«C’est par le bas que l’homme grandit
Par les erreurs, les échecs, l’humiliation.
La hauteur n’est pas une grandeur
Mais toujours un renflement.
C’est par le bas que l’on grandit vraiment.
Par le bas que l’on croît la profondeur »
Philippe Mac Leod Sagesse, Edition Ad Solen Genève 2001
«Con Người ta lớn từ nơi hèn thấp
Do lỗi lầm, sai trái, với vụng về
Chốn cao sang không phải là cao thượng
Nơi thấp hèn chính là nơi phát xuất
Nơi thấp hèn, nơi ấy có chiều sâu »
Hiền Ngôn, NXB Ad Solen
Ngày mai của Việt Nam, ngày mai của đất nước, tương lai của quốc gia-dân tQuốc Gia-DânTộc :
Đúng, phải là Quốc gia Và Dân tộc. Hai vế rõ ràng. Hai cái Cẳng đứng thẳng, vững vàng của Con người. Con Người Việt Nam, Con người Đại Việt. Hãy giữ gìn và tiếp tục xây dựng và phát triển một xã hội trong quan niệm quốc gia-dân tộc. Với một dân tộc tánh, một Việt tánh tốt lành, nảy nở, thăng tiến. Khi ta nói dân tộc là phải nghĩ đến Dân tộc tiến bộ với một đường lối giáo dục và xây dựng cởi mở « Con người Dân tộc » Việt Nam !
Nói con người « dân tộc » là để phân biệt với con người « đoàn lũ » (danh từ của giáo sư Kim Định) để có một con người có rễ có nguồn, ở trong thế quân bình động, tránh được phóng túng và biết sống đời sống đáng sống, đáng sống trong hòa mục, nảy nở, thăng tiến.
Có thể tóm tắt trong hai chử NHƠN BẢN – Gốc Người, theo đúng nghĩa của Khổng Tử :
« Nhơn năng hoằng Đạo, phi Đạo hoằng Nhơn » – Người có thể làm cho Đạo cao cả, không phải Đạo làm cho Người lớn hơn. Đạo có cao siêu mấy, mà con người hư hỏng thì Đạo cũng bất lực ! Đạo tốt, mà gặp người tốt thì Đạo siêu thăng, con người cũng siêu thăng. Cũng như : « Giá trị con người là giá trị của chế độ » vậy ! Chế độ tốt mà con người xấu thì chế độ cũng hóa xấu. Chế độ xấu mà con người tốt, lâu ngày chế độ sẽ cải thiện. Chế độ xấu với một guồng máy kềm kẹp thì con người đồng nhứt cũng cùng xấu với chế độ.
Con người vốn là một trong tam tài, Thiên, Địa, Nhơn, cùng đứng chung với Trời Đất. Nếu ý thức rõ ràng, biết mình là một trong tam tài, thì con người là chủ, mà chủ trong cái thế điều hợp với Trời Đất. Khi ta nói NHƠN HÒA, nghĩa là hòa trong thái hòa với ý thức con người. Cho nên khi ta nói NHƠN BẢN, Nhơn không thể ngoài Nhơn Bản.
Vì vậy, làm cấp lãnh đạo phải biết nghe «Con người» ! « Con người » trong bản thân lãnh đạo, «Con người » trong bản thể của người dân, của người Công dân. Một quốc gia là một tập thể của những « Con người » sống với nhau. Một quốc gia có tánh Nhơn Bản là vậy !
Người ta thường dùng những từ ngữ như Dân Chủ, như Pháp Trị làm tiêu đề cho một quốc gia. Tiêu đề để định nghĩa hướng đi, hướng đẹp cho một chế độ. Nhưng người ta quên chế độ một quốc gia là do một tập hợp, tổng hợp lại, tạo một cuộc sống chung. Sống chung hoà hợp, đồng thuận hay không, nhưng đồng chia sẻ trách nhiệm nghĩa vụ và quyền lợi, giữa những nhóm người khác nhau, những cộng đồng « Con người » khác định nghĩa nhau ! Nói một cách khác, cụ thể ngắn gọn hơn, giữa nhóm cầm quyền hành lãnh đạo, gọi tắt là Nhà cầm quyền, và nhiều nhóm bị trị gọi tắt là Công dân. Từ ngữ Dân Chủ để định nghĩa đường lối quan hệ, quản trị. Từ ngữ Pháp trị (có người nói Luật Trị) để định nghĩa cơ chế hành chánh quản trị. Nhưng có những giải quyết, những giải pháp quản lý cần bản chất «Nhơn Bản-Con Người » hơn cần Luật Lệ hay Luật Pháp ; cần Đạo Đức hơn cần Luật Lệ ; cần Tình hơn cần Lý. Vì những lẽ đó, những lúc đó, Nhơn Bản phải là một trong những tiêu đề của một Quốc Gia ! Nhưng nếu Dân Chủ, Pháp Trị là những quan niệm, ý niệm phổ thông, quốc tế. Trái lại Nhơn Bản là đặc điểm của một quốc gia, vì nhơn bản là con người, vì vậy đó là bản sắc của một dân tộc, của một quốc gia-dân tộc.
Nhơn Bản là phổ thộng, là bao quát, vì Nhơn loại là tổng thể, vì Nhơn loại là thế giới. Nhưng Nhơn Bản dùng làm tiêu đề, dùng để làm một yếu tố tất yếu cho một quốc gia, PHẢI là yếu tố bản sắc của mỗi quốc gia-dân tộc.
Vì vậy Nhơn bản của một quốc gia là « Con người của Quốc Gia » ấy. Và cũng là nguồn Văn hóa của quốc gia ấy, là « Con người » truyền thống, là « Con người » lịch sử của quốc gia ấy ! Vì vậy, khi quản trị Nhơn Bản quốc gia-dân tộc Việt Nam, quản trị Nhơn Bản quốc gia-dân tộc Đại Việt, thì không thể quản trị đơn thuần, với một chủ nghĩa ngoại lai kiểu Cộng Sản Chủ Nghĩa, Pháp Quyền Đảng trị, Dân Chủ Tập Trung hay ngay cả, với đường lối cũng ngoại nhập nốt như Pháp trị Tư Bản Chủ Nghĩa, hay Dân Chủ Tự Do tản quyền của các quốc gia Âu Mỹ ! (Để ta cho có cái nhìn công bằng và vô tư !) Mà phải với một đường lối quản trị hoàn toàn mang mầu sắc truyền thống lịch sử nhơn bản á đông, truyền thống việt tánh, nhơn hòa bác ái, đầy tình, đầy nghĩa, đầy tình tự, triết lý đông phương !
Nhơn Bản Quốc gia-Dân tộc Đại Việt :
Được thành hình và nung đúc bởi 4000 ngàn năm văn hiếu, 4000 ngàn năm lịch sử thăng trầm, khi vinh quang, lúc tủi nhục ; nung đúc bởi nền văn minh lúa nước ; thành hình tại nơi giao lưu của văn hóa tam giáo phương Bắc tập hợp với tục xâm mình, ăn trầu phương Nam, là nơi gặp gở giữa Phật giáo Đại Thừa Bắc Tông và Tiểu Thừa Nam Tông…Ấy là chưa kể địa hình, địa lý Việt Nam, bao lơn, nhìn ra Biển Lớn Thái Bình Dương, hưởng thụ những ngọn gió văn minh văn hóa Hồi Giáo hay Bà la Môn thổi đến từ những quần đảo Nam dương-Mã lai ở tận phương Nam, hay những quần đảo bên kia Thái Bình Dương từ phương Đông xa xôi. Việt Nam cũng là cửa ngõ đón nhận những thương thuyền và cơn gió văn minh dân chủ tự do cởi mở từ Âu Mỹ thổi đến suốt cả hai thế kỷ qua.
Nhưng nói ngày mai của Việt Nam, nói ngày mai của đất nước, cần phải nói đến Tuổi trẻ.
Thanh Niên Nền Tảng Tương Lai Của Đất Nước :
Vì tuổi trẻ, thanh niên thanh nữ là nền tảng ngày mai của xã hội và của quốc gia-dân tộc. Thiếu tuổi trẻ thì dân tộc sẽ đi xuống, và quốc gia-dân tộc sẽ tàn lụi. Thiếu tuổi trẻ sẽ mất sự bình quân giữa SANH và TỬ. SANH nhiều hơn TỬ vì sự tranh giành ăn ở sẽ kịch liệt, khủng hoảng kinh tế, đời sống sẽ mất lẽ sống. SANH ít hơn TỬ thì xã hội lão hóa, không đủ sanh tồn.
Vì vậy, quân bình là yếu tố tất yếu. Tất yếu trong đời sống cá nhơn con người, tất yếu trong xã hội và tất yếu giữa các thành phần trong quốc gia-dân tộc.
Sống Còn Của Quốc gia-Dân tộc Việt Nam.
Từ ngày 30 tháng tư 1975, toàn thể đất nước Việt Nam từ Ải Nam Quan đến Mủi Cà Mau và toàn thể dân tộc Việt Nam đã mất chủ quyền. Có người, (phần đông phe ta dân Miền Nam, ngày nay một số tỵ nạn ở nước ngoài) cho là mất nước. Cũng có người (phần đông gốc Miền Bắc đã từng quen sống dưới chế độ Cộng Sản) cho là không mất nước (hay chưa mất nước ?) vì kẻ thống trị vẫn còn (?) là người Việt.
Nhưng đa số dân chúng Việt Nam ngày nay, từ Bắc chí Nam, sống ở hải ngoại hay ở quốc nội đều nhận định rằng tuy là do người Việt thống trị, nhưng là người Việt mất gốc, thành người quốc tế, thuộc tổ quốc Cộng Sản, ngày nay lại do Tàu Cộng làm đầu tàu, cho nên có thể nói là mất nước, cho dầu hình ảnh chữ S còn đó ! Non nước còn đó (thật không ?), trơ trơ với mây gió (đầy ô nhiểm) ! Và, ngày nay, nếu những ai đang quan sát tình hình đất nước Việt Nam, đều nhìn nhận rõ ràng, dân tộc tánh không còn, lịch sử bị bóp méo, văn hóa hướng vật, lai căng, hoàn toàn hán hóa, tàu hóa, nhơn đạo không có, nhân văn không còn, chỉ có chế độ, văn phong, văn hóa của chủ nghĩa duy vật, của chế độ, không còn hiện hữu của con người văn hóa Việt truyền thống xưa, của dân tộc Việt nữa ! Và đều kết luận rằng đây mới thật là một đại họa !
Nói như vậy, để hiểu rằng dân tộc Việt Nam hiện nay, đang sống trên đất nước Việt Nam Cộng Sản Chủ Nghĩa, là đang sống trong một kỷ nguyên có thể đi đến tiệt chủng ! Vì đây là một ngõ rẻ đi đến một bước ngoặc lịch sử sống còn của dân tộc Đại Việt, nhóm dân tộc cuối cùng của đại gia đình Bách Việt đã bị Hán hóa trên 90 %.
Dân tộc Việt Nam ngày nay cũng đang sống trong một thế giới hiểm nghèo, với một nền kinh tế nghèo đói (Việt Nam nay là một trong những quốc gia nghèo nhứt thế giới), với một mội trường ô nhiểm, đầy bệnh tật, nào đồng bằng phì nhiêu Miền Nam, ô nhiểm… bởi chất độc Arsenic, với giòng Sông Cửu đang bị nhiểm mặn, lên non rừng xanh Trường Sơn, cây xanh đốn sạch, xuống bể, Biển Đông xưa kia đầy cá, nay nhiểm chất độc do Formosa sa thải, giết sạch nguồn cá mắm… Ngày nay, tuy dân tình tha oán, tuy hận Nhà cầm quyền, tuy thù quân xâm chiếm Hán tộc nhưng những nỗ lực giải phóng khỏi chế độ Cộng sản vẫn còn là những vấn đề cực kỳ khó khăn, vì còn nhiều rào cản, do sự thiếu đồng thuận dù vẫn có ít nhiều đồng tâm.
Thế còn Người Việt tỵ nạn Cộng Sản chúng ta ?
Việt Nam Hải Ngoại, Cộng Đồng Hải Ngoại (La diaspora)?
3 triệu người đã bỏ xứ ra đi, với số chết trong rừng, dưới biển, chết trong tay hải tặc, trong tay cán bộ bất lương, có trên cả triệu người, nay tỵ nạn sống rãi rác trên, khắp thế giới. Sau 40 năm Miền Nam Việt Nam bị rơi vào tay Cộng sản, báo chí trong nước (tuy do chế độ cộng sản kiểm soát) cũng phải có nhận xét tình hình người Việt Nam tỵ nạn, với Việt tánh, với Văn Hóa Nhơn Bản Đại Việt, tuy lưu vong, nhưng vẫn giữ bản sắc, hội nhập dễ dàng vào xã hội người, sanh hoạt, kinh doanh và học hỏi, kiến thức với những kết quả vượt bực. Sự thành đạt, được các nhà xã hội học Huê kỳ hay Pháp, Đức … hay những nước có một con số cộng đồng Việt Nam khá đông, đánh giá vượt mức trung bình. Các thế hệ 2, 3 con cháu hậu duệ thanh niên, thanh nữ gốc Việt đổ đạt cao, thành tài vượt bực.
Lm Vũ Đình Trác trong cuốn « Việt Nam trong quỹ đạo Thế giới » hãnh diện tả chân, mơ ước :
« Người ta tưởng rằng : đây là một dân tộc mất gốc, lưu vong… Kỳ thực, đây là một dân tộc đang sống còn, sống mạnh trong cộng đồng thế giới, để chuẩn bị cho cuộc phục sinh, vinh thăng trong thế giới hậu cộng sản… »
Nhưng cái ngày mai tươi sáng ấy đặt cho toàn thể người Việt cả trong nước lẫn hải ngoại lắm điều kiện, lắm khó khăn.
Bổn phận hiện nay, đầu tiên, tất yếu là GIỮ. Bổn phận GIỮ rất là khó ! Giữ cái HỒN Việt là GIỮ gốc, giữ rễ, giữ gia phả, giữ tên tuổi truyền thống gia đình, đã là một cái khó rồi. Giữ THÊM được cái Đạo Việt ; Giữ Con Người Việt, Đức Tánh Việt, Dân tộc Đại Việt ; phải Hãnh Diện là Dân tộc Đại Việt, phải giữ đất nước Đại Việt « Nam Quốc Sơn Hà » của tổ tiên ta ! Càng khó hơn nữa là ngày nay, ngày mai, tuổi trẻ Việt Nam, thanh niên thanh nữ Việt Nam, ngoài cái bổn phận GIỮ ấy – Giữ Hồn Việt, giữ Đất Việt – phải còn có một bổn phận cao cả hơn nữa là PHỤC VIỆT. Phục Dân Tộc Đại Việt để Phục Quốc Gia Đại Việt.
Phục Việt để Phục Quốc. Khôi Phục Quốc gia-Dân tộc Việt !
Như trên đã nói, ngày nay, toàn thể người dân Việt Nam (quốc nội !) đang sống trên một đất nước Việt Nam hoàn toàn dưới sự thống trị của một chế độ độc tài, cực kỳ nghiêm khắc, trong sự kềm kẹp của một bộ máy cực kỳ hữu hiệu, rất khó mà quật khởi !
Nói khó chứ không phải là nói không được. Dẫu có đi nữa, cũng còn thiếu hiệu quả, như ta đã thấy. Nói như vậy không có nghĩa là về lâu dân tộc không có cơ hội giải phóng (THAY THẾ), hay phe thống trị không tự chuyển hóa (THAY ĐỔI) ! Nhưng đây tới đó, dù có vài bộ phận chống đối, dù có vài bộ phận thức tỉnh, dù có vài bộ phận bị dằn vặt, lương tâm căn rứt, bọn chóp bu Đảng Cộng sản đương quyền, cũng vẫn tiếp tục ngoan cố, và sẽ còn tiếp tục ngoan cố, làm đủ mọi cách không cho dân tộc tánh có cơ hội nảy nở.
Đồng bào trong nước đặt nhiều hy vọng nơi đồng bào tỵ nạn, cộng đồng dân tộc hải ngoại và vào tuổi trẻ hải ngoại. Và tuổi trẻ gốc Việt năm châu đã thành công vẽ vang. Chúng tôi mong rằng là đồng bào ta, thanh niên ta, lưu vong trên mặt đất, phải thành công cho dân tộc, chớ không thành công cho riêng mình, cho riêng nhà mình.
Phải giữ gốc Việt. Giữ gốc là giữ lý lịch, giữ truyền thống gia đình, giữ sắc thái bản thể dân tộc để đối thoại với tha nhơn, sống chung sanh hoạt hòa bình với mọi cộng đồng trong xã hội, hòa nhập, an lành, hài hòa với các cộng đồng thiểu số khác và với cộng đồng bản xứ. Có giữ gốc mình, có trau dồi sắc thái dân tộc mình thì giá trị cá nhơn và cộng đồng mình mới hài hòa, hòa nhập, trao đổi được với giá trị của các dân tộc khác.
Vì vậy, Tuổi trẻ ngày mai của đất nước không chỉ là PHẢI giữ lịch sử, truyền thống, giữ cái « CÒN » : CÒN thanh niên Việt. CÒN người Việt. CÒN dân tộc Việt. Mà phải CÒN trong HÀI HÒA, LIÊN LẬP, chớ không phải Còn để Dị biệt, để Kỳ Thị, để Cô Lập. CÒN mà chung sống, đáng sống, của Con người. CÒN để làm cho Đạo Việt lớn không bị đè bẹp.
Cũng vì những định nghĩa chánh trị và khoa học chánh trị ấy, nên chúng tôi xin lập lại lần nữa. Chúng ta thà nói nhảm, thà bị mắng « biết rồi khổ lắm nói mãi » hơn là để bị lầm lạc. Do đó chúng tôi xin được phép nêu lại lần nữa, định nghĩa rõ ràng lần nữa :
Việt Kiều [Công Dân Của Nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam] Khác Với Người Việt Tỵ Nạn Cộng Sản [Cựu Công Dân Của Quốc Gia Việt Nam Cộng Hòa].
Người tỵ nạn Cộng sản gốc Việt Nam Quốc Gia không phải là Việt Kiều ! Xin nhắc lại một dữ kiện lịch sử mà hiện nay một số khá đông người tỵ nạn đã quên ! Ngày mà chúng ta, những người công dân miền Nam Việt Nam, của quốc gia và chế độ Việt Nam Cộng Hòa, đã bị quốc tế và Mỹ nuốt lời hứa, phản bội, bức tử, giao đất nước và dân chúng miền Nam Việt Nam cho quỷ đỏ Bắc Việt và quốc tế Cộng sản. Bắt đầu ngày ấy, tất cả chúng ta đều biến thành những người, vô gia cư, vô quốc tịch – do, một, Việt cộng đã cưởng chiếm nhà cửa đất đai, xô đuổi gia đình thê tử chúng ta và giam cầm đày đọa biệt xứ bản thân chúng ta biến toàn cựu dân miền Nam thành những kẻ không nhà – hai, khi tịch thu giấy tờ hộ tịch căn cước cũ (Việt Nam Cộng Hòa) đã biến chúng ta thành những người vô quốc tịch, phi công dân – NON citoyen – hay một loại thứ dân hạng hai, mất hẳn những quyền lợi công dân, từ đi tìm việc làm đến con cái chúng ta vào đại học cũng phải chứng minh thứ hạng loại công dân của mình. Tình trạng nầy đã đẩy chúng ta PHẢI bỏ nước ra đi. Do đó, chúng ta PHẢI đi LÁNH NẠN nên biến thành là những người TỴ NẠN, bắt buộc phải BỎ quốc gia, nhà cửa, đất nước, nơi sanh ra đi tìm sự sống. Chúng ta KHÁC với người DI DÂN, tự nguyện ra đi tìm nhà mới, đất mới, việc làm mới, sanh sống mới ! We are a refugee, we are NOT a migrant ! Chúng ta là người TỴ NẠN không phải người DI DÂN ! Phải rõ ràng với LÝ LỊCH như vậy !
Vì những lẽ đó, chúng ta khi rời Việt Nam, chúng ta đã từ kẻ PHI công dân – NON citoyen, biến thành Kẻ VÔ TỔ QUỐC – Apatride ! Và được quốc tế nhìn nhận định chế Vô Tổ quốc–Apatride ấy qua định nghĩa bởi Bản Giao Ước quốc tế được ký kết tại Genève Thụy Sĩ ngày 28 tháng7 năm 1951- La Convention de Genève du 28 juillet 1951 relative au statut des réfugiés et des apatrides. Từ những kẻ vô giấy tờ – không có Chứng Ninh Nhân Dân (thẻ căn cước Cộng sản), chúng ta khi đến bờ Tự Do, ngay từ những Đảo, ngay từ những Trại tỵ nạn, tá túc tạm thời, đã nhận ngay những giấy tờ tùy thân, bảo vệ, chúng ta từ những kẻ đã bị tước danh tánh, tước mất lý lịch nay đã tìm lại danh tánh, lý lịch… từ những KẺ thua trận, tù đày, vô danh tiểu tốt chúng ta đã trở lại thành CON NGƯỜI, phục hồi danh tánh, nhơn cách, nhơn phẩm. Quý hóa thay định chế Apatride ! Với Apatride, chúng ta có giấy có tờ, có tên, có tuổi, và từ đó chúng ta đi làm lại, tìm lại được đời sống, tìm lại được CON Người, phục hồi danh dự, Nhơn phẩm !
Và chúng ta TUYỆT ĐỐI không phải Việt Kiều ! Vì vậy mong quý thân hữu đừng bao giờ gọi người tỵ nạn Cộng sản chúng ta là Việt Kiều nữa ! Và nhờ phẩm chất Tỵ Nạn Hải ngoại, nhờ ở Hải Ngoại, chúng ta đã PHẢI vứt bỏ hẳn những rác rến bởi những độc chất vô văn hóa ngoại lai hán hóa do bộ máy tuyên truyền Cộng sản Hà Nội chỉ đạo đầu độc chúng ta, chúng ta đã bảo tồn được Văn Hóa Truyền Thống Đại Việt, đã được nun đúc từ ngàn xưa, và được Văn Hóa cùng Chế Độ của Quốc Gia Việt Nam Cộng Hòa vun trồng gìn giữ suốt trên 20 năm qua, trong suốt cả những năm tháng bị quân Cộng Đỏ từ phương Bắc phá hoại, pháo kích, uy hiếp biên cương giới tuyến địa lý lẫn cả tuyên truyền văn hóa, dân vận văn công…với những tên văn nghệ sĩ nhà báo phản chiến nằm vùng kiểu Trịnh Công Sơn, Tôn Thấp Lập, Huỳnh Tấn Nẩm, Chân Tín, Lý Quý Chung… Vì vậy, mong quý thân hữu, cố gắng giữ gìn sự trong sáng của văn chương chữ nghĩa văn hóa Quốc Gia Cộng Hòa của chúng ta mà cũng là Văn Hóa Đại Việt từ ngàn xưa của tổ tiên chúng ta. Nhứt quyết không dùng từ ngữ Cộng sản trong những bài viết của chúng ta, trong những câu nói hằng ngày của chúng ta…Bỏ đi những « đăng ký », những « tham quan », « khẩn trương », « chất lượng », « quản lý », « thuyết minh » … Hãy nói đúng tiếng Việt, để trả lại tiếng Việt đúng cho người Việt đúng đắn ! Đôi lời cảm tạ và đội ơn tất cả những ai cố gắng nói đúng Việt ngữ. Cá nhơn tôi sanh và lớn ở miền Nam, nên vẫn tiếp tục nói và viết với giọng văn của người miền Nam. Miền Nam và chế độ miền Nam đã cưu mang gìn giữ gia phả gia đình chúng tôi suốt trên 20 năm giữ nước, giữ văn hóa, giữ gốc Việt, và xây dựng đất nước và Con Người Miền Nam trong một thể chế Nhơn Bản, Tự Do và Dân Chủ ! Và ngày 30 tháng Tư năm 1975, Quốc Gia Việt Nam Cộng Hòa đã bị bức tử ! Từ ngày ấy chúng ta là apatride, chúng ta đã MẤT quốc tịch Việt Nam Cộng Hòa, và KHÔNG có quốc tịch Việt Nam Cộng Sản. Chúng ta CHỈ là người Việt. Đơn Thuần là người Việt. Hãnh diện là người Việt !
Việt Kiều (les resortissants vietnamiens) CHỈ dùng để gọi những người có quốc tịch của Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, với Thông hành (Hộ Chiếu) CộngHòaXHCN Việt Nam sống ở ngoài VN.
Kết Luận: Tuổi Trẻ Phục Việt
Mộng Ước đầu năm Đinh Dâu là « Niên Lai kiến Thái Bình ». Kiến Thái Bình, kiến Việt Nam phục hưng. Tuổi Trẻ trong nước can trường Phục Quốc. Tuổi Trẻ Quốc Nội can trường lấy lại quyền Tự Chủ, đuổi Hán Cộng, dẹp Việt Cộng, Khôi phục Quốc Gia-Dân Tộc. Tuổi Trẻ Hải ngoại hào hiệp hy sanh mang nhiệt huyết, kỹ thuật, khoa học trở về xây dựng phục hồi đất nước. Quốc Nội Phục Quốc ; Hải Ngoại Phục Hưng.
Tuổi Trẻ Việt Nam Trong Ngoài Đất Việt, Cùng Nhau Chung Sức Phục Việt !
Mong lắm !
Hồi Nhơn Sơn, Giấc mơ năm Đinh Dậu
Phan Văn Song
One Comment
hatrungliem@gmail.com
Hưng Việt tính.
Phuc Viết tình.
Hoàn Việt đạo.