Theo tài liệu Quân Sử của Bộ Trung Hoa Quân Mưu (Chinese Military Advisory Group-CMAG), ngày 27 tháng 6, 1955, Võ Nguyên Giáp người nắm binh quyền Bắc Việt đã âm thầm đến Bắc Kinh trong vai trò đại biểu CSVN với sự giúp đỡ của người cầm đầu CMAG ở Việt Nam là Wei Guoqing. Võ Nguyên Giáp bàn thảo với Bộ Trưởng Quốc Phòng Trung Hoa Minister Peng Dehuai, và tướng Petroshevskii, một Quân Mưu cao cấp của Liên Xô tại Trung Quốc, về dự án tái tạo quân đội của Đảng CSVN và những dự án chiến tranh trong tương lai. Đại Biểu CSVN ghé thăm Trung Hoa Hạm Đội Bắc Hải trước khi trở về Hà Nội vào giữa tháng 7. Trong quá trình đól, ngày 15 tháng 10, 1955, Võ Nguyên Giáp lại âm thầm dẫn đầu một phái đoàn đại diện sang Trung Quốc, và đã bàn với Peng Dehuai và Tướng Quân Liên Xô Gushev kỳ này cũng là về những dự án củng cố quân sự và quân đội của CSVN cũng như chiến lược tương lai. Đoàn đại biểu CSVN đã tham quan những Trung Tâm Quân Sự Trung Hoa, quân trường và nhìn Quân Đội Trung Hoa học tập trước khi trở về Bắc VN vào ngày 11 tháng 12.
Tài Liệu Quân Sử của CMAG, ghi rõ rằng trong suốt 2 quá trình sang Bắc Kinh của Giáp, Giáp đã báo cáo “thành công ký kết” với CSTQ và Liên Xô “trên những điều chính.” Nhưng lại không giải thích tại sao Giáp lại mau lẹ ghé thăm lần thứ 2 đến Bắc Kinh sau không xa chuyến âm thầm thứ nhất, và tại sao sự hiện diện phía Liên Xô lại khác với lần đầu. Có lẻ sư bàn thảo lần thứ nhất của Giáp, đã bỏ lại sau lưng vài vấn đề chưa giải quyết. Sự thật thì, theo tài liệu tham khảo của Quảng Đông Đại Học Xã Hội Học, thì Trung Hoa và Liên Xô đã có sự bất đồng ý kiến về dự án làm sao thống nhất Việt Nam. Cố Vấn LiênXô ủng hộ sự hoà bình chung sống giữa Nam, Bắc Việt Nam, kêu gọi Hà Nội ” thống nhất đất nước qua và trong dự án Hoà Bình Độc Lập Dân Chủ Hoá”, ngược lại thì phía Trung Hoa cho rằng “tại vì sự phá hoại của chế độ quân chủ nên không thể nào thống nhất Việt Nam qua cái gọi dân chủ bầu cử như đã viết trong Hiệp Định Geneva, và như vậy con đường duy nhất là CS-Bắc Việt nên chuẩn bị cho một chiến tranh sắp tới”.
Ngày 24 Tháng 12, 1955, CSTQ quyết định rút Bộ Quân Mưu CMAG ra khỏi Vietnam; Peng Dehuai đã cho Võ Nguyên Giáp biết cái quyết định này. Tới vào giữa tháng 3, 1956, cán bộ cuối cùng của CMAG đã rời khỏi CSVN. Để thay thế Bộ Quân Mưu CMAG, Bắc Kinh đã gửi đến một Ban Quân Mưu nhỏ hơn dưới quyền của Hoàng Văn Quân để giúp đỡ CSVN.
Sự thay đổi này đã dẫn đến nhiều cuộc tranh luận lớn trong nội bộ ban lãnh đạo CSVN 1956, về quyết định “người nào sẽ phải gánh vác trách nhiệm về bắt trước dự án Cải Cách Ruộng Đất của Trung Quốc từ năm 1953” . Trường Chinh, Tồng Thư Ký Đảng CSVN, người đã lãnh đạo trong cuộc Cải Cách Ruộng Đất, đã bị cách chức tại Quốc Hội Trung Ương vào tháng 9, 1956. Lê Duẫn, lên thay thế lãnh chức vụ Tổng Thư Ký CSVN, đã chỉ chứng Trường Chinh, tội danh thi hành Cải Cách Ruộng Đất của Trung Quốc với Việt Nam bất chấp những sự thật xảy ra tại Việt Nam.
Sự thất bại của Cải Cách Ruộng Đất đã khiến trong Đảng CSVN biết rõ là con đường thống nhất Việt Nam, như trong Hiệp Định Geneva bầu cử Dân Chủ, đã không thể thực thi. Khi cái hy vọng thống nhất bằng lòng dân qua bầu cử của Đảng CSVN bị sụp đổ, thì CSVN cũng phải đang đối diện với vấn nạn kinh tế của XHCN. Nguồn cung cấp gạo tại Hà Nội trở thành vấn nạn, CSVN vì đã quay lưng với hiệp dịnh Geneva, âm thầm quậy phá miền Nam bôi nhọ và ám sát nhân viên Cao cấp của miền Nam, nên CSVN không thể mở miệng xin mong sự giúp đõ từ kinh tế Miền Nam, CSVN ngoài phải tự trồng trọt kiếm ăn mặt khác, ban lãnh đạo Hà Nội tiếp tục quay về với Trung Quốc bất chấp vì nghe lời Bắc Kinh mà kết quả là những đau thương của Cải Cách Ruộng Đất.
Tháng 4, 1956, Phó Thủ Tướng CSTQ Chen Yun, một nhà kinh tế gia chuyên môn trong Đảng CS Trung Quốc, đã âm thầm không công khai đến Hà Nội. Trước lời yêu cầu của Hồ Chí Minh, Chen đưa ra dư án chính về “Ưu Tiên Kỷ Ghệ Nông Nghiệp và cũng như đặt kỷ nghệ nhỏ lên trước kỹ nghệ lớn” (light industry ahead of heavy industry) để nâng cao nền kinh tế Bắc Việt. Ban lãnh đạo CSVN chấp nhận dự án của Chen. Sự thật bằng chứng là CSTQ đã bỏ ra rất nhiều trong việc nâng cao kinh tế trong phần kỹ nghệ lớn tại Trung Hoa trong 5 năm đầu vào thời gian đó, sự khoa chương phóng đại của Chen về nông nghiệp và những kỹ nghệ nhỏ rất là khác thường, và cũng như sự chứng minh là Trung Quốc luôn quan tâm nhiều đến hình trạng tại VN trong sự “cố vấn” và tài trợ của Bắc Kinh đối với CSVN. Chu Ân Lai lập lại sự quyết định của Chen về sự cận trọng trong những dự án kinh tế trong qua trình viếng thăm Hà Nội vào ngày 18-22 tháng 11, 1956, cũng như Lai đã nói với Hồ Chí Minh phải kiềm chế những sự hấp tấp về những dư án thu hoạt Nông Nghiệp: “sự thay đổi đó phải đi từng bước một.”
Nhà văn Donald S. Zagoria đã phản luận trong cuốn sách Vietnam Triangle (VN Tam Giác) là trong thời gian 1957 và 1960, CSVN đã thay đổi từ trung thành với Bắc Kinh qua Liên Xô để có sự tài trợ của Liên Xô về những dự án nâng cao nền kinh tế XHCN-VNt.11 Trên thực tế, ban lãnh đạo Hà Nội vẫn tiếp tục, báo cáo và xin lệnh CSTQ về những quyết định quan trọng như củng cố nền kinh tế tại Miền Bắc và công cuộc cách mạng nơi Miền Nam. Trong quá trình tái tạo nền kinh tế của XHCN-VN 1958, bộ chính trị CSVN bắt đầu đặt tâm vào công cuộc cách mạng tấn công Miền Nam VN. CSVN báo cáo và xin quyết định từ CSTQ. Vào mùa Hạ 1958, Bộ Chính Trị CSVN đưa trình lên CSTQ để xin quyết định cho 2 dự án “Sự nhận định về dự án Căn Bản cho ViệtNam trong giai đoạn mới ” và “Ý kiến về dự án thống nhất vỹ tuyến Unification Line và con đường cách mạng nơi miền Nam.”
Sau khi tham khảo cẩn thận, Ban Lãnh Đạo CSTQ đã trả lời bằng một lá thư, chỉ thị “nền tảng chủ yếu nhất, những quyết định quan trọng nhất, và những dự án khẩn cấp nhất” cho công cuộc cách mạng của CSVN là phải thực thi Cách Mạng Chủ Nghĩa Xã Hội và Chủ Nghĩa Xây Dựng Xã Hội tại miền Bắc. Về phía miền Nam, CSTQ tiếp tục chỉ thị, dự án mà Hà Nội phải thực thi là phải nâng cao khẩu hiệu “Quốc Gia và Cách Mạng Dân Chủ.” Tuy nhiên, khi trong thực tại sự nhận thức về công cuộc cách mạng trong lúc đó vốn dĩ bất khả thi, CSTQ kết luận, CSVN nên “thành lập một công cuộc đường hầm dài lâu, dưỡng sức, thành lập bộ tuyên truyền đến với đa số, và chờ đợi cơ hội thích hợp.” Nói thẳng ra, Bắc Kinh thật sự không mong muốn lâm vào cảnh CSVN chính thức ra mặt đối kháng với Hoa Kỳ. Judging by subsequent developments, CSVN đã không dám cải lời CSTQ, trong thời gian 1958 và 1960 Hanoi luôn chú tâm vào nền kinh tế miền Bắc VN, thực thi “Dự Án 3 Năm” cải tổ chủ nghĩa về mặt kinh tế và xã hội. Chính sách trở lại với thủ đoạn Cách mạng Bạo Lực được Trung Ương Đảng CSVN thực thi vào tháng 5, 1959 nhưng lại không nói rõ phải đi theo đường hướng nào. Thậm chí cũng không nhắc đến những trắc trở của sự hợp nhất giữa quân sự và chính trị phải đối diện. Trong 2 năm kế tiếp, ban lãnh đaọ CSVN tiếp tục tranh luận về những mựu lược và sách lược. Hồ Chí Minh tiếp lục báo cáo và thỉnh lệnh với CSTQ. Vào tháng 5, 1960, CSVN và lãnh tụ CSTQ đã mở cuộc thảo luận tại Hà Nội và Bắc Kinh về những sách lược xâm chiếm miền Nam Việt Nam. Chu Ân Lai và Đặng Tiểu Bình đưa ra lập luận rằng trong những sự tranh giành trong chính trị nên hợp nhất với vũ khí và quân sự khi những thực trạng đang xãy ra giữa những thành phố và những vùng quê trong miền Nam, một sách lược tranh đấu uyễn chuyễn cần nên được thi hành. Với trong Thành Phố, CSTQ đưa quyết định, tranh đấu bằng chính trị nên được làm sách lược chính, tuy nhiên nếu muốn đánh sụp chế độ ông Diệm, thì vũ lực thật sự là cần thiết. Bởi vì đã có nhiều và đa số những căn cứ nơi những vùng quê, thì lực lượng quân sự nên được thành lập tại đó, tuy nhiên đấu tranh bằng quân sự nên kèm theo với đấu tranh chính trị.
Vào tháng 9- 1960, CSVN mở Đại Hội Đảng CS lần thứ 3, nhưng lại không có quyết định gì về những tình trạng thối nát hiện tại nơi miền Bắc, thay vào đó là chỉ âm mưu đánh chiếm khi nền chính trị miền Nam Việt Nam đang lung lay. Để lợi dụng cơ hội mới này, Quốc Hội CSVN kêu gọi và ra lệnh cho Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam thực thi cả 2 chính sách đấu tranh bằng chính trị và quân sự đối với miền Nam VN, và kêu gọi sự yểm trợ tối đa từ miền Bắc. Sách lược liên kết đấu tranh bằng quân sự và chính trị với miền Nam vốn là những dự án và quyết định từ CSTQ.
Vào mùa Xuân 1961, Tổng Thống Hoa Kỳ John F. Kennedy chấp thuận tăng viện trợ về Quân Sự và Ban Quân Mưu (MAAG) với 100 cố vấn và đã gửi đến Việt Nam 400 lực lượng đặc biệt để huấn luyện quân đội miền Nam những cách tiếp chiến khẩn cấp. Sự viện trợ của Hoa Kỳ với Đông Nam Á đã khiến Lãnh đạo Bắc Kinh không yên tâm. Trong lúc Thủ Tướng CS là Phạm Văn Đồng sang Bắc Kinh vào tháng 6-1961, Mao Trạch Đông đã quyết định tăng thêm viện trợ cho mặt trận xâm lấn miền Nam trong khi Chu Ân Lai tiếp tục hối thúc phải thực thi những sách lược uyển chuyển và quan trọng nhất là “liên hợp giữa chính sách đấu tranh hợp pháp và đấu tranh bằng thủ đoạn đen tối phi pháp cũng như phải liên kết đấu tranh bằng chính trị và quân sự.”
Năm 1962 một sự kiện thay đổi lớn giữa sư nhúng tay của Hoa Kỳ và thái độ cũng như hành động của Trung Quốc đối với cuộc nội chiến của Việt Nam. Vào tháng 2, Hoa Thịnh Đốn (Washington) thành lập tại Sài Gòn một ban Quân Mưu (Military Assistance Command, Vietnam (MAC,V)), để thay thế MAAG. Chính Phủ Kennedy buộc ghép ban hành hành động này với số tăng trưởng mạnh về mặt Cố Vấn Hoa Kỳ và số lượng quân sự tiếp viện với chính phủ Diệm, đánh dấu cho một tầng lớp mới về mật tham dự của Hoa Kỳ tại Việt Nam.
Vào mùa Xuân năm đó, một cuộc tranh luận xảy ra trong nội bộ ban lãnh đão Trung Quốc phán đoán một Thế Chiến sẽ xảy ra, và dự định có thể hoà bình sống với những quốc gia tư bản, và mức độ tài trợ của TrungQuôc đối với “công cuộc Giải Phóng”. Vào ngày 27 tháng 2, Wang Jiaxiang, Bộ Trưởng Bộ Liên Lạc Ngoại Giao, gửi một lá thư cho Chu Ân Lai, Đặng tiểu Bình và Chen Yi ( bộ 3 cầm quyền về chích sách ngoại giao), phản đối và chỉ trich khuynh hướng đánh giá cao về mặt nguy cơ Thế Chiến xảy ra, và đã đánh giá thấp về những cơ hội hoà bình chung sống với những đế quốc. Về mặt yểm trợ cho “công cuộc giải phóng toàn quốc”, Wang đã thận trọng thận trọng nhấn mạnh, kêu gọi sự chú ý đến những vấn nạn kinh tế của Trung Quốc và hạn hẹp tài nguyên. Về vần đề của Việt Nam, Wang yêu cầu Đảng CS Trung Quốc “cảnh giác đối với những đường lối chiến tranh của Đế Quốc Mỹ đã thực thi ở Đại Hàn” và cũng cảnh báo về nguy cơ “Khrushchev và những người cùng phe đang kéo chúng vào một cạm bẫy chiến tranh.” Wang đưa ra dự án, nếu muốn chỉnh đốn và tái tạo lại nền kinh tế và thắng lợi vượt qua những sóng gió giai đoạn khó khăn, Trung Quốc nên chấp nhận một chính sách hoà bình và và thoả hiệp về mặt ngoại giao, và với lãnh vực ngoại vận Trung Quốc không nên làm những gì không có khả năng. Nhưng Mao Trạch Đông đã bỏ ngoài tai những ý kiến và dự án nêu ra của Wang, thậm chí còn phán tội danh cho Wang là kẻ nâng cao “chủ nghĩa xét lại” chính sách ngoại giao của “3 điều thoả mản và một sự giảm bớt” (sự thoả mản với đế quốc, chủ nghĩa xét lại, và thế giới bảo thủ hoá , và giảm bớt sự yểm trợ cho công cuộc Giải Phóng Toàn Quốc.)
Sự biến diễn của cuộc tranh luận đã tạo ra những quyết định chính cho những chính sách của CSTQ đối với Việt. Nếu như ý kiến của Wang được chấp nhận, thì nó sẽ có nghĩa là vai trò của CSTQ đối với Đông Nam Á phải bị hạn chế. Nhưng Mao Trạch Đông đã quay sang con đường quân sự, chọn lựa đối mặt với Hoa Kỳ. Sự việc này đã chuyển sang bên trái của những chính sách ngoại giao, với sự nhấn mạnh của Mao trạch Đông về tranh đấu giai cấp và chính sách cấp tiến trong sự liên hệ nội bộ Trung Quốc 1962. Sự việc này cũng ảnh hưởng đến vai trò của CSTQ đối với những vấn nạn chưa dàn xếp nơi Việt Nam. Với sự bỏ ngoài tai ý kiến của Wang, một cơ hội đã trồi lên sau này cho Hoa Kỳ len lõi vào Đông Nam Á đã bị hụt.
Vào mùa Hạ 1962, Hồ Chí Minh và Nguyễn Chí Thanh đến Bắc Kinh để bàn thảo với ban lãnh đạo CSTQ về tình trạng quan trọng do sự nhúng tay của Hoa Kỳ với Việt Nam và có thể Hoa Kỳ sẽ có một cuộc tấn công Bắc Việt Nam. Hồ Chí Minh “xin” CSTQ tài trợ cho công cuộc du kích tại miền Nam. Bắc Kinh đã thoả mán sự “xin cầu” của Hồ Chí Minh bằng cách đồng ý gửi cho CSVN 90,000 cây súng trường và súng máy (AK), số lượng này có thể trang bị cho 230 bộ binh tác chiến hat could equip 230 infantry battalions. Những vũ khí này sẽ được dùng để yểm trợ mặt trận du kích tại miền Nam. Vào tháng3,1963, Luu Thieu Ky, Bộ Trưởng Dân Nhân Giải Phóng Quân của Trung Hoa (Chief of Staff of the Chinese People’s Liberation Army (PLA)), ghé thăm CSVN và bàn luận với CSVN, CSTQ sẽ yểm trợ cho CSVN bằng cách nào nếu Hoa Kỳ tấn công miền Bắc. Hai tháng sau, Lưu thiếu Kỳ, chủ tịch của PRC, đến Hà Nội, và nói với Hồ Chí Minh: “Chúng tôi luôn sát cánh bên đồng chí, và nếu như chiến tranh bùng nổ, đồng chí có thể nhìn Trung Hoa như là một cánh tay.”
Sự thật thì, Bắc Kinh đã sớm chính thức ký kết với Hà Nội vào đầu năm 1963. Đến cuối năm đó, cán bộ của CSTQ và CSVN đã bàn thảo về sự viện trợ giúp đỡ của Bắc Kinh về dự án xây dựng những công trình phòng chiến và căn cứ Hải Quân ở vùng Đông Bắc lãnh thổ CSVN. Theo tài liệu từ Trung Hoa, vào năm 1963 CSTQ và CSVN đã ngầm ký kết hiệp định là Bắc Kinh sẽ gửi quân tác chiến vào Bắc Việt Nam khi cần. Quân đội CSTQ sẽ ở lại và chiến đấu tại miền Bắc để đoàn quân VC được rãnh tay xuống miền Nam. Nhưng ngày giờ và điều kiện trong bản hiệp địh tới nay vẫn không rõ ràng. Tổng kết, trong giai đoạn từ 1954 và 1963 Trung Quốc đã và luôn chặt chẻ tham dự vào trong những sự phát triển và quyết định của nền tảng chính trị Hà Nội. Đảng CS Trung Quốc “yêu cầu” Hồ Chí Minh phải chú tâm vào củng cố Đảng CSVN và liên kết sách lược đấu tranh bằng chính trị và quân sự đối với miền Nam VN.. Trong những năm từ 1956 và 1963, CSQT đã tiếp trợ cho CSVN 270,000 cây súng, trên 10,000 đại pháo , trên 200 triệu đạn dược, 2.02 triệu Trái Pháo , 15,000 dây truyền tin, 5,000 radio thông tin, trên 1,000 xe vận tải, 15 chiếc máy bay, 28 tàu chiến, và 1.18 triệu quân phục. Tổng số viện trợ từ CSTQ đối với CSVN trong thời gian này là hơn 320 triệu nhân dân tệ. Năm 1962 là một năm chủ yếu của những sự quyết định của những hành động cũng như thái độ của Trung Quốc đối với Việt Nam. Bỏ rơi dự án tiến tới trong thận trọng, Mao Trạch Đông đã chọn con đường đối đầu với Hoa Kỳ và quyết định đẩy mạnh sự tài trợ cần thiết từ Trung Quốc đến Hà Nội. Số lượng lớn viện trợ vũ khí từ Bắc Kinh đến với CSVN vào năm 1962 đã giúp đỡ Hồ chí Minh đẩy mạnh mặt trận du kích trong miền Nam, và đã khơi dậy thêm sự nhúng tay của Hoa Kỳ. Vào cuối năm 1963, ban lãnh đạo Trung Quốc rất là bất an về sự quyết định của Hoa Kỳ đối với Việt Nam tuy nhiên CSTQ vẫn luôn yểm trợ và tài trợ tối đa cho CSVN đối mặt với Hoa Kỳ.
Nhất Thanh Tóm Dịch