Lịch Sử Tư Tưởng Chính TrịThế Giới
Di Sản Tư Tưởng Chính Trị Hy Lạp-La Mã
Sự suy tàn của các Thành Quốc ở Hy Lạp (II)
II.- Suy tàn để mở đường đi vào tương lai
Cách đây 6 năm, hai giáo sư về cổ học tại Đại học Pacific Lutheran University of Tacoma là ông Eric D. Nelson và bà Susan K. Allard-Nelson (triết gia, chuyên khảo về Aristote) đã gọi biến cố suy tàn của các Thành Quốc, xảy ra vào thời điểm nửa phần đầu thế kỷ thứ IV trước CN ở Hy Lạp, là “buổi hoàng hôn chói sáng” . Dưới mắt hai nhà giáo dục này, “văn hóa Hy Lạp là nền móng của xã hội tân tiên ngày nay” ở phương Tây. Cũng đi cùng chiều với cách nhìn lại quá khứ này là nhận định, theo đó, sự suy tàn của các Thành Quốc nói trên không phải chỉ là một sự tự băng hoại đơn thuần. Mà là một biến thái để mở đường đi vào tương lai. Tại sao lại có hiện tượng chuyển hóa lịch sử “hoàng hôn chói sáng” ấy, và nó đã diễn ra như thế nào?
1. Thời thế tạo anh hùng nhưng anh hùng cũng tạo thời thế
Nếu có thể gọi ngáy tàn của các Thành Quốc ở Hy Lạp là một “buổi hoàng hôn chói sáng” thì cũng có thể đặt tên cho ngày các Thành Quốc ấy xuất hiện trên đất Hy Lạp là “buổi rạng đông rực rỡ”. Đây không phải là một thủ thuật thậm xưng, nói quá mức để làm cho câu văn thêm hấp dẫn, không cần biết cách mô tả này đã phản ánh đúng hay sai sự thật. Phải tránh không đánh giá vội vã bút pháp nói trên chỉ thuần về mặt ngữ nghĩa, mà phải bỏ công thâu thập, suy nghĩ để cân nhắc các sự kiện đã diễn ra trong cuộc sống thực tế tại các Thành Quốc ở Hy Lạp vào thời điểm từ giữa thế kỷ thứ VII đến giữa thế kỷ thứ IV trước CN, thì mới thấy được rằng bút pháp ấy, bằng hình ảnh, đã nêu lên được ý nghĩa lịch sử rất đặc biệt của xã hội Hy Lạp ở vào giai đoạn tiếp liền theo sau thời thái cổ. Và thêm vào đó, còn hiểu rõ được vì sao những ảnh hưởng sâu rộng của cuộc sống ấy đã được ghi khắc khắp các mặt, khoa học, văn học, nghệ thuật, chinh tri v.v…vào tiềm thức các xã hội tân tiến hiện đại trên thé giới ngày nay, không riêng gì trong vùng Địa Trung Hải và vùng tiếp giáp của ba châu Âu, Á và Phi.
Để cảm chiêu được với những người Hy Lạp thời các Thành Quốc – tiếp theo liền ngay sau thời thái cổ – thì trong hành trang du hành ngược dòng thời gian, thông qua sự tương tác giữa con người và các biến cố – cái thường được gọi là mối liên hệ giữa “thời thế và anh hùng” – ngoài khán pháp lạnh lùng của sử học, còn phải mang theo sự rung cảm nồng nàn và đa dạng của những tâm hồn những người Hy Lạp đã viết ra những trang sử Hy Lạp, một thời, dứới sự thúc đẩy của tình người, biểu hiện qua sự sợ hãi, óc trọng danh dự, lòng vị kỷ, tham vọng quyền lực, tất cả hòa quyện với nhau trong tâm trạng dưới dấu ấn của lý trí nhưng vẫn còn vương vấn với sức mạnh của thần quyền, sự nghiệt ngã bi thảm của số mệnh, những khổ đau của đời sống con người, những khát vọng công lý giữa cuộc đời v.v..
Nhìn sự việc dưới góc độ như vậy thì tất yếu đã phải thấy “bình minh rực rỡ” và “hoàng hôn chói sáng”, những hình ảnh giữ lại cho hậu thế một nếp sống đặc thù của một tập thể người, đã phát minh ra sự tự do vừa cá thể vừa tập thể, đã biết tổ chức cuộc sống chung để thử nghiệm sâu sắc hai thứ tự do đó mà ngôn ngữ thời đại bây giờ gọi là “văn minh Thành Quốc”.
Trên dòng thời gian, các sự việc đã thành tựu như thế nào?
Cho đến gần giữa thế kỷ thứ IV trước CN, văn minh Thành Quốc đã tạo ra được một khung cảnh xã hội trong đó người dân Hy Lạp đã sống cả một thế kỷ văn hóa nở rộ, với những sáng tác phẩm đủ loại, văn học, khoa học, triết học, nghệ thuật, hội họa, đồ gốm, kiến trúc v.v…Nhưng cuộc sống này đã không diễn ra một cách êm ả trong xã hội mà nhiều lúc đã phải đắm chìm trong tranh chấp, loạn ly…
Thời thế biến đổi, con nguòi biến đổi.
Về thời thế, văn minh Thành Quốc đã đạt được thành quả cụ thể là sự phát triển về mọi mặt quân sự, chính trị, văn hóa, thương mại, những yếu tố mang lại kích thích mới cho cả vùng đất giao tiếp với bán đảo Grecia (Hy Lạp). Phong cảnh chính trị, xã hội của vùng này một thời nở rộ như phép lạ, với các Thành Quốc, đã không tồn tại mãi mãi. Chiến tranh, thương mại đã khiến cho các Thành Quốc trước đó biệt lập nay trở thành liên lập dưới nhiều hình thức. Ngoài ra, trong tình huống ấy, tham vọng bá quyền tất nảy sinh và dẫn tới xung đột võ trang nội chiến. Một số Thành Quốc hàng đầu của Hy Lạp như Athènes, Sparta, Corinthe, Thèbes v.v…lúc hợp, lúc tan đánh chiếm lẫn nhau, ..
Thời thế này đã là cơ hội cho anh hùng xuất hiện để lãnh đạo cuộc tái phân phối quyền lực, thay đổi trật tự chính trị trong xã hội. Cơ cấu Thành Quốc, những thực thể chính trị tự trị, tự túc, tự cấp, với tuổi thọ gần hai thế kỷ dần dần mất đi địa vị độc tôn để nhường bước cho sự ra đời của những cơ cấu tập quyền mới mà cuộc thay đổi trật tự đòi hỏi. Mặt khác, xu hướng dân chủ lại bị xu hướng độc đoán quân phiệt, quả đầu chế (oligarchique) đẩy lui ra khỏi vũ đài chính trị. Thời thế ở Hy Lạp, vào thời điểm đầu thế kỷ thứ IV trước CN, chẳng khác gì một màn tuồng bi hài kịch được trình điễn trên sân khấu (đó cũng là cách nhìn cuộc đời phổ thông, giữa những người Hy Lạp).
Ba hồi của vở tuồng này là 3 cuộc chiến tranh – hai nội chiến, một viễn chinh – đã nhào nặn lại cơ cấu Thành Quốc rồi làm thay đổi hẳn hướng diễn biến của lịch sử Hy Lạp.
Cuộc chiến tranh thứ nhất là cuộc đánh chiếm toàn cõi Hy Lạp, diễn ra nhiều đợt, của Philippe II, vua nước láng giềng ở phương Bắc, Macédoine. Được cha là vua Amyntas III truyền ngôi, Philippe II đã đột xuất như một anh hùng cứu quốc, đối nội dẹp loạn phân ly tại các vùng, thống nhất nội trị. Đối ngoại, mở rộng biên cương cho Macédoine bằng những trận chiến quân sự, phá bỏ vòng vây của các lân bang thù địch, kiểm soát những vùng bờ biển cần yéu để thông thương với nước ngoài, khai thác các mỏ đồng, mỏ bạc kiém lời gây công qũy. Hai thành tích to lớn của Philippe II là, một, đánh chiếm để, từ đó, thống nhất được Hy Lạp và, hai, cải tổ bộ binh và kỵ binh, chế tạo vũ khí mới, hoàn thiện binh thuyết, xây dựng cho Macédoine một quân đội thiện chiến và hùng mạnh đứng bậc nhất trong vùng.
Sau hết, Philippe II còn mưu tính nhiều dự án trong đó có cuộc viễn chinh đánh chiếm Đế quốc Ba Tư (Perse), giàu mạnh, mà lãnh thổ trải rộng ra tận lưu vực sông Indus ở Ấn Độ ở phía Đông, xuống tới Ai Cập, (Egypte), Hy Lạp ở phía Nam…
Trong chừng mực đó, người ta có thể nói rằng Philippe II là người anh hùng tuy do thời thế tạo nên. Nhưng dồng thời, ngược lại, Philippe II cũng đã góp phần thay đổi thời thế, tạo đièu kiện mở mang bờ cõi cho Macédoine, thống nhất Hy Lạp, quy tụ các lực lượng lẻ tẻ trong vùng, họp thành một chủ lực có khả năng tranh thắng với Đế quốc Ba Tư. Philippe II, như vậy, là đã mở ra những triển vọng mới về tương lai, những triển vọng có ý nghĩa thời thế mới cho những tác nhân lịch sử mới, những triển vọng không thể triển khai nếu không có bàn tay của Philippe II.
Cuộc chién tranh thứ hai là cuộc nội chiến giữa hai Thanh Quốc hàng đầu của Hy Lạp là Sparte và Athènes. Hai Thành Quốc này, tranh giành nhau bá quyền, đã thử thách nhau qua hai đợt xung đột võ trang gây ra cho Hy Lạp thảm cảnh chinh chiến trong 26 năm (430-404 tr.CN). Rốt cuộc, Athènes đã thảm bại phải đầu hàng Sparte. Biến cố nội chiến này đã khiến cho những ánh hào quang rực rỡ của các Thành Quốc tắt dần cho đến khi cuộc chiến tranh thứ ba – cuộc viễn chinh đánh chiếm Đế quốc Ba Tư nổ ra – thì đã không còn bóng dáng các Thành Quốc trên đất Hy Lạp nữa.
Bị ám sát chết khi còn đang trị vì, Philippe II đã phải bỏ dở việc thực hiện dự tính đánh chiếm Đế quốc Ba Tư này. Sứ mệnh viẽn chinh ấy đã được trao lại cho con trai của Philippe II là Alexandre III, mà Philippe II đã lo tính đào tạo từ thời thơ ấu cho thành một nhà lãnh dạo văn võ toàn tài. Với dụng ý đó, Philippe II đã gửi Alexandre III đi thụ huấn về quân sự, mời Aristote vào vương cung dạy dỗ cho thái tử Alexandre III. Để sau này sẽ thành một nhà lãnh đạo hàng đầu, một người Hy Lạp gương mẩu và,nhất là thành một ông vua anh hùng, “Vua của các Vua”, một “Vua của Thế giới”. Philippe II đã nuôi chí lớn này cho con mình khi nó chỉ mới 12 tuổi mà đã trị được con ngựa quí Bucéphale, bất kham, không cho ai cưỡi. “Con phải lập được một nước khác, xứng đáng với con hơn, nước Macédoine này không đủ cho con cai tri”. Philippe II nói với Alexander III như vậy khi Alexnder III trên mình ngựa Bucéphale nhảy xuống đất.
Và Alexandre III, 20 tuổi, đã lên ngôi nối nghiệp cha. Nhưng Alexandre III đột xuất như một thiên tướng (giống như Phù Đổng Thiên Vương ở Việt Nam). Điều không ai có thể ngờ là Alexandre III đã lưu lại cho hậu thế một sự nghiệp danh tiếng vang lừng bốn bể. Sự nghiệp của Alexandre III đối với dân cúng là huyền thoại “A Lịch San Đại Đế”, được lưu truyền qua các thế kỷ nhưng phong cách của người vua anh hùng vĩ đại này đã vượt ra ngoài sức tưởng tượng. Chỉ mới trên 20 tuổi mà Alexandre III, sau khi bình định xong vương quốc của mình, đã đem quân lên đường viễn chinh, thực hiện giấc mộng không thành của vua cha là đánh chiếm Đế Quốc Ba Tư. Mối thù Macédoine, Hy Lạp bị Đế Quốc Ba Tư hai lần tới xâm lăng phải trả. Alexandre III đã ra quân dưới ngọn cờ giải phóng tất cả những ai đã phải làm nô lệ cho Đế Quốc Ba Tư. Khởi đầu bằng cuộc đánh chiếm Ai Cập, Alexandre III, từ nay là Alexandre le Grand, A Lịch San Đại Đế, đem quân đi tìm bắt vua Ba Tư là Darius, “vua của thé giới”. Trong trận đánh đẫm màu tại Gaugamènes, năm 331 trước CN, với quân số chưa được bằng nửa quân số của Darius, A Lịch San Đại Đế đã phá tan quân của Darius và khiến cho Darius phải bỏ chạy lên vùng núi Echatane ở phía Đông.. A Lịch San, được ba quân tôn lên làm Vua của châu Á, như một danh tướng – với dân chúng thì A Lịch San là một thiên tướng – tiến quân đánh chiếm thêm nhiều địa danh khác của Ba Tư như Babylone, Suse, Persépolis. Tuy thắng trận nhưng A Lịch San vẫn để cho những người cầm quyền những vùng này được tại chức, chỉ đặt họ dưới quyền kiểm soát của người Macédoine. A Lịch San bây giờ coi như là vua của thế giới. Tiếp tục tién quân lùng bắt Darius cho đến khi trên đường tháo chạy, Darius bị các thuộc hạ giết. Nên A Lịch San chỉ còn thấy được Darius hấp hối trước khi nhắm mắt và được A Lịch San làm lễ mai táng với nghi lễ như khi Darius còn vương quyền.
Nhưng cái chết của Darius đã không làm cho A Lịch San Đại Đế phải dừng bước. Trên lưng thần mã Bucéphale, thiên tướng A Lịch San vẫn muốn tiến quân. Nhưng quân của thiên tướng lại chỉ muốn trở về quê nhà ở Macédoine, ở Hy Lạp. “Quê hương của chúng ta bây giờ là Babylone”, A Lịch San Đại Đế đã trả lời như vậy khi nghe thấy những lời nài xin hồi hương của quân lính. Và đoàn quân viễn chinh lại tiếp tục cất bước cho đến khi nó đặt chân lên vũng lưu vực sông Indus ở Ấn Độ. Như vậy là dòng dã hơn 8 năm, A Lịch San Đại Đế đã đưa quân vượt hơn mười sáu ngàn cây số, ôm ấp mộng lập nên một vương quốc thống nhất Đông với Tây. Nhưng lại để ngày 10 tháng 6 năm 323 trước CN, A Lịch San Đại Đế từ giã cõi đời tại Babylone ở tuổi 33. A Lịch San Đại Đế, người anh hùng trong vòng chỉ có 10 năm, đã vẽ lại bản đồ thế giới, lập nên một đế quốc mới, ] mênh mông nhưng chỉ hiện hữu nhờ thiên tài của A Lịch San và đã sụp đổ khi danh tướng này không còn trên đời nữa. Vùng đất mới mà khôi óc cùng bàn tay của A Lịch San tạo dựng đã bị các thuộc tướng đem ra chia cắt thành nhiều mảnh…Nhưng sự băng hoại vật thể này đã không phá vỡ được những chiến tích tinh thần to lớn của A Lịch San Đại Đế khi người anh hùng này đã chinh phục được gần như cả thế giới văn minh để góp phần thay đổi hướng diễn biến của lịch sử nhân loại.
2. Tương lai đi về đâu
Những ánh sáng của buổi rạng đông rực rỡ dã mờ nhạt trên các Thành Quốc để nhường chỗ cho buổi hoàng hổn chói sáng, cửa ngõ của một không gian chính trị-xã hội Hy Lạp mới, điểm khởi đầu cho một giai đoạn lịch sử Hy Lạp mới. Giai đoạn được gọi là “Hy Lạp hóa” (hellénistique)*. Hay cũng có thể tạm gọi là giai đoạn hậu-A-lịch-San. Vì nó đã ra đời sau cuộc viễn chinh mười năm của A Lịch San Đại Đế. Hai hình ảnh “rạng đông rực rỡ” và “hoàng hôn chói sáng” được két hợp lại với nhau để diễn đạt ý kiến theo đó A Lịch San Đại Đế đã đưa nước Macédoine và các Thành Quốc biệt lập của Hy lạp lồng vào trong một không gian mở rộng gồm có nhiều phần đất của châu Phi, châu Âu và châu Á họp lại. Bởi thế đã không còn các Thành Quốc nữa vì những cơ cấu tự trị, tự túc này đã tự biến thành những họp tố của một không gian xã hội rộng lớn hơn nhưng vẫn giữ được những đặc tính Hy lạp tồn trữ trong các Thành Quốc nay đã mất đi hình thể cùng với danh xưng. Chất liệu nhân xã – công dân Thành Quốc – trước sống trong khuôn khổ cũ, chật hẹp và phân cắt nay trở thành công dân thế giới trong một không gian xã hội mới, đa nguyên, đa dạng, mở cho những người dân mang tên Hy Lạp những chân trời văn hóa, chính trị mới. Vì họ phải đổi mới ngôn ngữ, cách sống riêng và sống chung, nói tóm lại , họ đã bước những bước đi mới theo hướng tiến bộ, họ đã tự biến thành những người Hy Lạp văn minh. Bởi thế, buổi hoàng hôn cũa các Thành Quốc mới là buổi hoàng hôn chói sáng và giai đoạn hậu-A-Lịch-San mới là giai đoạn Hy-Lạp-Hóa.
Giai đoạn Hy Lạp Hóa này là giai đoạn của những biến cố hậu quả của cuộc viễn chinh của A Lịch San Đại Đế, những biến động đã làm cho văn minh Hy Lạp, cho đến thời Thành Quốc, thấm nhuần những vùng đất mới bị đánh chiếm ở cả ba châu Âu, Á, Phi và được sáp nhập vào vùng Macédoine-Hy Lạp để Hy Lạp Hóa những vùng đó, với những mức độ khác nhau. Nhưng tất cả đều đặt dưới quyền thống trị của lớp qúy tộc Hy Lạp-Macédoine.
Cũng như các giai đoạn khác của lịch sử Hy Lạp, giai đoạn Hy Lạp Hóa nói trên là sự biểu hiện trung thành của một mặt, sự tương tác giữa tình thế, con người và các định chếxã hội và, mặt khác, cách sống đặc thù của người Hy Lạp, nh ớ lại quá khứ, tìm hiểu hiện tại và hướng về tư ơng lai, luôn luôn đắm mình vào biến cố thay vì đứng ngoài quan sát rồi chịu đựng biến cố.
Trần Thanh Hiệp, LS