi hụt hẫng vì sự thắt chặt lại của chính sách, với Đại hội Đảng VII năm 1991 (tr. 26). Tác giả còn tố cáo Đảng và Nhà nước ta bóp nghẹt tự do sáng tạo: Và bởi sự thống nhất trong một xã hội không chấp nhận đa nguyên về ý thức hệ và tư tưởng, Cái Khác là cái cần bị loại trừ, bị chèn ép… (tr. 37). Đến đây, tác giả đã công khai biểu thị thái độ đồng tình với tư tưởng chống Cộng của các phần tử chống đối Đảng và chế độ XHCN…”
Bài viết này của một cây bút nằm trong nhóm phản biện của nhà nước Cộng sản, ký tên Tuyên Hóa, có người cho rằng đó là bút danh của một ông giáo sư nằm trong Bộ giáo dục. Nhưng, vấn đề ai viết không quan trọng nữa, nó chỉ cho thấy là mãi cho đến bây giờ, khi các phong trào dân chủ, nhân quyền đã nở rộ ở Việt Nam, và thế giới tiến bộ đã bước một bước tiến rất xa, tại Việt Nam vẫn có một thành phần như vậy. Đó là lực cản lớn nhất cho tiến trình dân chủ và nhân quyền trên quê hương Việt Nam.
Bửu Long
Phong trào Nhân Văn – Giai Phẩm
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Phong trào Nhân Văn – Giai Phẩm là phong trào được cho là có xu hướng chính trị, đòi tự do dân chủ của một số văn nghệ sĩ và trí thức Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, khởi xướng đầu năm1955 và bị chính thức dập tắt vào tháng 6 năm 1958.
Khởi nguồn
Cơ quan ngôn luận của phong trào này là Nhân Văn, một tờ báo văn hóa, xã hội, có trụ sở tại 27 Hàng Khay, Hà Nội, do Phan Khôi làm chủ nhiệm và Trần Duy làm thư kí toà soạn, cùng với tạp chí Giai Phẩm, hình thành nên nhóm Nhân Văn–Giai Phẩm.
Trong tạp chí Giai phẩm Mùa xuân được ấn hành tháng giêng năm 1956, do nhà thơ Hoàng Cầm và Lê Đạt chủ trương, về sau bị tịch thu, có bài Nhất định thắng của Trần Dần, miêu tả hoàn cảnh đời sống miền Bắc xã hội chủ nghĩa trong những ngày đầu đất nước chia cắt, tác giả bài thơ bị qui kết chống phá, “bôi đen” chế độ,[1] với những câu thơ nổi tiếng:
Tôi bước đi
không thấy phố
không thấy nhà
Chỉ thấy mưa sa
trên màu cờ đỏ
Tháng 8 năm 1956, Phan Khôi có bài Phê bình lãnh đạo văn nghệ, đăng trong Giai phẩm Mùa thu.
Trong số ra mắt ngày 20 tháng 9 năm 1956, bán nguyệt san Nhân Văn đã đăng ngay trên trang nhất bài “Chúng tôi phỏng vấn về vấn đề mở rộng tự do và dân chủ”. Người được phỏng vấn đầu tiên là luật sư Nguyễn Mạnh Tường. Ông nêu hai nguyên nhân khiếm khuyết về dân chủ thời bấy giờ:
1. Đảng viên Lao động và cán bộ thi hành chính sách thiếu tinh thần dân chủ. Do đó xa lìa quần chúng, và tạo ra tình trạng đối lập quần chúng với mình. Để sửa đổi, cần xây dựng quan điểm quần chúng cho đảng viên và cán bộ, và yêu cầu Trung ương Đảng và Chính phủ đảm bảo sự thi hành triệt để các tự do dân chủ.
2. Quần chúng chưa thấm nhuần tinh thần chủ nhân trên đất nước, do đó chưa tranh đấu đòi thực hiện dân chủ. Để sửa chữa, ta cần xây dựng ý thức dân chủ cho quần chúng.
Loạt bài được dự định tiếp tục với bác sĩ Đặng Văn Ngữ, nhà sử học Đào Duy Anh, nhà văn Nguyễn Đình Thi … nhưng cho đến số cuối cùng được ra mắt là số 5, ngày 20 tháng 11 cùng năm,Nhân Văn chỉ có thể công bố bài phỏng vấn Đặng Văn Ngữ và Đào Duy Anh.
Nhân văn số 3 ra ngày 15 tháng 10 đăng bài của Trần Đức Thảo về mở rộng dân chủ, phát triển phê bình trong nhân dân. Trần Duy cũng góp tiếng nói đấu tranh cho tự do dân chủ trong Nhân vănsố 4 ra ngày 5 tháng 11 năm 1956. Trong số cuối cùng, số 5 báo Nhân văn, Nguyễn Hữu Đang nhận xét về những điều bảo đảm tự do dân chủ trong Hiến pháp Việt Nam 1946 và so sánh với tình hình thực tế lúc bấy giờ.
Ngày 15 tháng 12 năm 1956, Ủy ban hành chính Hà Nội ra thông báo đóng cửa báo Nhân Văn. Số 6 không được in và phát hành. Tổng cộng Nhân Văn ra được 5 số báo và Giai Phẩm ra được 4 số báo (Tháng Ba, Tháng Tư, Tháng Mười và Tháng Chạp 1956) trước khi phải đình bản.
Sau đó, hầu hết các văn nghệ sĩ tham gia phong trào Nhân Văn-Giai Phẩm bị đưa đi học tập cải tạo về tư tưởng xã hội chủ nghĩa. Một số bị treo bút một thời gian dài: Lê Đạt, Trần Dần, số khác không tiếp tục con đường sự nghiệp văn chương, thậm chí có người bị giam giữ trong một thời gian dài và tiếp tục bị giám sát trong nhiều năm sau khi mãn tù như trường hợp Nguyễn Hữu Đang. Dư luận chung thường gọi đây là “Vụ án Nhân Văn–Giai Phẩm”.
Một số văn nghệ sĩ trong phong trào[2]
• Bùi Xuân Phái
• Cao Xuân Huy
• Chu Ngọc
• Đào Duy Anh
• Đặng Đình Hưng
• Đỗ Đức Dục
• Hoàng Cầm
• Hoàng Công Khanh
• Hoàng Huế
• Hoàng Tích Linh
• Hoàng Tố Nguyên
• Hoàng Yến
• Huy Phương
• Hữu Loan
• Hữu Thung
• Lê Đại Thanh
• Lê Đạt
• Nguyễn Bính
• Nguyễn Hữu Đang
• Nguyễn Mạnh Tường
• Nguyễn Thành Long
• Nguyễn Tuân
• Nguyễn Văn Tý
• Như Mai
• Phan Khôi
• Phan Vũ
• Phùng Cung
• Phùng Quán
• Quang Dũng
• Sĩ Ngọc
• Thanh Bình
• Thụy An
• Trần Công
• Trần Dần
• Trần Đức Thảo
• Trần Duy
• Trần Lê Văn
• Trần Thiếu Bảo
• Trần Thịnh
• Trương Tửu
• Tử Phác
• Vĩnh Mai
• Văn Cao
• Xuân Sách
• Yến Lan
Bị xử phạt nặng nhất là Thụy An và Nguyễn Hữu Đang. Bà Thụy An bị kết tội làm gián điệp với kết án: “mụ phù thủy hiện nguyên hình rắn độc”, bị kết án 15 năm tù cùng với Nguyễn Hữu Đang trong phiên tòa ngày 21/1/1960 tại Hà Nội. Mãi đến năm 1973 hai người mới được ra tù nhưng bị quản thúc thêm một thời gian nữa.
Việc dập tắt phong trào
Tố Hữu, khi ấy là Ủy viên Trung ương Đảng Lao Động Việt Nam, phụ trách về công tác văn hóa văn nghệ, tuyên truyền được coi là người dập tắt phong trào Nhân Văn–Giai Phẩm. Trong cuốnQua cuộc đấu tranh chống nhóm phá hoại “Nhân Văn – Giai Phẩm” trên mặt trận văn nghệ, nhà xuất bản Văn Hoá, 1958, mà ông là tác giả, Tố Hữu đã nhận định về phong trào này và những người bị coi là dính líu như sau:
Lật bộ áo “Nhân Văn – Giai Phẩm” thối tha, người ta thấy ra cả một ổ phản động toàn những gián điệp, mật thám, lưu manh, trốt-kít, địa chủ tư sản phản động, quần tụ trong những tổ quỷ với những gái điếm, bàn đèn, sách báo chống cộng, phim ảnh khiêu dâm; (trg 9. Sđd).
Trong cái công ty phản động “Nhân Văn – Giai Phẩm” ấy thật sự đủ mặt các loại “biệt tính”: từ bọn Phan Khôi, Trần Duy mật thám cũ của thực dân Pháp đến bọn gián điệp Thụy An, từ bọn trốt-kít Trương Tửu, Trần Đức Thảo đến bọn phản Đảng Nguyễn Hữu Đang, Trần Dần, Lê Đạt. Một đặc điểm chung là hầu hết bọn chúng đều là những phần tử thuộc giai cấp địa chủ và tư sản phản động, và đều ngoan cố giữ lập trường quyền lợi giai cấp cũ của mình, cố tình chống lại cách mạng và chế độ;. (trg 17. Sđd).
Báo cáo tổng kết vụ “Nhân Văn – Giai Phẩm” cũng do Tố Hữu viết có kết luận về tư tưởng chính trị và quan điểm văn nghệ của phong trào Nhân Văn–Giai Phẩm như sau:
Những tư tưởng chính trị thù địch
1. Kích thích chủ nghĩa cá nhân tư sản, bôi nhọ chủ nghĩa cộng sản.
2. Xuyên tạc mâu thuẫn xã hội, khiêu khích nhân dân chống lại chế độ và Đảng lãnh đạo.
3. Chống lại chuyên chính dân chủ nhân dân, chống lại cách mạng xã hội chủ nghĩa.
4. Gieo rắc chủ nghĩa dân tộc tư sản, gãi vào đầu óc sô-vanh chống lại chủ nghĩa quốc tế vô sản.
Tố Hữu
Những quan điểm văn nghệ phản động
1. Nhóm “Nhân Văn – Giai Phẩm” phản đối văn nghệ phục vụ chính trị, thực tế là phản đối văn nghệ phục vụ đường lối chính trị cách mạng của giai cấp công nhân. Chúng đòi “tự do, độc lập” của văn nghệ, rêu rao “sứ mạng chống đối” của văn nghệ, thực ra chúng muốn lái văn nghệ sang đường lối chính trị phản động.
2. Nhóm “Nhân Văn – Giai Phẩm” phản đối văn nghệ phục vụ công nông binh, nêu lên “con người” trừu tượng, thực ra chúng đòi văn nghệ trở về chủ nghĩa cá nhân tư sản đồi trụy.
3. Nhóm “Nhân Văn – Giai Phẩm” hằn học đả kích nền văn nghệ xã hội chủ nghĩa, nhất là văn nghệ Liên Xô, đả kích nền văn nghệ kháng chiến của ta. Thực ra, chúng phản đối chế độ xã hội chủ nghĩa, chúng đòi đi theo chế độ tư bản chủ nghĩa.
4. Nhóm “Nhân Văn – Giai Phẩm” phản đối sự lãnh đạo của Đảng đối với văn nghệ, chúng đòi “trả văn nghệ cho văn nghệ sĩ”, thực ra chúng đòi đưa quyền lãnh đạo văn nghệ vào tay bọn phản cách mạng.
Các quan điểm
• Trong cuốn Đêm giữa ban ngày, tác giả Vũ Thư Hiên đã ghi chép những bình luận được cho là của Văn Cao về “tác giả” của việc dập tắt phong trào Nhân văn – Giai phẩm.[cần dẫn nguồn]
Tố Hữu ấy à? Không, không phải đâu. Cần phải công bằng. Tố Hữu có không ưa mình, có làm khổ mình thật, do lòng đố kỵ mà ra. Mình cũng ghét cái thằng bắng nhắng ấy lắm. Nhưng có thế nào nói thế ấy. Tố Hữu chỉ là kẻ thừa hành thôi. Nói gì thì nói, trong lòng Tố Hữu vẫn còn một chút gì của nhà thơ chứ. Bề ngoài thì thế đấy – Tố Hữu lãnh đạo cuộc đánh từ đầu chí cuối. Người ta tưởng vụ Nhân văn – Giai phẩm nổ ra là bởi báo Nhân văn đăng mấy bài phê bình thơ Tố Hữu, Tố Hữu tức, Tố Hữu đánh. Nhầm hết. Longue Marche (tiếng Pháp, có nghĩa là cuộc quân hành dài, ý nói Trường Chinh) mới là kẻ sáng tác ra vụ Nhân văn – Giai phẩm. Để chạy tội Cải cách ruộng đất. Để tạo ra cái hố rác mà trút mọi tội lỗi của Lúy[3] vào đấy. Chính Longue Marche chứ không ai khác. Đừng tước bản quyền của Lúy, tội nghiệp! Longue Marche còn cho mời mình và Nguyễn Tuân đến gặp. Lúy nói cả tiếng đồng hồ về đảng tính, về trách nhiệm đảng viên. Chiêu hồi mà. Nguyễn Tuân nghe, mặt hất lên, ngáp không cần che miệng. Nguyễn Tuân vẫn thế – bất cần đời. Đôi lúc cũng có hèn một tí, hèn có mức độ thôi, trong đại đa số trường hợp là kẻ bất chấp. Mình nói với Longue Marche: “Nếu trong vườn hồng có sâu thì ta phải chịu khó mà bắt bằng tay, từng con một. Đổ ụp cả đống thuốc trừ sâu vào đấy thì chết cả vườn hồng. Rồi anh sẽ thấy: qua đợt đánh phá này không biết bao giờ nền văn nghệ Việt Nam mới ngóc đầu dậy được!” Lúy nghe, mặt câng câng. Cái cách của Trường Chinh là thế. Lúy gọi mình đến còn có ý này nữa: Lúy muốn mình phải hiểu – tôi đã chịu khó nghe các anh rồi đấy nhá, tôi dân chủ lắm rồi đấy nhá! Chứ còn cái nền văn nghệ của các anh, nó đáng giá mấy xu?.[cần dẫn nguồn]
• Trong cuốn Kẻ bị mất phép thông công Nguyễn Mạnh Tường viết:
“Giới sĩ phu Việt Nam, nhất là ở Hà Nội, đa số – ít nhất là những người cầm bút và còn quan tâm đến tự do và liêm sỉ của người trí thức, kể cả những nhà văn còn trong bộ đội – Bộ Đội, như đã từng được biết, là thành trì của tinh thần cách mạng trong sáng và chính thống – đồng tâm đứng lên theo tiếng gọi của dân chủ và tố cáo sự bạo ngược đối với những sinh hoạt trí thức…
Ở Việt Nam, người ta bắt đầu vụ xử án liên quan đến những người viết văn, làm báo, thầy giáo mà lý do duy nhất là họ dám giễu cợt trên cái kỳ quặc và nực cười của những người cộng sản. Họ bị kết án là đã bắn mũi tên vào trí tuệ của lãnh đạo, của lực lượng vũ trang. Những kẻ cứng đầu ngoan cố này bị kết án là chống Đảng và làm nhiễm độc Cách Mạng. Nhưng trong kho công cụ trấn áp lại không có loại văn bản nào nói về mấy tội trên. Mặc kệ, họ có thể làm ra ngay một cái. Nhưng văn bản để áp dụng biện pháp trị tội lại không thể có hiệu lực hồi tố. Như trong thời kỳ Thượng Cổ, luật pháp là điều bí mật mà các Pháp Sư và quan toà nắm độc quyền. Không còn gì kinh hoàng hơn là Nhà Nước Cộng Sản đã vực dậy những thứ đã thành quá khứ từ hàng ngàn năm nay để nhảy xổm lên trên Luật Pháp và dùng nó duy nhất là để cô lập, tiêu diệt những người mà họ nghi là có tư tường xét lại chống Đảng, cóc cần biết đến cái gì là công lý và công bằng! Tại sao mọi người phải quan tâm đến chuyện văn bản trong khi quyền lực chỉ ở trong tay một kẻ độc tài?”
• Về phía Đảng Lao động Việt Nam, họ cho biết: trong bối cảnh phương Tây đang tiến hành gây rối loạn ở hệ thống xã hội chủ nghĩa, lực lượng tình báo nước ngoài đã kích động một bộ phận văn nghệ sĩ có chính kiến đối lập tạo nên phong trào Nhân Văn-Giai Phẩm. Ban đầu, Nhân Văn-Giai Phẩm chỉ phê phán những sai lầm, nhưng về sau dần chuyển sang phủ nhận sự lãnh đạo của Đảng trong lĩnh vực văn hóa văn nghệ, phủ nhận quyền lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam về Chính trị và Nhà nước thậm chí kích động kêu gọi nhân dân xuống đường biểu tình. Cuối năm 1956, vài người cầm đầu phong trào đã bộc lộ khuynh hướng chống chế độ ngày càng công khai. Sau các biến động trên thế giới, chính quyền quyết định chấm dứt Nhân Văn-Giai Phẩm. Qua đấu tranh, một số người trong nhóm “Nhân Văn-Giai Phẩm” đã tự kiểm điểm, tự phê bình và nhận những sai lầm, đồng thời tiếp tục rèn luyện tư tưởng chính trị. Một số bị xử lý hành chính do những sai phạm, chỉ có số ít hoạt động phạm pháp thì bị xử lý bằng pháp luật.[4]
Dư âm của Phong trào
Ngoài những nhân vật liên quan trực tiếp đến Phong trào Nhân Văn-Giai Phẩm, dư âm của phong trào này kéo dài sang những năm kế tiếp. Tháng Hai năm 1957 Đảng Lao động cho thành lập một tổ chức mới là Hội Văn nghệ để tập hợp văn nghệ sĩ. Văn Cao được bầu làm hội trưởng. Hội đoàn này cho ra tạp chí Văn, số đầu tiên phát hành Tháng Năm 1957 nhưng được 37 số đến đầu năm 1958 thì lại bị đình bản vì tội tiếp tục “chống đối đảng”. Bộ Chính trị ra quyết nghị đưa gần 500 văn nghệ sĩ đi chỉnh huấn và phải “tự kiểm điểm”. Hơn 300 người còn phải ký tên quy thuận đường lối của đảng.[5]
Chú giải
1. http://ribf.riken.go.jp/~dang/whoarewe/DoNhuan.pdf
2. Bọn Nhân Văn Giai Phẩm trước toà án dư luận, Nhiều tác giả, Nxb Sự Thật, 1959, Hà Nội
3. Đại từ tiếng Pháp “lui”, tức ông ấy.
4. Lê Mậu Hãn (chủ biên), Trần Bá Đệ, Nguyễn Văn Thư,…, Đại cương Lịch sử Việt Nam tập 3, NXB Giáo dục, 2007. Trang 144, 145: Giữa lúc nhân dân ta đang ra sức khôi phục kinh tế ở miền Bắc và đấu tranh chống lại sự khủng bố đàn áp điên cuồng của Mỹ Diệm ở miền Nam thì ở các nước Xã hội Chủ nghĩa Đông Âu cũng diễn ra các cuộc đấu tranh chính trị gay gắt… Những vụ lộn xộn ở Poznań (Ba Lan), Budapest (Hungary) đã xảy ra. Bầu không khí căng thẳng trên thế giới đã có tác động đến Việt Nam. Còn ở miền Bắc nước ta, Đảng và Chính phủ phải phạm phải những sai lầm trong cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức. Tình hình đó đã gây tác động đến tư tưởng quần chúng, nhất là tầng lớp tư sản, tiểu tư sản và trí thức. Lợi dụng tình hình này, bọn tình báo nước ngoài được cài lại ở miền Bắc tìm cách móc nối với phản động bên trong, cùng với bọn này lôi kéo một số người bất mãn trong giới trí thức và văn nghệ sĩ để chống lại sự lãnh đạo của Đảng và chính quyền nhân dân… Trong bối cảnh đó, báo “Nhân văn”, tập san “Giai phẩm” và “Đất mới” lần lượt ra đời ở Hà Nội. Khuynh hướng chính trị của “Nhân Văn-Giai Phẩm” đi từ phê phán gay gắt những sai lầm thiếu sót của Đảng và Chính phủ trong việc thực hiện cải cách ruộng đất, tổ chức quản lý kinh tế, an ninh chính trị, về quyền tự do dân chủ, về văn hóa văn nghệ, đến phủ nhận sự lãnh đạo của Đảng trên mặt trận văn hóa văn nghệ, quyền lãnh đạo duy nhất của Đảng về Chính trị, về Nhà nước… Đến cuối năm 1956, vài người cầm đầu “Nhân Văn-Giai Phẩm” đã bộc lộ khuynh hướng chống Đảng, chống chế độ ngày càng công khai. Báo Nhân văn số 6 có bài kích động kêu gọi nhân dân xuống đường biểu tình. Song Đảng viên, công nhân nhà in Xuân Thu (nơi tin báo Nhân văn) đã phát hiện ra và kịp thời kiến nghị với chính quyền để xử lý. Ngày 15-12-1956, Ủy ban Hành chính Thành phố đã ra quyết định đình bản và cấm lưu hành báo Nhân văn. Qua đấu tranh, một số người trong nhóm “Nhân Văn-Giai Phẩm” đã tự kiểm điểm, tự phê bình và nhận những sai lầm của họ. Đảng còn giúp đỡ họ tiếp tục rèn luyện tư tưởng và chính trị. Một số bị xử lý hành chính do những sai phạm, còn số ít hoạt động phạm pháp thì bị xử lý bằng pháp luật. Chấm dứt hoạt động của “Nhân Văn-Giai Phẩm”.
5. Abuza, Zachary. Renovating Politics in Contemporary Vietnam. Boulder, CO: Lynne Rienner Publishers, 2001. Trang 54-55.