Nạn tham nhũng hoành hành ở Việt Nam là điều hầu như ai cũng biết. Cả thế giới biết: Trong các bảng xếp hạng về chỉ số tham nhũng của các tổ chức quốc tế, Việt Nam bao giờ cũng là một trong những quốc gia đứng đầu trong danh sách các quốc gia tham nhũng nhiều nhất. Người dân Việt Nam lại càng biết rõ điều đó. Ở đâu và làm gì cũng thấy tham nhũng. Việt kiều về nước, để khỏi bị hạnh hoẹ ở phi trường, nhiều người kẹp vài chục đô la trong passport. Đi làm giấy tờ, để cho nhanh, người ta phải đút lót cho cán bộ. Tìm trường học cho con cái, người ta phải hối lộ. Vào bệnh viện, muốn có giường nằm tốt, người ta phải xì tiền ra cho y tá. Lái xe trên đường, phạm lỗi, người ta phải gí tiền vào tay cảnh sát giao thông.
Tôi có một số sinh viên và người quen, sau khi học xong ở Úc, về Việt Nam, gõ bao nhiêu cánh cửa, tất cả đều im bằn bặt, cuối cùng, theo lời khuyên của người trong nước, chịu hối lộ mới có được việc làm tương đối khá. Nói chuyện với một số người có thẩm quyền ở Việt Nam, tôi được biết đó là một hiện tượng phổ biến. Tốt nghiệp ở các trường Sư phạm, muốn có việc làm trong thành phố: hối lộ. Tốt nghiệp Y khoa, muốn có việc làm trong các bệnh viện lớn: hối lộ. Nói chung không có việc làm nào có mức lương kha khá trong bộ máy nhà nước lại không cần hối lộ. Ngay cả quan chức chính quyền cũng hối lộ. Mỗi chiếc ghế đều có cái giá của nó. Những chiếc ghế béo bở, giá càng cao.
Tất cả các hình thức vừa nêu, hầu như ai cũng có thể nhìn thấy. Theo một cuộc điều tra của tổ chức quốc tế vào năm 2013, trong số những người Việt Nam được hỏi, chỉ có 18% nói tham nhũng có chiều hướng giảm; 27% cho tham nhũng vẫn y nguyên; và 55% cho tham nhũng càng lúc càng gia tăng.
Chính các cán bộ Việt Nam cũng thừa nhận điều đó. Đại biểu Quốc Hội Nguyễn Ngọc Phương phát biểu công khai: “Hầu hết mọi lĩnh vực đều có tham nhũng, người không tham nhũng bị người tham nhũng cô lập, tham nhũng chính sách cho hộ nghèo, chế độ chính sách với người có công. Tham nhũng vặt và hối lộ công diễn ra phổ biến và nghiêm trọng. Hối lộ xảy ra ngay trong cơ quan bảo vệ pháp luật, thanh tra, kiểm tra, kiểm toán.”
Tuy nhiên, những hình thức tham nhũng mà ai cũng dễ dàng nhìn thấy ấy đều là những vụ tham nhũng nho nhỏ, từ vài chục đến vài trăm hay vài ngàn đô la. Chúng làm cho dân chúng bất mãn, niềm tin đối với chế độ bị bào mòn. Nhưng ở Việt Nam còn có những hình thức tham nhũng lớn và nghiêm trọng hơn rất nhiều. Rõ nhất là trong các dự án, các cuộc đấu thầu, các hợp đồng kinh tế, các vấn đề liên quan đến đất đai, xây dựng cơ sở hạ tầng, quy hoạch đô thị, v.v… Hầu như không có dự án lớn nào, muốn được chấp nhận, người ta lại không phải hối lộ. Ngay cả các dự án quốc tế, do những tổ chức ngoại quốc thực hiện, người ta cũng phải hối lộ. Chính phủ cũng như báo chí tại Nhật và Úc đã nhiều lần lên tiếng tố cáo các việc hối lộ này (trong đó gây ồn ào nhất là vụ nhận hối lộ của ông Huỳnh Ngọc Sĩ trong Ban Quản lý dự án PMU tại thành phố Hồ Chí Minh và vụ nhận hối lộ của ông Lê Đức Thuý trong việc in tiền Việt Nam tại Úc). Số tiền hối lộ có khi lên đến cả hàng triệu đô la.
Hình thức tham nhũng thứ hai này gắn liền với những người có thế lực lớn trong xã hội, nghĩa là những cán bộ cao cấp trong guồng máy lãnh đạo đảng và nhà nước. Đó là lý do tại sao hầu như tất cả các cán bộ cao cấp đều giàu có một cách bất thường. Lương của họ, trên nguyên tắc, rất thấp, nhưng trên thực tế, tài sản của người nào cũng cao ngất ngưởng, nhà đất thì ê hề, con cái thì đi du học tự túc ở những quốc gia đắt đỏ nhất thế giới. Chúng ta cũng có thể dễ dàng nhìn thấy điều đó qua hình ảnh nhà cửa của các cựu Tổng bí thư đảng, từ Lê Khả Phiêu đến Nông Đức Mạnh: nhà người nào cũng giống như lâu đài nguy nga và hết sức tráng lệ. Căn cứ vào mức lương chính thức của họ, không ai có thể giải thích được những sự giàu có và xa hoa ấy cả.
Gắn liền với giới lãnh đạo cao cấp ấy là các nhóm thường được gọi là “nhóm lợi ích”, những người có tiền và biết cách dùng tiền để ảnh hưởng đến các chính sách của chính phủ, đặc biệt các chính sách liên quan đến giải toả đất đai, xây dựng các cơ sở hạ tầng cũng như các dự án xã hội, y tế, giáo dục. Những việc “chạy dự án” này tạo nên một khối liên minh giữa những người có tiền và những người có quyền, làm cho những người có tiền trở thành có quyền và những người có quyền thì có thêm tiền. Chúng làm lũng đoạn nền kinh tế quốc gia dẫn đến sự phá sản của nhiều đại công ty và khiến nợ công càng ngày càng chồng chất.
Chính vì gắn liền với những người có tiền và có quyền nên loại tham nhũng này rất khó bị phát hiện. Nói cho chính xác hơn: Không có ai dám phát hiện. Mới đây, thiếu tướng công an Phan Anh Minh cho biết, theo luật tại Việt Nam (qua chỉ thị 15-CT/TW của Bộ chính trị), công an không được quyền trinh sát đảng viên. Mà tất cả các cán bộ cao cấp đều là đảng viên, hơn nữa, đều là đảng viên cao cấp, thuộc Ban chấp hành Trung ương, thậm chí Bộ chính trị. Không được phép theo dõi, những người có bổn phận điều tra tham nhũng đành bó tay trước những kẻ tham nhũng.
Mà có theo dõi và có phát hiện tham nhũng, người ta cũng không dám tố cáo vì không dám đụng đến những người có quyền lực hơn hẳn mình. Đó là lý do tại sao ông Phạm Trọng Đạt, Cục trưởng Cục chống tham nhũng, tiết lộ về nguy cơ “người tham nhũng sẽ xử lý người chống tham nhũng” và thành thực thú nhận: “Chống có khi chúng tôi chết trước”. Và đó cũng là lý do tại sao mặc dù đảng Cộng sản và chính quyền Việt Nam lúc nào cũng lớn tiếng hô hào phòng và chống tham nhũng nhưng nạn tham nhũng, một mặt, rất ít bị phát hiện và mặt khác, càng ngày càng hoành hành dữ dội.
Không có một nỗ lực chống tham nhũng nào có thể thành công khi những người dễ tham nhũng nhất lại nằm ngoài và ở trên pháp luật.
TS Nguyễn Hưng Quốc