Tin Ban Mê Thuột thất thủ đã phủ một bóng đen lên toàn bộ cuộc sống. Chiến tranh hiện diện ở mọi nơi, mọi lúc. Chiến tranh là đề tài của tất cả mọi người. Người ta nói về chiến tranh ở quán cafe, ở quán ăn bên vỉa hè, trên bàn ăn của mỗi gia đình, ở chợ và ở cả trường học.
Trường của Tín nhìn bên ngoài vẫn không có gì thay đổi, họ vẫn đi học, vẫn diện thật đẹp: đồng phục thẳng nếp, giầy da bóng loáng, đồng hồ đắt tiền. Các thầy cô vẫn lên lớp nhưng có vẻ trầm tư hơn. Những thầy trước đây vẫn thường la hét bây giờ trở nên dịu dàng và lặng lẽ. Tín nhìn thấy nơi đôi mắt các thầy cô một ánh nhìn âu lo và sầu thảm. Kỹ luật đã trở nên lỏng lẻo từ bao giờ mà chẳng ai hay. Những giờ dạy học được cắt ngắn ở mọi môn học. Thầy cô dành nhiều thời gian để nói chuyện với nhau. Trong giờ học, nếu có ai đó mất trật tự thì cũng được nhắc nhở nhẹ nhàng và qua quýt. Thầy cô chẳng còn để tâm đến tiết học. Đối với anh, đó là một sự yên lặng rất khó hiểu. Nhưng giờ công dân vẫn như mọi ngày, cuối tiết học nào thầy T.S.X cũng dành thời gian cho các đề tài thời sự, chỉ khác là bây giờ năm phút thời sự đã kéo dài thành ba mươi phút. Hôm nay, thầy nói về chiến sự xảy ra ở những điểm nóng và phê phán lớn tiếng chính quyền bất lực, tham nhũng và dối trá. Thầy chỉ trích hệ thống tuyên truyền và thông tin của chính phủ, coi thường công luận: chiến sự xảy ra ở đâu thì cũng “địch quân thiệt hại nặng, quân ta hoàn toàn vô sự”. Rồi ông lên án ông Tỉnh trưởng này, Thị trưởng kia ăn cướp của dân.
Thầy nói:
– Người nông dân thì bánh tráng cuốn thịt heo, còn các quan chức thì tole quấn ximăng. Những nhà lãnh đạo quân đội thì bất tài, không hiểu gì về binh pháp. Thông tin tình báo thì mù tịt, bất cập, không nắm hiểu ý đồ chiến thuật của địch. Ban Mê Thuột mất chính là biểu hiện sự bất tài bất lực của những nhà lãnh đạo quân đội.
Rồi thầy đả kích nước Mỹ bán đứng Việt Nam Cộng Hoà, đâm sau lưng, hy sinh Việt Nam Cộng Hoà vì chiến lược toàn cầu của Mỹ. Tất cả những gì thầy nói, họ chẳng hiểu gì và cũng không quan tâm gì mấy. Họ chỉ mến thầy ở sự sinh động, cởi mở; kính trọng thầy vì kiến thức và tác phong sư phạm. Lúc ấy, Tín thật sự không hiểu : Đất nước Việt Nam là của người Việt Nam, sự hưng vong của đất nước, của dân tộc Viêt Nam là trách nhiệm của những người lãnh đạo chính phủ, của chế độ, tại sao lại đổ tất cả lên đầu người Mỹ, người Mỹ quan trọng đến thế sao?!. Còn sứ mệnh và trách nhiệm của chính quyền Việt Nam ở đâu? Thoáng nghĩ vậy thôi, chứ anh vẫn biết mình chỉ là một thằng nhóc, thì hiểu cái gì, mà chính trị thì quá phức tạp !
***
Ở trường về, ăn cơm xong, Tín vẫn đi chơi như mọi khi. Nhưng phố xá yên lặng hơn. Trên đường phố, nhiều người trở nên ủ dột, nét mặt đăm chiêu. Họ mua hàng nhiều hơn để dự trữ, phòng khi chiến tranh kéo đến. Những quán cà phê, quán nhậu, người ta mở nhạc nhỏ hơn và cũng vắng khách hơn. Tín đến nhà một thằng bạn nhà giàu – nhà kín cổng cao tường, bấm chuông và chờ đợi. Tường (tên thằng bạn) ra mở cửa. Không như mọi khi, nó nói rất khẽ :
– Vào đi.
Vẻ mặt nó đăm chiêu. Tín cũng hiểu một phần nhưng vẫn hỏi:
– Mày làm sao vậy? Có vấn đề gì sao?
Nó trả lời, giọng trầm xuống. Cái kiểu cách này Tín chưa gặp ở Tường bao giờ, nhưng đã gặp nhan nhản ở ngoài kia, trên nét mặt của những người lớn.
– Không phải tao mà ông già tao. Ông đang tính chuyện thu gom tài sản và di tản.
Tín thấy mọi việc đã vượt quá tầm suy nghĩ của mình. Tín linh cảm mọi cái bắt đầu rạn nứt: trường học, bạn bè và còn gì nữa đây. Những trật tự và những quan hệ đã trở nên trục trặc. Người ta bắt đầu có những dự kiến đau xót và đầy rủi ro, bất trắc.
– Nhưng đi đâu bây giờ? Chiến tranh ở mọi nơi.
Tường vừa đi vừa nói:
– Đi Mỹ. Ông già tao định bán hết tài sản ở Sài Gòn, Đà Nẵng, rút tiền ở ngân hàng và đi Mỹ. Tao có anh và chị đi học ở bên đó, và đã trở thành công dân Mỹ từ năm 70. Anh chị tao sẽ thu xếp cho gia đình tao sang định cư tại Mỹ.
Họ ngồi đối diện nhau trên ghế đá. Có rất nhiều ghế đá được đặt dưới tán cây. Một khoảng vườn đẹp và êm ả của những buổi chiều yên bình trước đây – nơi tụ họp của bạn bè. Bây giờ chỉ có Tín và Tường. Họ có cảm giác như khoảng vườn rộng ra. Và cái cảm giác hiu quạnh của buổi chiều như giãn ra choáng ngợp cả không gian. Tường không còn sinh động như trước đây. Thay vào vẽ nghệ sĩ và khoáng đạt là nét trầm tư và đau khổ. Tín nghĩ anh có thể hiểu nỗi đau của Tường. Được sang định cư tại Hoa Kỳ trong hoàn cảnh chiến tranh ác liệt và đầy bất trắc này thì đó là ước mơ không dám nghĩ tới của đại đa số dân Việt Nam. Nhưng đối với Tường giờ đây, đó là một nỗi đau và cuộc chiến tranh này là một cơn ác mộng… Nỗi đau đó là Hạnh, một cô gái đài các và tuyệt đẹp. Tường vào nhà mang ra hai lon nước trái cây mát lạnh và cây đàn ghita. Tín uống một ngụm nước, mùi thơm quen thuộc mà anh rất thích, bây giờ trở nên nhạt nhẽo. Lon nước mở nắp để trên mặt bàn đá, những giọt nước đóng quanh lon chảy thành dòng nhỏ đã làm ướt mặt bàn, nhưng Tường giờ đây như quên hết mọi thứ. Cây đàn ghita hững hờ trong tay Tường, đôi mắt xa xăm. Khu vườn vẫn yên tĩnh lạ thường. Không một nốt nhạc vang lên trong chiều nắng vàng thơ mộng. Những chiếc lá vàng rơi đầy vườn không ai buồn quét. Chậu quỳnh thật đẹp dưới gốc vương vãi mấy đoá hoa tàn đã héo nhàu, không ai chăm sóc. Sự lịch lãm của chủ nhân được thể hiện qua từng viên đá, từng nét uốn lượn của những cây xương rồng, từng vị trí của mỗi chậu hoa. Nhưng nét chăm chút gọt tỉa của cây bonsai đã có sự xao lãng vô tình. Tường cứ ngồi như vậy: ủ dột và buồn bã, không còn che dấu nữa. Tín không muốn kéo dài sự yên lặng này. Sự yên lặng làm nặng trĩu bầu không khí và cả những tán cây trong vườn.
– Mày đã nói việc này với Hạnh chưa?
– Rồi. Tường trả lời mà không nhìn Tín. Ánh mắt Tường nhìn ra xa xăm.
– Vậy Hạnh phản ứng thế nào?
Duỗi dài đôi chân, ưỡn người một chút, Tường có vẻ mỏi mệt. Mái tóc gợn sóng, dáng người cao lớn, cái dáng vẽ nghệ sĩ và đầy ấn tượng đó. Tín nhìn và nghĩ thầm: Tường là một người mà Trời ban cho rất nhiều may mắn. Gia đình giàu có bậc nhất trong tỉnh, đẹp trai và học giỏi với rất nhiều tài năng, một giọng hát tuyệt vời. Nhưng điều làm anh yêu mến nhất ở Tường là sự nhạy cảm và tấm lòng nhân hậu.
– Còn phản ứng thế nào đây? Chỉ có khóc và khóc. Tối qua, tao có đến. Hạnh gầy đi rất nhiều. Tao không biết phải làm thế nào đây?! Tao là đứa được mẹ yêu mến nhất, là báu vật của mẹ. Như mày biết đó, không có tao bên cạnh mẹ sẽ không sống được. Bệnh tim của mẹ mỗi ngày một nặng. Lần này sang Mỹ là cơ hội để chữa bệnh cho mẹ tao. Nếu mẹ không ở trong tình trạng như vậy tao sẽ xin phép ba mẹ cho tao ở lại. Không có Hạnh, tao sống cũng như chết và Hạnh cũng vậy thôi. Không biết sẽ như thế nào đây, nếu tao đi Mỹ. Tao sợ Hạnh héo hon mà chết mất. Hạnh mảnh mai như một đoá hoa quỳnh, chịu sao nổi. Tao không biết, người ta nghĩ gì, mưu cầu điều gì mà cứ lao đầu vào chiến tranh, húc hết chỗ này đến chỗ khác. Họ có chịu hiểu những người trẻ như mình mong muốn điều gì ở họ, ở tương lai? Họ hiểu là chúng ta cần cái gì không? Đó là hoà bình, để cho chúng ta được sống tự do với tư cách là một con người. Chúng ta được sống với số phận của chính chúng ta, chứ không phải là sự áp đặt của người khác.
Tín không ngạc nhiên gì khi nghe những lời tâm sự đó, vì chính anh cũng nghĩ như thế, và thế hệ của họ đều nghĩ như thế. Bình thường, Tường đã ăn nói lưu loát và đầy suy tư, nhưng cuộc chiến này đã làm cho Tường già dặn hơn và đau khổ hơn. Họ – mỗi người theo đuổi sự suy nghĩ của mình.
Có tiếng chuông ngoài cửa. Tín nhìn khu vườn yên tĩnh, cây ngọc lan già nua với những đoá hoa trắng muốt và thơm ngát là quà tặng của họ cho các bạn gái để tỏ ra”gallant” một thời; khóm trúc sau vườn mà họ vẫn làm cần câu cá những ngày hè trên cầu ao, những con cá bạc lấp lánh và những tiếng cười tự nhiên đầy thán phục của mấy cô bạn gái mỗi lần một chú cá vô phúc bị mắc câu và giãy đành đạch trong giỏ; và cây mai giữa vườn mà cứ mỗi lần Tết đến Tường tặng chúng bạn mỗi đứa một cành, đến nổi nó mang thương tích đầy mình. Nhưng thật lạ, trong cái vẻ tiều tuỵ và đầy thương tích nó lại đẹp lạ lùng.Tín ngước nhìn mấy cây mận đã từng gắn bó với họ trong những ngày hè nóng bức. Những trái mận vừa chua vừa ngọt, mọng nước chấm với muối ớt thật cay.…Tất cả những gì ở đây, trong khu vườn này, Tường cùng với người cha uyên bác và người mẹ nhân hậu, từ lâu đã trở thành một phần của tuổi thơ họ, và nơi đây là thiên đường nhỏ của anh. Bất giác, Tín thấy nhói đau trước cái viễn cảnh Tường sẽ ra đi, ngôi nhà này sẽ thuộc về một người nào đó xa lạ; và những cây mận, cây mai, ngọc lan không còn là những người bạn, chúng sẽ trở nên xa lạ. Anh chợt mường tượng :mỗi lần đi ngang qua, nhìn vào ngôi nhà, khu vườn vẫn gần gũi và thân thiết nhưng lại thuộc về người khác, sẽ không còn nghe thấy tiếng đàn ghita và giọng hát trầm ấm của Tường. Ở xứ người, Tường có còn hát: Ướt mi, Hoài Cảm…. nữa không? Còn nếu hát thì hát với ai, cho ai nghe? Có thể Tường sẽ có mối quan hệ khác với ai đó. Nhưng nơi đây, cái xứ sở nghèo nàn và đầy đau khổ vì chiến tranh này mới thực sự là thiên đường của họ.
Một bàn tay đặt nhẹ lên vai Tín. Nụ cười vẫn rạng rỡ như mọi ngày, Hưng đã đến tự bao giờ:
– Tụi mày sao mà thiểu não vậy. Đã chết đâu, chuyện gì đến nó sẽ đến, cứ vô tư mà sống.
“Cứ vô tư mà sống”, liệu có được không đây? Khi chiến tranh mỗi ngày một ác liệt, sự tàn phá mỗi ngày mỗi lớn, cầu cống, đường sá bị đổ nát. Thây người đẫm máu, tổn thất nhân mạng cho cả hai bên và nhiều nhất vẫn là dân chúng. Sự đảo lộn lớn đến nỗi con người chưa kịp lấy lại sự cân bằng thì lại đảo lộn, mỗi ngày một rối tung lên. Còn những chia cắt trong các mối quan hệ, những tình cảm thương yêu máu thịt, thì có dễ dàng, bình thản được không? Những nỗi đau quằn quại. Người nối tiếp người ra đi mà chẳng biết còn có một ngày gặp lại không. Rồi những ước mơ, dự định về một hạnh phúc, một “thiên đường” tưởng như rất thực ngày hôm qua, bây giờ chỉ còn là một lâu đài trên cát. Một ánh mắt nồng nàn, một vẫy tay lưu luyến ngày hôm qua đã mãi mãi trở thành kỉ niệm. Những con người trẻ trung và ngây thơ có đủ khả năng chịu đựng không, và những vết đau đó sẽ để lại cái gì trong lòng họ, sẽ biến họ thành con người như thế nào?
Tín hỏi Hưng, thay lời chào:
– Mày biết hết rồi phải không? Trước cả tao, phải không?
– Tất nhiên rồi. Nhưng tao thấy quyết định ra đi của gia đình Tường là hơi vội vàng. Biết đâu mọi chuyện lại ổn thoả, quân đội sẽ tái chiếm, lập lại an ninh, và những người cộng sản sẽ thực hiện hiệp định Paris, lập lại hoà bình và tổng tuyển cử.
Tường cười một cách cay đắng:
– Những người cộng sản họ đâu có nghĩ như mày. Mục tiêu của họ là “giải phóng” miền Nam bằng vũ lực. Mày cũng ấu trĩ như một số nhà chính trị của cánh trung lập .
Hưng cười một cách hồn nhiên như chẳng có chuyện gì xảy ra. Tín thèm muốn sự vô tư ấy, nhưng không phục sự vô tư, dễ dãi đó .
– Mày và thằng Tường thuộc cánh nào: chống cộng, thân cộng hay trung lập .
– Tao chẳng thuộc cánh nào hết. Nhưng theo sự phân tích của một số người am hiểu thời cuộc thì Việt Nam Cộng Hoà sẽ thất bại vì bị Mỹ bỏ rơi .
– Chưa chắc, biết đâu đó là đòn “hồi mã thương”của Mỹ. Nếu Mỹ đổ quân trở lại thì sao ?
Tường cười chua chát:
– Đừng nằm mơ, người Mỹ họ không đặt chân vào vũng lầy này nữa đâu. Tao nghe ba tao nói đây là môt phần của kế hoạch toàn cầu. Họ chấp nhận thua một trận đánh để thắng trong cả cuộc chiến .
Tín tham gia vào cuộc tranh luận :
– Nhưng nếu như ba Tường nói đúng thì Mỹ cũng không phải là kẻ mạnh và việc bỏ rơi một đồng minh cũng làm hoen ố hình ảnh của nước Mỹ. Bỏ rơi Việt Nam thì còn có đồng minh nào dám gắn bó với nước Mỹ nữa.
Tường lại chua chát :
– Nhưng đồng minh như thế nào đây? Việt Nam và Mỹ là quan hệ giữa một siêu cường và một nhược tiểu .
Tín nhận thấy tất cả bọn họ đã lớn, đã trưởng thành từ lúc nào không biết. Thời cuộc làm cho con người già trước tuổi chăng? Họ thấy trên tivi và báo chí hằng ngày vẫn diễn ra những cuộc biểu tình khắp cả nước, nhất là ở Sài Gòn – Huế, các cô cậu học sinh – sinh viên còn non choẹt hùng hổ giơ cao nắm đấm, miệng hét đả đảo thật to với danh nghĩa ”Chống tham nhũng, đòi hỏi hoà bình, thực hiện hiệp định Paris”. Tín thấy lạ lùng và khó hiểu, chống tham nhũng thì đúng rồi nhưng đòi hoà bình thì không thể nào hiểu nổi, chiến tranh thì ác liệt, Việt Nam Cộng Hoà giờ vào thế thủ – thế phòng ngự chứ đâu có tấn công, hoà bình đâu có ở trong ngăn kéo các nhà lãnh đạo Việt Nam Cộng Hoà đâu. Anh giật mình, nhìn lại chính mình. Ở cái tuổi đầy nhiệt huyết này, việc gì cũng dám làm nhưng không khéo sẽ mắc sai lầm biến thành con tốt trong thế cờ định trước. Tốt hơn hết là nên học, nên yêu. Tình yêu sẽ làm cho tuổi trẻ nhân hậu hơn và hiểu về tha nhân hơn.
Tín nói nhưng không tin lắm vào những gì mình nói:
– Biết đâu chỉ thời gian nữa thì trật tự sẽ được tái lập. Mọi việc sẽ tốt đẹp như cũ, tụi mầy có thấy năm 1968? Nghe tao đi, mọi việc rồi sẽ qua thôi.
Tường nói có vẻ ưu tư và buồn bã:
– Năm 1968 khác, bây giờ khác. Năm 1968, chúng ta còn có quân đội Mỹ, với hoả lực áp đảo và tại Hoa Kỳ chúng ta còn được ủng hộ. Bây giờ thì người Mỹ đã ra đi, sự ủng hộ tại Quốc hội cũng như dân chúng Mỹ không còn. Lần này thì chết chắc rồi.
Tín thấy thương Tường quá và nhận ra Tường am hiểu hơn anh nhiều. Bóng đèn trong mấy lùm cây bật sáng. Tín biết đã trễ. Bây giờ, anh nhận ra có mùi hương gì đó quen thuộc của khu vườn khi về đêm. Nó mơ hồ và bàng bạc, gần gũi và xa vời, có lẽ là một chút hương ngọc lan toả ra từ lùm cây rậm rạp pha lẫn với mùi hoa lài, hoa ngâu cùng với nhiều thứ hoa khác sống lặng lẽ ở đâu đó. Họ chia tay. Tường vẫn tiễn Tín và Hưng như mọi lần ra đến đường phố. Phố đã lên đèn. Cái thị xã nhỏ bé và thơ mộng, khiêm tốn và thân thương, hiền hoà như một thiếu nữ con nhà gia giáo: không nổi bật, không rực rỡ, nhưng anh thấy không nơi nào đẹp như nơi đây. Tuổi thơ của anh và các bạn lớn lên nơi đây, gắn bó như máu thịt. Nếu vì một lý do gì đó phải ra đi, thì suốt đời khắc khoải nhớ mong, suốt đời hoài vọng.
Tín chia tay với Hưng… Khi về đến nhà, mọi người đang quay quần bên bàn ăn. Tín thường đi chơi về muộn nên mẹ anh cũng không lo lắng gì. Tín lặng lẽ ngồi vào bàn. Bữa cơm vẫn ấm cúng và sung túc nhưng mọi người có vẻ trầm ngâm. Anh biết mọi người đang nghĩ gì, cũng là chiến tranh sắp đến chỗ họ và một tương lai đầy bất trắc, không ai ăn được nhiều. Trong nhà, ba Tín là người lo lắng nhất. Cả đời ông vất vả, cuộc sống đang yên lành, tương lai đang mở ra với họ, tất cả con cái ông đều học giỏi. Ông đang chuẩn bị tiền để xây lên một tầng, có chỗ cho mấy người con nghỉ ngơi và học tập. Bây giờ thì phải đình lại hết. Trong ba đứa con, ông hi vọng ở Tín nhiều nhất. Anh muốn trở thành luật sư và ông ủng hộ anh. Ông luôn tạo điều kiện tốt nhất để anh học tập. Ông không nói nhưng Tín biết ông rất hoang mang vì mấy ngày nay ông trở nên dễ dãi lạ lùng. Bình thường, ba anh rất nghiêm khắc và hay phạt con mỗi khi phạm lỗi. Còn bây giờ ông không để ý đến lỗi lầm của con cái nữa. Hình như ông linh cảm thấy một điều gì đó sắp xảy ra và làm thay đổi mọi thứ. Ông không còn tự tin vào bản thân mình nữa.
Đêm hôm ấy, lại xảy ra một cuộc giao tranh nhỏ. Đơn vị nghĩa quân đóng gần để bảo vệ cây cầu và tuyến đường chạy về vùng duyên hải và cả nhà máy điện nữa. Tín nghe có tiếng B40 nổ rất gần. Những tiếng nổ chát chúa có sức uy hiếp lớn. Tín nhanh chóng và thành thạo lao xuống giường và chui vào hầm trú ẩn. Chỉ một lát, cả nhà đã đầy đủ trong hầm. Ngọn đèn dầu nhỏ với ánh sáng mờ mờ, anh chọn chỗ thuận lợi để nhìn ra ngoài qua cửa hầm. (Tín vẫn thích như thế từ lúc còn bé). Cứ mỗi lần có đánh nhau là Tín được thưởng thức cái cảm giác vừa lo sợ, vừa thích thú của trẻ con. Ngoài kia, trong những tiếng hỗn loạn của nhiều loại vũ khí từ hai bên, Tín nhìn thấy qua một khoảng không gian hẹp, những tia chớp sáng loè nối tiếp nhau. Ánh sáng lân tinh của hoả châu mờ mờ và ma quái. Tín lắng nghe và hình dung những tiếng rít xé bầu không khí của vô vàn những viên đạn, dệt thành một mảnh lưới cuả thần Chết. Cuộc đọ súng kéo dài khoảng 2 giờ đồng hồ, rồi dịu đi. Không còn những tia chớp sáng loè xé bóng đêm, chỉ còn những tiếng nổ rời rạc. Tín rất buồn ngủ nhưng không sao ngủ được. Cái mùi ngai ngái và ẩm mốc của đất và xi măng làm anh khó chịu, cùng với tiếng muỗi vo ve khắp gian hầm. (Tuy mẹ anh đã cẩn thận dùng thuốc chống muỗi). Tín nằm co chân lên vì không có đủ chỗ cho đôi chân khá dài của mình, anh nằm chờ trời sáng… Ngoài kia trời đã tờ mờ sáng. Chung quanh thật im ắng, nhưng anh đã quen với tất cả những điều này. Đó là cuộc sống của họ. Tín nhìn ra ngoài nhưng mẹ không cho, vậy là phải nằm co ro chờ đợi. Tín đã thiếp đi lúc nào không biết và giật mình tỉnh dậy khi nghe thấy những tiếng người hỏi thăm nhau. Những người lớn tuổi thường đi thăm hỏi xóm giềng để biết có tổn thất gì không? Tín ăn vội chén cơm chiên bơ – kiểu ăn điểm tâm của những gia đình không mấy giàu có ở thành thị và chạy nhanh ra ngoài. Nhiều người đi trên đường vẻ mặt hớt hãi, anh biết đã có việc chẳng lành xảy ra. Đi theo một đám người trong xóm, anh đến nhà một người quen, tuy không thân lắm. Tiếng khóc của người mẹ nghe ai oán. Tiếng nức nở của hai đứa trẻ con làm anh hơi hoang mang. Tín vào nhà thấy nhiều người vây quanh chiếc giường tre đã cũ. Nằm trên giường là một thiếu nữ như đang ngủ say. Mái tóc cô gợn sóng, dài và đen nhánh xoã trên gối. Một mái tóc thật đẹp, đẹp hơn cả mây trời mùa thu, Tín thầm nghĩ vậy. Làn da trắng nõn, và hồng hào, đôi môi mọng đỏ và thật quyến rũ. Gương mặt cô còn hơi trẻ con nhưng quí phái. Tín mang máng nhớ cô bé này giống ai đó, à đúng rồi – Chân Trân một nữ diễn viên Hồng Kông. Cô bé này anh không dám mơ ước, tuy cô và anh ở cùng xóm. Nhà anh cách nhà cô chỉ vài nóc nhà. Họ vẫn thường hay gặp nhau. Vẻ tinh nghịch đáng yêu của cô đã làm tan chảy trái tim của biết bao chàng trai. Cô bé nằm trên giường, đắp tấm chăn mỏng, vết thương rất nhỏ nơi ngực hơi rỉ máu. Tín cảm thấy đau nhói, và trong trái tim còn trẻ con ấy dấy lên một sự bất bình. Cô gái đó là một tác phẩm tuyệt vời của Tạo Hoá – hiện thân của cái đẹp ngàn đời – lại bị huỷ hoại bởi một mảnh đạn nhỏ bé, xấu xí và ngu xuẩn. Cô đã ra đi đột ngột giữa lúc cha cô đang đi làm xa không một lời từ biệt với người cha kính yêu. Tín thấy cay đắng và bất lực. Anh cảm thấy một cái gì đó đang nghẹn lại trong cổ họng. Thân phận con người thật yếu đuối và mong manh. Anh bỗng muốn đi tu quá. Chắc Đức Phật từ bi hiểu được lòng anh.
Tín ra về như một kẻ mất hồn, nhưng lại bị cái đám đông ở cuối con phố cuốn hút, rồi quyết định đến đó để chứng kiến cái cảnh bi thương của con người và bộ mặt xấu xa tàn ác của chiến tranh. Người ta đem từ lô cốt ra một người lính trẻ. Anh ta rất trẻ khoảng 24-25 tuổi. Mái tóc cắt gọn gàng và khá đẹp. Anh ta khá bảnh trai, nhưng nhìn kỹ thì biết anh xuất thân từ nông thôn. Gần đó, người mẹ của anh – một người đàn bà cao lớn và hơi thô – bà khóc như điên như dại, ôm xác đứa con bê bét máu. Anh ta bị trúng đạn ở nhiều chỗ quá, chỉ có khuôn mặt là còn nguyên vẹn. Bà mẹ khóc và chửi mắng. Lúc đầu bà chửi cộng sản rồi sau lại chửi quốc gia và trách cứ ông Trời sao mà nghiệt ngã và tàn ác với bà. Bà đứng lên hơi loạng choạng, có hai người lính là bạn của con bà đỡ hai bên. Bà tiến về phía người sĩ quan chỉ huy con bà, túm chặt cổ áo anh ta và xỉa xói chửi mắng đủ điều, như là anh ta phải chịu trách nhiệm về cái chết của con bà. Anh sĩ quan chỉ lặng yên, khuôn mặt đau buồn vì mất một người bạn. Bản thân anh cũng đâu quyết định được số phận của mình. Bất ngờ, bà mẹ vùng ra khỏi tay hai người lính, nhưng bà lại gục ngã và quị xuống. Bà đã kiệt sức vì quá đau buồn.
Tín lại đi theo dòng người dẫn dắt. Tín muốn chứng kiến hết bộ mặt của chiến tranh, không bỏ sót một chi tiết nếu có thể, để sau này anh có thể nói cùng mọi người rằng: chiến tranh là điều đáng ghê tởm, và mỗi người phải tự ý thức được rằng mình không bao giờ là nguyên nhân gần hay xa của chiến tranh. Tín thấy có ba xác chết của những người cộng sản ở một góc phố: hai nam và một nữ. Cô gái còn trẻ khoảng 22-23 tuổi thôi – một cô thôn nữ không đẹp nhưng duyên dáng, bàn tay không nuột nà nhưng cũng khá đẹp, bàn chân nhỏ nhắn nhưng bị nứt nẻ nhiều vì cuộc sống gian khổ trong chiến khu, hoặc vì một hoàn cảnh khó khăn. Hai người đàn ông tuổi ba mươi và ba lăm gì đó: một người là nông dân lực lưỡng với cái đầu vuông và khuôn mặt cứng cỏi; người kia có vẻ thư sinh hơn, tuy khó xác định anh ta làm nghề gì, là thành phần nào trong xã hội. Trên người cả hai vẫn còn đeo vài trái lựu đạn, súng AK báng xếp, đội mũ tai bèo, mái tóc cắt rất vụng, nham nhở và không hề cạo chân tóc, chắc là họ tự cắt cho nhau. Người sĩ quan quân đội cộng hoà từ trên xe xuống, anh ta thận trọng xem xét ba người cán binh cộng sản đã chết nằm sóng soài trên mặt đất, máu chảy ra rất nhiều, thấm cả một vạt đất ở xung quanh. Mấy người lính mang theo ba chiếc chiếu mới, người sĩ quan ra lệnh cho họ rải ba chiếc chiếu kề nhau, rồi họ bê ba xác chết đặt lên chiếu. Họ làm việc thận trọng với vẻ mặt trang nghiêm trước những người chết. Khi còn sống, họ là kẻ thù, còn bây giờ họ không là gì nữa. Họ chỉ là những người xấu số, không bạn bè, không người thân. Tín thấy xót xa, không biết họ ở đâu, cha mẹ anh em, vợ con họ có biết họ đã chết không? Nếu biết họ sẽ rất đau lòng, một nỗi đau tột cùng như anh đã thấy người thân của cô gái trẻ và anh lính kia. Người sĩ quan thận trọng và rất tế nhị khi khám xét trong túi áo và quần của người nữ cán binh: tìm xem họ có mang theo giấy tờ gì không. Trong những chiếc túi mang theo trong người của họ chỉ có ba cây đèn pin, ba tấm vải dù và một ít tiền, ngoài ra không có gì hết, không tên tuổi không quê quán.
Tín nghĩ nếu không có chiến tranh, thì có thể ở đâu đó, người lính cộng hòa kia đã phải lòng cô gái quê trẻ này cũng nên. Tín hình dung ra cô gái duyên dáng đó giặt áo ở cầu ao hay chăn trâu, cắt cỏ, anh lính thì cày bừa. Họ sẽ hạnh phúc với nhau, sinh con đẻ cái. (Thỉnh thoảng anh vẫn hay mơ mộng như thế). Nhưng mọi việc đã không như vậy, chiến tranh đẩy họ vào vòng xoáy và họ đã bắn vào nhau. Rồi bây giờ thì họ đã ra đi mãi mãi.
Tín về nhà buổi cơm trưa không nuốt được, trong người cảm thấy nặng nề như trước một cơn đau. Anh đi tắm, và dùng nhiều xà phòng thơm hơn mọi lần để tìm một cái cảm giác dễ chịu trong cái mùi thơm nồng nàn của xà phòng, để đẩy lùi cái cảm giác ghê ghê cứ đeo bám anh từ những vũng máu của cô bé hàng xóm, người lính và ba cán binh cộng sản. Tín thấy mình thật ích kỉ, nhỏ nhen, và tội lỗi khi có cái cảm giác như vậy. Họ cũng như anh thôi, cũng máu thịt, cũng thân phận con người, có gì mà ghê? Sau đó, anh đi ngủ, cả một đêm không ngủ được bao nhiêu.
Tín thức giấc lúc 4h chiều, và đạp xe đến nhà Thương – cô bạn gái của anh. Với anh, Thương là thanh mai-trúc mã. Tín học với Thương từ tiểu học đến giờ. Bây giờ thì Thương đã là một cô gái xinh đẹp, còn anh chẳng còn là trẻ con như ngày xưa nữa. Tín của ngày xưa ngốc nghếch và tinh nghịch. Những buổi chiều đầy nắng trên đám ruộng sau nhà, anh mãi chạy theo bầy bò người ta chăn thả, cố leo lên ngồi trên lưng bò để cảm nhận cái cảm giác phiêu bồng của chàng kị sĩ, nhưng anh đã bị hất nhào, ngã lăn xuống đất, đau ê ẩm. Lúc đó, Thương chạy đến, hớt hải lo sợ hỏi anh: “Có sao không?”. Tín tự ái, giấu cái đau ê người: “Không sao”, nhưng rơm rớm nước mắt.
Và có những chiều anh dẫn Thương lang thang trong khu rừng nhỏ còi cọc, tìm hái cho Thương thật nhiều hoa dẻ. Thứ hoa dẻ thơm ngát một mùi dịu dàng và chỉ thơm vào buổi chiều. Còn Thương thì tìm cho anh những chùm hạt dẻ chín vàng ngọt lựng nhưng khá nhiều hạt. Những hạt dẻ đen, đen như răng của những cụ già người Bắc “Năm Tư” vẫn hay đến nhà anh chơi với mẹ. Rồi Tín dẫn Thương đi câu cá trên dòng sông tuổi thơ xanh biêng biếc. Bờ sông cát trắng mượt mà, có những đoạn rất nông. Những ngày mùa, từng đàn trâu bò và nhiều người đi qua, nước chỉ quá gót người lớn thôi. Tín và Thương đi dọc bờ sông. Đôi bàn chân bé nhỏ, mũm mỉm của Thương in trên cát mịn.
Có một lần đi câu, với chiếc cần câu thô sơ anh mua ngoài chợ nhưng cũng nhỏ nhắn và đáng yêu như họ. Họ chọn một chỗ vừa mát, vừa đẹp theo ý Tín, thả câu và ngồi chờ. Thương ngồi bên theo dõi đến nín thở, nhìn chiếc phao trắng nhỏ xinh xinh thả trôi trên mặt nước. Bất chợt, chiếc phao biến mất hút trong làn nước xanh. Tín giật mạnh, con cá bé tí bay vút lên bờ, rơi xuống, giãy giụa một cách tuyệt vọng trên bãi cát. Thương đã dùng bàn chân xinh xắn giữ lấy con cá vì sợ nó vụt mất. Nhưng bỗng Thương ôm chân kêu lên. Tín chạy đến và nhìn thấy con cá có gai độc (ở quê anh, gọi là cá ngạnh). Thương khóc rất nhiều. Tín đã làm đủ mọi cách: hút máu, rồi xoa bóp, nhưng Thương vẫn khóc. Lần đó, anh bị cấm không cho đi câu cá nữa….
Rồi một ngày, họ ra vườn đào dế, anh nhận ra một điều rất lạ. Thương cẩn thận vén chiếc áo đầm màu hồng trước khi ngồi xuống và cũng cẩn thận che đi hai đầu gối trắng muốt. Thương đã biết xấu hổ trước mặt anh. Và cũng từ đó, khi ngồi với nhau, Thương vẫn giữ khoảng cách nhỏ, chứ không quá gần như ngày xưa nữa. Chỉ có một điều là : có gì ngon Thương vẫn giữ cho anh phần nhiều và ngon nhất. Họ vẫn cùng nhau đi học và đi chơi. Nhưng bây giờ Thương ít nói hơn và dành nhiều thời gian để mặc áo, chải đầu và soi gương. Đã nhiều lần anh nhìn thấy Thương đứng rất lâu trước gương để ngắm nhìn chính mình. Lúc đó anh nghĩ: tại sao lại phải dành nhiều thời gian để ngắm mình trong gương – một việc chẳng có ích gì!!.
Và cũng có một ngày Tín đi đá bóng, bị sai khớp, phải đi nhà thương. Anh đau quá nên khóc rất to, không biết xấu hổ là gì nữa. Thương cũng khóc. Khi mọi việc tạm ổn, Thương ngồi bên cạnh anh, tỉ mẩn lột vỏ từng quả nho cho anh ăn. Trông Thương cứ như một người chị. Tín buồn và hơi lo lắng….
Nhưng cũng có một ngày, Tín bỗng thấy mình lớn vụt hẳn lên: 17 tuổi-1m7-55kg. Giờ đây Tín là một chàng trai “oai phong lẫm liệt”. Khi đi chơi, hay đi học anh đều bắt gặp những cái nhìn, nhất là những cô gái. Anh tự biết mình khá đẹp trai và quyến rũ. ..Tất cả những kỷ niệm xưa ngọt ngào và đằm thắm ấy cứ hiện lên đầy ắp trong anh.
Hàng cây hai bên đường xanh hơn, rậm hơn, và càng yên tĩnh hơn khi gần đến nhà Thương. Một khoảng vườn rộng và cũng khá đẹp. Một căn nhà nằm khuất sau những lùm cây. Ngôi biệt thự không lớn nhưng cái vẻ yên tĩnh và sang trọng của nó cũng nói lên được phần nào cá tính và xuất thân của chủ nhân. Thương xuất thân từ một tầng lớp khác với anh. Mẹ Thương là một bác sĩ, còn ba Thương là nhà báo nổi tiếng. Ông thường xuyên vắng nhà để làm công sự. Nhưng lúc còn bé Tín thường hay gặp ông. Đối với anh, ba mẹ Thương thật gần gũi. Ông là một người trầm mặc nhưng đối với trẻ con thì ông rất dễ gần và tuyệt vời. Trong dáng người cao lớn và nghiêm nghị là một tâm hồn bao dung, nhân từ. Trái lại, mẹ Thương là một phụ nữ cứng rắn. Dưới cái vẻ ngoài hiền thục và quí phái là cả một cá tính bản lĩnh, tế nhị vô ngần… Tín tự tay mở cổng và đạp xe trên con đường trải đá phẳng lì, hai bên là thảm cỏ xanh mượt mà, với những chậu cây được chăm sóc khá cầu kì. Thương đang đọc sách nên không nhìn thấy anh qua ô cửa sổ. Những bức rèm màu xanh nhạt tạo cho căn nhà một vẻ quyến rũ đến lạ lùng.
Thương ra đón anh với lời trách nhẹ nhàng :
– Sao bây giờ anh mới đến. Mẹ và em sốt ruột quá.
Tín nhìn Thương, cảm động. Mái tóc nàng mượt mà quá, xoã xuống ôm lấy bờ vai nhỏ nhắn. Thật đáng yêu!! Thương của anh đẹp lạ. Một vẻ đẹp thanh tao và quý phái, khiến người chiêm ngưỡng nó cảm thấy như có một dòng suối mang cả hương ngàn ban mai xuyên chảy trong lòng. Mỗi lần gặp Thương là một lần anh nhận thấy một sự mới mẻ.
Tín nói với Thương như nhiều lần đã nói:
– Em đẹp thật.
Đôi mắt Thương long lanh khi nhìn anh, niềm vui khi gặp Tín cộng với niềm vui của người con gái khi được người yêu khen ngợi làm cho nụ cười và nét mặt của Thương càng rạng rỡ hơn trong ánh chiều. Thương làm bộ nghiêm trọng, khẽ nói yêu:
– Thôi đi ông! Mẹ đang chờ anh đó, mẹ lo cho anh lắm.
Có tiếng guốc từ phía dưới nhà đi lên, quen thuộc từng bước đi. Mẹ Thương niềm nở đón Tín như một người con. Tín chào bà kính cẩn như một người mẹ, nhưng không chút khách sáo mà nó đã là thói quen từ nhỏ. Bà hỏi khi họ ngồi vào bàn,chiếc bàn tròn, loại bàn cổ, mặt đá khung gỗ cầu kì, quí phái. Bà tự tay rót trà. Tín rất mê mùi hương dìu dịu của hoa ngâu xen lẫn trong mùi hương lài. Và với anh sau này dù đã uống rất nhiều loại trà ngon, nhưng chén trà anh uống ở nhà Thương vẫn luôn làm anh nhớ mãi.
– Sao bây giờ mới đến hả con? Nhà con vẫn bình yên chứ ? Bác định xuống thăm nhưng chị Tư đã xin phép về quê mấy hôm, không đi được, chỉ có mỗi một mình Thương ở nhà không tiện, an ninh mỗi ngày một lỏng lẽo.
Tín cảm thấy hãnh diện và rất vui khi được bà quan tâm. Điều này cũng không phải lần đầu.
– Dạ nhà con không sao. Tín trả lời và nhìn xung quanh một thoáng.
– Đêm qua ở đây có đánh nhau không bác?
– Nhờ trời là không. Ở chỗ con đánh nhau lớn phải không? Bà nói với giọng lo lắng, căng thẳng.
– Dạ không lớn lắm, nhưng cũng có vài người chết.
Rồi Tín kể những việc anh đã mục kích cho bà và Thương nghe bằng cái tài kể chuyện khá sinh động của anh. Bà thốt lên đôi mắt buồn xa xăm :
– Tội nghiệp quá!
Bà trầm ngâm một chút rồi nói thầm:
– Chiến tranh cứ tiếp tục thế này thì tương lai của các con sẽ ra sao? Rồi sẽ ra sao nữa nếu những người cộng sản chiếm miền Nam – bà nói như nói với chính mình.
Thương ôm vai bà an ủi:
– Mẹ đừng lo lắng quá rồi mọi chuyện sẽ qua thôi mà! Con không hiểu tại sao lại xảy ra đánh nhau giữa hai miền Việt Nam, con một nhà cả mà?
Tín nói với Thương những gì Tường đã nói với anh những lần trước:
– Những người cộng sản họ nói là họ “giải phóng” nhân dân miền Nam khỏi sự kiềm kẹp của Mỹ – Nguỵ.
Thương hất tay Tín âu yếm:
– Thôi đi anh, chỉ giỏi bịa chuyện.
Tín chưa kịp phản ứng gì thì mẹ Thương nói mà không nhìn họ:
– Anh Tín nói đúng như những gì phía kia họ nói. Nhưng mà ai bị kiềm kẹp? Ở miền Nam này có ai bị tướt quyền tự do – dân chủ đâu? Người ta hành xử quyền tự do ngôn luận – tự do báo chí và thông tin, tự do ứng cử và bầu cử, tự do hoạt động chính trị. Đời sống người dân tuy có nghèo nhưng vẫn giàu hơn ở miền Bắc nhiều. Thực ra đây chỉ là một cuộc chiến ý thức hệ, người cộng sản muốn làm bá chủ thế giới bằng cách gây chiến tranh với những nước tự do. Theo chỗ bác biết, người dân các nước cộng sản Đông Âu và Liên Xô vẫn tìm mọi cách để đào tị sang các nước phương Tây, tìm cuộc sống tự do, hạnh phúc. Họ ra đi để thoát khỏi sự nghèo đói và chế độ độc tài toàn trị.
Tín thực sự không hình dung được nhiều về những lời bà nói, và cũng không hiểu lắm. Sau đó, họ thay đổi đề tài và nói rất nhiều chuyện. Ngoài kia, trời đã muộn, bà xuống bếp làm cơm, chỉ còn lại hai người. Tín đưa Thương ra vườn. Họ dạo trên những lối đi hẹp. Tay trong tay, anh cảm nhận bàn tay Thương ấm áp mềm mại. Chung quanh thật yên tĩnh, hương của trời chiều – hương của các loài hoa quyện trong từng thoáng gió, và hương từ mái tóc Thương, từ làn da, từ quần áo Thương vương vít chung quanh anh trên từng bước đi. Tín có cảm giác thế giới này hoàn toàn yên tĩnh và hoang sơ. Tín và Thương như Adam và Eva trong vườn Địa đàng. Không biết vườn Địa đàng thế nào, Adam và Eva nghĩ thế nào, nhưng thực sự, bây giờ họ rất hạnh phúc.
Hôm nay, Tín đến trường thấy nhiều người vây quanh một bản thông báo dán ở cổng. Nội dung: vì tình hình an ninh, nhà trường tạm đóng cửa, chờ thông báo mới. Đẩy nhẹ nhàng cánh cổng sắt khép hờ, anh vào trong sân trường. Sân trường vắng vẻ, trở nên rộng hơn và thật lạnh lùng. Những bồn cỏ xanh hơn mọi ngày vì thiếu đi những bàn chân dẫm đạp. Tín đi lang thang trên sân trường, mắt nhìn lên những tán cây phượng. Những con chim nhỏ dạn dĩ và thản nhiên tìm mồi. Lơ lửng trước mắt Tín là mấy con sâu nhỏ treo mình bằng những sợi tơ mỏng manh. Ở gần đó, mấy cô gái quấn quít bên nhau, họ nói chuyện nho nhỏ và chậm rãi, không như mọi ngày họ cười và tranh nhau nói.
Tín trải bước chậm rãi từ hành lang này sang hành lang khác, nhìn vào từng phòng, tất cả đều yên tĩnh, không giống với cái yên tĩnh khi làm bài, cái yên tĩnh trong suốt trống rỗng, đơn điệu. Bước lên từng bậc cầu thang – cái cầu thang rộng và thoáng mà họ vẫn hay xô đẩy nhau chạy ào xuống mỗi khi tan học. Tín vẫn như nghe ở đâu đây rất gần và rất thật cái trách móc nhẹ nhàng của các cô gái bị va phải. Đây là lớp học của Tín, anh bước vào, căn phòng yên tĩnh lạnh lẽo. Hai dãy bàn ghế im lìm ngay ngắn. Ngồi vào chỗ của mình, Tín buồn rười rượi. Ở kia là chỗ của Tường, của Lộc, của Hưng, của Hoàng.
Tín điểm từng chỗ ngồi và hình dung từng người vẫn ngồi ở đó. Đâu rồi tiếng cười đùa, đâu rồi ánh mắt thân thương, đâu rồi những tà áo trắng mượt mà, những chiếc lưng thon thả, những mái tóc như mây bồng bềnh. Chiếc bảng đen vẫn còn những dòng chữ nghịch ngợm của ai đó viết vào một buổi chiều nào đó rất gần đây khi tan học. Buồn bã đứng dậy, anh ra ngoài lan can nhìn xuống sân trường. Những chiếc ghế đặt ngay ngắn dưới tán cây xanh mượt. Tín hình dung những chiếc lá trên ấy bây giờ cô đơn vì không còn hơi ấm của các cô các cậu. Bước xuống từng bậc thang…thẫn thờ, vì chẳng có lý do gì để vội, chẳng có ai để nghịch. Đối với tuổi học trò, không có gì khủng khiếp bằng điều đó. Tín lại lang thang trên sân trường, nhìn từng gốc cây, anh thấy những tên người khắc trên đó….Họ là những người đã học ở đây, đã tốt nghiệp ra trường. Trong số họ, có người hiện nay đang giữ một chức trách, một nhiệm vụ nào đó, có người đã có gia đình, con cái. Họ khắc vào thân cây những kỷ niệm và nỗi buồn của tuổi học trò. Nhưng đó là nỗi buồn êm ả trong hạnh phúc, trong thành đạt. Tín ước ao mình được như họ.
Dừng lại trước một thân cây lớn, anh chọn một chỗ thật đẹp và kín đáo, tỉ mỉ khắc tên mình vào đó… Không hiểu rồi trong năm tháng rộng dài nó sẽ ra sao? Cuộc đời nhiều đổi thay, hiện tại nhiều bất trắc.
– Đẹp lắm!
Tín giật mình quay lại, Sơn – một người bạn cùng lớp đã ở đó tự bao giờ. Tín cảm thấy bớt cô đơn. Bình thường anh thấy Sơn lặng lẽ và có vẻ u uất. Người thanh niên này đầy nhiệt huyết nhưng quá khích, tính cách xa lạ với Tín, anh nhìn thấy Sơn với nụ cười rạng rỡ và mãn nguyện.
Tín hỏi:
– Gia đình bình yên chứ?
Sơn không trả lời mà hỏi lại
– Còn mày, tâm trạng thế nào?
– Không được tốt lắm.
Sơn rảo bước rất nhanh trên sân trường hoang vắng, Tín đi sau cho kịp Sơn để nghe nó nói một cái gì đó. Bất ngờ, nó dừng lại trách anh:
– Trông mặt mày ủ rủ như đưa đám? Sao mà nhu nhược thế!
Tín phân trần với một chút nỗi niềm muốn chia sẻ:
– Mày không thấy chiến tranh mỗi ngày một lan rộng, số người chết ngày càng nhiều, cầu cống, đường sá, sân bay, công sở bị phá hoại và sụp đổ đó sao? Nhà trường thì đóng cửa, bạn bè ly tán, mày không cảm nhận điều gì sao?
Sơn cười thản nhiên:
– Có cuộc sinh đẻ nào mà không đau đớn! Cách mạng mà sợ hy sinh thì làm sao mà làm cách mạng được. Mày thật ấu trĩ.
– Mày so sánh chiến tranh với sinh đẻ hay sao? Mày không thấy sự khác biệt sao? Sinh đẻ là để tạo nên cuộc sống mới, chiến tranh chỉ tạo nên cái chết và sự tàn phá.
Sơn cười có vẻ tự mãn, nhưng nét mặt nó có vẻ ngây thơ. Tín thấy có cái gì đối lập nơi con người nó. Bình thường, nó ân cần và quan tâm đến bạn bè, còn bây giờ nó lạnh lùng và sắc sảo. Tín không biết đâu mới thật sự là con người nó.
Nó giải thích với anh như một người đã nhiều hiểu biết:
– Chiến tranh, cách mạng là để thay đổi xã hội, cái chế độ cũ chết đi, chế độ mới hình thành.
Tín phản bác:
– Nhưng mọi việc đang tốt đẹp, còn tương lai của mình, việc học hành thì sao?
– Chế độ mới sẽ ưu việt hơn chế độ này, còn việc học hành của mình rồi sẽ tiếp tục. Nó nói quả quyết với giọng nhẹ nhàng thân mật. Đôi mắt long lanh rực sáng một niềm hy vọng.
– Một ngày nào đó, tôi và bạn sẽ sang Liên Xô, Tiệp Khắc, Đông Đức, Ba Lan để du học. Ở đó, nền giáo dục của họ không thua kém gì các nước phương Tây, Nhật Bản.
Tín không tranh luận với Sơn nữa, vì đây là vấn đề của tương lai, mà tương lai thì chưa tới, hơn nữa họ chẳng biết gì về cộng sản.
Tín cười và nói đùa với Sơn:
– Mày nói như mày là cộng sản thật rồi.
– Mày nghĩ về tao thế nào cũng được, tao chỉ muốn điều tốt cho mày, nhưng mày chỉ đựơc một cái đẹp trai thôi, mày còn ngây thơ lắm.
Họ chia tay, anh thấy hình như Sơn đang có một dự định gì đó. Nó muốn nói với anh một điều gì đó nhưng chưa tiện.
Tín biết Sơn là con của một người “nhảy núi” – từ mà người ta dùng để chỉ một người cộng sản miền Nam. Mẹ Sơn bán hàng tạp hoá ngoài chợ, Sơn còn một cô em gái, cảnh nhà cũng bình thường, không đến nỗi nào. Nhưng con người này ngày thường có vẻ an phận, lại chất chứa trong lòng một tham vọng lớn lao.
Chiến sự mỗi ngày thêm ác liệt về cường độ và mở rộng về không gian. Vùng an ninh là vùng lãnh thổ chính phủ Việt Nam Cộng Hoà kiểm soát mỗi ngày càng bị thu hẹp và chia cắt. Gia đình Tín quyết định sửa sang, và mở rộng hầm trú ẩn cho kiên cố và tiện nghi hơn. Ông thợ ở gần nhà được giao phó công việc này cùng ba người thợ phụ việc. Ông thợ xây người gầy, cao, và nhanh nhẹn, khoảng 50 tuổi, trông ông già hơn số tuổi vì khuôn mặt khắc khổ. Có lẽ ông có một tuổi thơ vất vả.
Hầm trú ẩn cũ, nông và hẹp, phần nắp hầm bằng bê tông hơi mỏng. Cha anh sợ không chịu nổi những loại đạn có sức công phá lớn. Tất cả đều phải được sửa lại, rộng hơn, sâu hơn và có sức chịu đựng lớn hơn. Sắt, thép, ximăng, cát sỏi được đổ đầy cả một khoảng sân. Khoảnh sân này, không rộng lắm, khi dọn về đây, lúc ấy Tín mới 12 tuổi, Tín đã trồng trên đó một cây xoài. Bây giờ cây đã khá cao, tán lá đã che mát cả một vùng. Tín vẫn hay ngắm nghía nó hàng ngày vào những buổi sớm mai, hay những buổi chiều tà. Nhà anh trước đây sát cạnh nhà Thương. Tuổi thơ anh phủ đầy bóng lá, hương hoa trong khu vườn yên tĩnh, thơ mộng mà Thương là một nàng tiên bé nhỏ.
Ông thợ nói với cha anh, trong làn khói thuốc lá và thoảng cả mùi rượu:
– Anh quyết định sửa lại hầm là sáng suốt. Chiến sự sẽ ác liệt, và không loại trừ trọng pháo sẽ được sử dụng với mật độ dày đặc.
Ông ta nói chuyện rất sành sỏi và trôi chảy. Tín rất ngạc nhiên về sự am hiểu tình hình của ông ta. Tín phục ông ta và cũng muốn bắt chuyện:
– Chẳng lẽ người ta pháo kích cả vào khu dân cư?
– Không ai cố ý pháo kích vào khu dân cư nhưng khi cần sử dụng hỏa lực áp đảo thì người ta không loại trừ. Hơn nữa, trọng pháo nó đâu có mắt, tên bay đạn lạc là chuyện thường. Chiến tranh khó tránh được thương vong cho nên phải đề phòng. Ông ta nói bằng một giọng sắc lạnh.
Tín hỏi:
– Có lẽ là bác nghe radio nhiều. Thường thì bác nghe đài gì?
Ông ta bình thản nhả khói thuốc và trả lời:
– BBC và đài của phía bên kia.
Cha anh nói:
– Người ta có điều kiện thì người ta đi nước ngoài. Mình nghèo thì chỉ có thể làm thế này thôi. Chỉ mong trời đất che chở cho tai qua, nạn khỏi.
Ông ta nói với vẻ khinh khỉnh:
– Đây là đất nước của mình, tội gì phải đi đâu anh. Thằng Pháp, thằng Mỹ nó đâu có thương dân mình. Chỉ có mình mới thương mình thôi.
Ba Tín chậm rãi ngồi xuống bên chiếc bàn tròn, trên đó để rất nhiều trái cây và nước giải khát cho thợ dùng. Và cũng bằng giọng chậm rãi, ông nói:
– Trong cuộc chiến này, tôi chẳng thấy người ngoại quốc nào giết dân mình, chỉ có mình giết mình là nhiều nhất. Vì cái gì mới được chứ. Tôi thấy cuộc chiến này quá điên khùng.
Mắt ông thợ xây sáng quắt, ông ta linh hoạt hẳn lên vì có đề tài để tranh luận:
– Cuộc chiến tranh này là cuộc chiến tranh giải phóng.
– Giải phóng à, tôi không hiểu! Ba Tín nhẹ nhàng phản ứng, nhưng có vẻ cương quyết, vì ba anh tin vào những kinh nghiệm và suy tư của ông.
Ông thợ xây nói và diễn đạt nó bằng bàn tay to và chắc nịch:
– Anh thấy không, nó muốn biến nước ta thành một thứ thuộc địa kiểu mới, và đất nước này là đất nước của những người giàu có. Còn người dân thì có cái gì. Mọi cái đều ở trong tay của bọn tư sản.
Ba anh lặng thinh trước những lời lẽ đầy phẫn uất, và thiên lệch. Chỉ còn lại ông ta tuôn ra những gì ông suy nghĩ và ôm ấp.
– Ở các nước Đông Âu và Liên Xô, nhà máy – xí nghiệp là của công nhân. Người dân là chủ đất nước, công nhân là chủ nhà máy.
Ông ta nói với cái luận điệu giống với Sơn – bạn Tín. Sao họ suy nghĩ giống nhau như vậy! Ai đã nói với họ điều ấy. Tín thoáng hiểu ra: ở miền Nam này, phương tiện thông tin đâu có thiếu. Ba anh mỉm cười:
– Ông này khuynh tả quá nặng rồi. Nhưng tôi khuyên ông, điều gì cũng phải nhìn bằng cái tâm bình thản. Chỉ khi bình thản ta mới sáng suốt và không thiên lệch.
Tín vào phòng của mình, nằm dài, nhìn lên trần. Tín so sánh những gì ông thợ xây và Sơn nói thì ở các nước xã hội chủ nghĩa đúng là thiên đường rồi. Thế nhưng tại sao lại có bức tường Berlin, rồi dòng người tị nạn đi tìm tự do và hạnh phúc. Một bên là lời nói của ông thợ hồ, một bên là lời nói của mẹ Thương – người phụ nữ mà anh thương yêu và kính trọng, một người phụ nữ mẫu mực và nhân hậu. Tín rùng mình khi hình dung đến những thây người rách nát, xanh xao, bê bết máu nằm vắt vẻo trên bức tường Berlin khi cuộc vượt thoát thất bại.
Tường, Hưng đến nhà Tín. Họ cùng đi tắm sông “lần cuối cùng” như Tường đã nói. Họ đi về một vùng quê yên tĩnh nằm sát thị xã. Con đường đất đỏ ngoằn nghèo chạy giữa những khu vườn đầy bóng cây – những ngôi nhà cổ kính và bé nhỏ. Những chiếc cổng rêu phong; những giếng nước được xây bằng đá núi, hoặc đá ong, thành giếng thấp và đầy rêu xanh, nước mát và trong. Những bờ tre dày che kín những căn nhà, những cây vú sữa sum sê,tán lá rất gần; xoài, nhãn, dừa, vô vàn những cây ăn trái. Những vườn cây này có một kỉ niệm sâu sắc với họ từ bé.Họ đi từ vườn này sang vườn khác. Khi tắm sông về bụng đói, họ vào những vườn cây này để mua vú sữa, xoài, dừa, và cũng không ít lần liều lĩnh hái trộm.
Bờ sông dốc và cao. Bờ cao ấy chạy dài về phía núi, xa là rừng cây thấp. Rừng cây thấp với vườn nhà lẫn lộn. Họ tựa xe vào những cây bứa (những cây bứa có lá xanh, tròn và chua, trái gần giống với trái măng cụt, nhưng vàng khi chín, vừa chua, vừa ngọt).
Men xuống theo một triền dốc thấp, cát ở bờ sông lạo xạo, êm đềm dưới chân. Bóng chiều đang xuống chầm chậm bên kia sông. Hàng cây bên ấy cao và thẳng tắp. Nắng nhuộm vàng những tán lá xôn xao gió, nắng vàng trải xuống bờ sông bên kia – những ánh vàng rực rỡ lấp lánh. Gió chiều nay cũng lặng lẽ, chỉ có một vài thoáng gió chạy đuổi nhau trên hàng cây. Mặt nước sông yên tĩnh, nên hai bờ như rộng hơn. Tường không muốn tắm, đi lang thang dọc bờ sông, như tìm kiếm và lưu giữ những kỉ niệm. Tín và Hưng hiểu tâm trạng của Tường nên lặng lẽ đi phía sau. Dáng người cao lớn, hơi gầy một chút; thời gian gần đây, trông Tường như một diễn viên đẹp và đầy ấn tượng. Vừa đi họ vừa nhặt những miếng đá mỏng và liếc nó trên mặt sông. Những miếng đá mảnh dẻ, nhảy từng bước ngắn dần trên mặt nước và nhẹ nhàng chìm xuống. Tường chọn một gốc cây có rể tua tủa chạy ngang và đâm xuống bờ cát.
Tín hỏi Tường, để xoá đi sự yên lặng:
– Mấy hôm nay mày có đến chỗ Hạnh không? Cô ấy thế nào?
Tường dựa vào một cái rể lớn có vẻ mệt mỏi và buồn vời vợi.
– Ngày nào tao cũng đến, Hạnh cứ khóc hoài, gầy hẳn và xanh xao. Tao không biết phải làm gì, mọi lời nói bây giờ không còn ý nghĩa gì với Hạnh. Đường nào thì tụi mình cũng chia tay, không phải do ý mình mà do hoàn cảnh. Tao thấy bất lực khi đứng trước một hoàn cảnh mà mình phải chấp nhận như một số mệnh.
Dừng lại một chút, rồi Tường nói tiếp:
– Trước đây, tao cũng có ý định sang Mỹ du học. Anh chị tao ở đó nên tao hiểu cuộc sống với những cơ hội bên đó. Học để phục vụ đất nước, bên đó có nhiều cái để mình học: học kinh doanh, quản lý, công nghệ và học cả nền dân chủ của họ.
Hưng nói với một chút bất bình:
– Việt Nam Cộng Hoà chẳng phải cũng rất dân chủ đấy thôi!
Tường nói quả quyết:
– So với Hoa Kì thì Việt Nam Cộng Hoà cũng chưa thực sự dân chủ đâu.
Tín hỏi như một anh chàng nhà quê:
– Có nghĩa là nước Mỹ rất tuyệt vời?
Tường gật đầu chậm rãi:
– Rất tuyệt. Mày thấy không, bất cứ một người nào của bất cứ quốc gia nào cũng muốn định cư ở Mỹ. Nước Mỹ hội tụ những nhân tài, các chính khách lưu vong, những nhà khoa học, những học giả, những văn nghệ sĩ và rất nhiều những người bình thường. ”Đất lành chim đậu”, ông bà ta đã nói rồi mà. Nhưng với tao, cơ hội đến nước Mỹ, lại đến trong cay đắng. Không biết khi tao ra đi, Hạnh có đủ nghị lực để vượt qua không? Tao mong là Hạnh sẽ quên tao và tìm một niềm vui mới… Nhưng tao hiểu Hạnh, điều đó không dễ chút nào. Tao không thể ở lại với Hạnh được, như vậy mẹ tao sẽ không sống nổi, tim bà có vấn đề.
– Đã định ngày đi chưa?
– Mười lăm ngày nữa, sẽ làm tiệc chia tay ở nhà tao. Tao muốn đến đây và đến một số nơi khác nữa – những nơi mà tao không thể quên được, vì nó là tuổi thơ của tao. Hi vọng là hai đứa mày cũng đi.
Hưng nói với cái vẻ vô tư và hài hước vốn có:
– Ba đứa mình cùng tuổi Tuất sinh năm 1958. “Mạng bình địa mộc, tam mộc thành lâm”. Thằng Tường đi rồi, hai đứa còn lại thành cái gì đây.
– Chẳng thành cái gì cả, rừng đã mất chỉ còn cây. Cây mà không thành rừng thì cây đơn độc. Tường đứng dậy vừa đi vừa nói.
Chiều xuống thấp, mặt trời đã khuất, dòng sông yên tĩnh và quen thuộc biết bao. Không biết nó có cảm nhận được gì không, khi phải chia tay với một người bạn. Riêng Tín, anh thấy đôi mắt Tường thăm thẳm buồn. Tường đứng trên bờ cao nhìn dòng sông, bịn rịn.
Mười lăm ngày trôi qua. Trong mười lăm ngày ngắn ngủi ấy, Việt Nam Cộng Hoà đã mất đi rất nhiều vùng đất mà trước đây họ kiểm soát. Tình hình hỗn mang, dân chúng thì như một bầy kiến hỗn loạn chạy quanh chiếc tổ sắp bị vỡ tung. Có nhà thì xây lại hầm trú ẩn để “cố thủ”, có người chạy về nông thôn, và chẳng biết chạy đi đâu; điều kiện vật chất không có, họ chờ đợi trong buồn phiền và căng thẳng. Có gia đình thì định di tản đi Đà Nẵng. Ở đó, có thể vào Sài Gòn bằng đường biển nếu Đà Nẵng bị đe doạ hoặc thất thủ.
Tường tổ chức bữa tiệc chia tay trong hoàn cảnh như vậy. Hơn 60 giấy mời gởi đi, chỉ có gần 30 người đến dự… Đó là những người tâm giao, gần gũi với Tường hoặc Hạnh. Trong bóng mát của khu vườn quen thuộc, nhiều chiếc bàn đặt nối liền nhau phủ nỉ đỏ, dưới tán lá của những cây mận, cây nhãn sum suê; những cành lá thật gần, chỉ cần với tay là tới. Những mùa hè trước, những cành cây này rũ xuống với những chùm nhãn ngọt lịm, những trái mận đủ màu, mọng nước và đẹp mắt. Trên bàn, bày rất nhiều thức ăn ngon và lạ được những đầu bếp khéo tay nấu rất cầu kỳ. Rất nhiều nước ngọt lon và chai của những hãng nước giải khát nổi tiếng. Tường và Hạnh ngồi ở đầu bàn, vị trí của người chủ, họ ngồi gần bên nhau sang trọng và rực rỡ trong những bộ trang phục đắt tiền. Nhưng nhìn họ, Tín thấy đau lòng. Tường thì ủ rũ và gầy đi nhiều, mắt Tường sâu, chỉ có cái vẻ lịch lãm là vẫn nguyên vẹn. Còn Hạnh thì tệ hơn nhiều, vẻ đẹp quyền quí đã héo hon đi; Hạnh mệt mỏi và ủ ê. Họ ngồi như những pho tượng, nụ cười héo hắt, đôi mắt chất chứa niềm đau tuyệt vọng, vì thiên đường ước mơ của họ hoàn toàn bị sụp đổ.
Tường đứng lên, tay nâng ly Champagne, Hạnh ở bên cạnh, giọng Tường chậm rãi và buồn bã như sắp khóc:
– Hôm nay,mời các bạn đến đây để dự tiệc chia tay… Điều mà mình không bao giờ dự kiến. Tưởng rằng một ngày nào đó rất gần, cũng tại nơi đây, chúng tôi sẽ đón chào các bạn dự tiệc cưới. Nhưng cuộc chiến ác liệt này đã phá huỷ tất cả – tất cả, những ước mơ và những dự định bình thường nhất cũng tan vỡ hết. Người ta nói đó là định mệnh nhưng mình không tin ở định mệnh. Đó là sự lựa chọn sai lầm của con người, và con người, nhất là những thế hệ trẻ phải trả giá cho sự sai lầm đó. Cầu trời cho mọi việc tốt đẹp trở lại, và mình lại quay về; cầu xin ơn trên cho chúng ta không ai phải chịu bất hạnh, mất mát. Với niềm hy vọng đó, chúng tôi mời các bạn nâng cốc.
Tín và Thương chọn một chỗ hơi xa Tường và Hạnh. Tín không đủ can đảm để nhìn thấy Hạnh trong tình cảnh hiện nay. Cô ấy như người mất hồn và suy sụp. Khác với những buổi tiệc trước đây, rất ồn ào; mọi người nói với nhau rất nhỏ; thức ăn trên bàn không ai đụng tới. Họ chỉ uống nước, nhiều người uống như một cái máy, uống liên miên, để không còn thấy chết cứng ở cái bàn tiệc này. Tâm trạng họ rối bời những lo âu và hoảng sợ.
Tường với cây ghita để sẵn bên cạnh đứng lên hát: “biệt ly nhớ nhung từ đây, chiếc lá rơi theo heo mây, người về có hay…”. Tín chết lặng người đi, sao Tường lại chọn bản nhạc này vào lúc này chứ! Bản nhạc – từng từ, từng nốt, làm tan vỡ tâm hồn đang đau đớn; nó xô lên những con sóng ẩn trú nơi sâu thẳm trong tâm hồn, làm quặn đau tâm thức, làm vỡ tung lồng ngực, làm cho thân người tê dại và buốt đau…. Những cô gái gục đầu xuống bàn khóc nức nở, đôi vai run lên. Họ khóc ấm ức và đau đớn. Thương gục đầu trên bàn, mái tóc mây mượt mà phủ trên tấm nỉ đỏ. Tín đặt tay lên vai Thương vuốt nhè nhẹ an ủi. Thương tìm bàn tay Tín quờ quạng và yếu đuối, như một người chơi vơi giữa dòng nước. Tường vẫn hát giọng đầy nước mắt: “Người về u buồn ngất trời, người ra đi với ngàn nhớ thương”. Tín trách sao Tường lại chọn bản nhạc này nhưng cũng vô cùng cảm động, vô cùng cảm ơn Tường đã chọn bản nhạc này để hát hôm nay. Dường như Doãn Mẫn đã viết cho họ thì phải? Không còn kiềm chế được nữa, Hạnh nức nở, tiếng khóc bi thương như một con chim bị trúng đạn, tiếng khóc giận hờn và tuyệt vọng. Tường buông đàn, ôm Hạnh vào lòng. Bữa tiệc chìm trong nước mắt.
Tình hình ngày một khẩn trương. Theo những nguồn tin chính thức từ các báo đài cho biết thì quân Tiên Phước cách thị xã Tam Kỳ về phía tây hai mươi km đã bị quân cộng sản Bắc Việt bao vây, và có thể thất thủ. Người dân hoang mang và lo sợ đến tột độ khi từng đoàn người từ Tiên Phước đổ về Tam Kỳ. Những trạm tiếp cứu đã chật nứt người tị nạn. Chính phủ không còn đủ khả năng để tiếp nhận và giúp đỡ vì vốn dĩ khả năng đã này rất hạn chế.
Một người hàng xóm của gia đình Tín quê ở Tiên Phước, những người bà con của chú ấy đổ xô đến xin được giúp đỡ, có đến bốn gia đình cần được giúp đỡ, nhưng nhà chú chỉ có thể cưu mang một gia đình thôi. Thế là chú phải cầu viện những người hàng xóm. Mẹ anh nhận lời cho một gia đình 6 người đến tá túc. Gia đình có hai vợ chồng khoảng 45-50 tuổi, một cụ già ngoài 70 tuổi và 3 người con. Cô con đầu khoảng 20 tuổi, hai cậu bé 15 tuổi và 2 tuổi. Ba anh cho người che thêm mấy tấm tôn lạnh cho họ ở tạm . Từ trước đến nay anh vẫn nghe nói: con gái Tiên Phước rất đẹp, anh hơi tò mò, anh ra giúp ba dựng căn nhà ”dã chiến” cho họ, và cũng để nhìn cô gái một chút, trông có đẹp không. Đúng là cô ấy đẹp thật. Trong bộ quần áo giản dị, trông cô vẫn rất hấp dẫn. Cô cao lớn và nảy nở. Lúc đầu, cô nhìn anh rụt rè, nhưng chỉ một lát sau,cô đã dạn dĩ. Cô giúp Tín một số việc. Sau một giờ, căn nhà đã hoàn tất, có thể che mưa che nắng được. Xong việc anh đi tắm, nhìn khuôn mặt mình trong gương, anh nhớ đến Thương và cảm thấy xấu hổ, ân hận. ”Tại sao mình lại quan tâm đến cô ấy”, Tín tự trách mình rất nhiều.
Tín dắt xe đi dạo một chút cho đỡ căng thẳng và cũng xem xét tình hình thị xã có gì biến động không. Khi dắt xe ra cổng anh gặp cô gái đó, tay xách mấy túi thức ăn. Tín chào cô bằng cái gật đầu trang trọng và tránh nhìn vào mắt cô. Một đôi mắt quyến rũ và rực lửa. Tín thấy cô không lo lắng gì cả. Chiến tranh ác liệt, cuộc sống tha hương không để lại một chút gì nơi nụ cười vô tư và duyên dáng của cô. Hình như cô không quan tâm đến chiến tranh và những gì đang xảy ra… Đối với cô, ai thắng trong cuộc chiến này cũng thế thôi.
– Anh đi chơi à – giọng nói con gái dịu dàng nhỏ nhẹ, trái ngược với vóc người to lớn và rất phụ nữ của cô.
– Dạ vâng! Chào chị. Tín nói.
Cô ấy hơi nũng nịu:
– Anh đừng gọi em như vậy.
Tín hơi ngượng ngùng vì sự căng thẳng của cô nên đánh trống lãng:
– Ở đây thức ăn có rẻ hơn Tiên Phước không?
Cô nhìn một thoáng vào túi thức ăn, rồi nhìn anh, cái nhìn sắc như dao làm anh thấy bối rối.
– Thịt thì bình thường, rau thì đắt hơn, còn cá thì rẻ như cho.
– Vậy thì tốt, chị vào nấu ăn đi kẻo trễ.
Tín nói và đi thẳng không dám quay lại nhìn, tuy trong lòng rất muốn biết cô ta có nhìn theo mình không? Chẳng để làm gì nhưng anh chàng vẫn muốn và rất vui khi các cô gái nhìn anh. Tín lại tự nhủ mình: ”mày là thằng đa tình, mày thật không xứng với sự đoan trang của Thương” .
Tín đạp xe qua cầu, con đường rải đá này dẫn xuống biển. Nhìn qua bên trái anh giật mình: trên cồn cỏ (người ta gọi là Cồn Thị, vì cái cồn đất khá dài này nổi lên giữa hai con sông có những cây thị cao hơn 20m. Mùa hè những cây thị đầy trái, trái tròn, nhỏ bằng quả banh tennis. Khi chín vàng, nó thơm lừng, một mùi thơm dễ chịu. Trái rơi đầy gốc, chẳng làm gì cho hết), những khẩu pháo nòng dài lêu khêu, nghếch lên, hướng về phía tây. Những người lính làm việc khẩn trương, anh dừng lại để xem cho biết họ làm gì. Họ làm việc lặng lẽ và căng thẳng. Những chiếc thùng gỗ mới toanh chứa đạn, chất cao gần đó. Như vậy là chiến tranh đã hiện diện ngay ở đây rồi. Và điều này có nghĩa là vùng phụ cận thị xã không kiểm soát được nữa. Tự nhiên Tín cảm thấy cảm giác ớn lạnh bao toả khắp người. Nếu thị xã thất thủ thì sẽ ra sao đây?.Tín mường tượng một sự bất hạnh hãi hùng đang phục chờ ở đâu đó!
Tín tiếp tục đạp xe đi về phía biển, có một dãy núi chạy dài theo hướng Bắc – Nam, khoảng 10km, nhấp nhô những ngọn núi thấp, trơ trọi, chỉ toàn là cây bụi cỏ lè tè, còi cọc. Tín men theo con đường đất đỏ, ven sườn núi thoai thoải. Leo lên đồi, anh luồn lách giữa những bụi cây, (ở quê anh người ta gọi nó là cây lá chổi, nó được dùng để nấu nước uống vừa thơm, vừa trị được một số bệnh). Nhìn về phía Nam nơi ngọn đồi đổ xuống hơi vội. Trên một bải cỏ xanh mượt, trước đây người ta thả nhiều trâu, bò ở đó. Bây giờ là môt đơn vị pháo binh cùng với những nòng pháo dài ngóc lên trông ngổ ngáo và dữ tợn, hướng về phía tây với rất nhiều thùng đạn mới toanh bên cạnh.
Nhìn về phía tây nơi những dãy núi mờ xa, mấy ngày hôm nay, nếu để tâm lắng nghe, người ta có thế cảm nhận được tiếng ì ầm rất nhỏ và tiếng đất rung chuyển. Trời ở đây rất trong, đứng trên ngọn đồi này có thể nhìn thấy những chiếc máy bay đến rồi đi và những chùm bom nối nhau rơi xuống. Tín đứng nhìn khá lâu cái cảnh tượng đó, lắng nghe tiếng đất rung chuyển dưới chân. Ở đằng chân trời kia là Tiên Phước – quận lỵ miền trung du với những khu vườn yên tĩnh. Những vườn chuối chập chùng từ đồi này qua đồi khác. Những vườn chè, vườn tiêu nằm dưới bóng mát của những cây cao. Ở đó, trên những sườn đồi, người ta trồng cơ man nào là quế – một đặc sản của vùng này – nguồn thu nhập quan trọng cùng với chè và tiêu, làm nên sự trù phú của mảnh đất tươi đẹp này. Người ta cũng biết đến Tiên Phước như là nơi sản sinh ra những mỹ nhân đẹp đến say lòng người.
Tín đã được nhiều lần đến đó. Những buổi trưa hè yên ả, từ trong nhà nhìn ra ngoài sân, thỉnh thoảng chúng ta nhìn thấy mấy con chồn tròn xoe đôi mắt kì khôi, nhìn liến thoắng khắp nơi rồi biến mất rất nhanh vào những bụi rậm gần đó. Buổi chiều đi dạo trên vườn đồi, từ trên cao nhìn xuống một vùng không gian bao la, hít thở không khí trong lành pha lẫn hương thơm ngọt ngào của hoa cỏ, ta tưởng như sở hữu cả đất trời non nước. Xa xa phía chân trời, những rặng núi tím thẫm chạy dài, cong vút như nét ngài giai nhân; ánh tà dương viền những đường hào quang màu bạc quanh làn mây phơn phớt hồng. Khung cảnh như được tạo nên từ một bài thơ diễm tuyệt. Đó đây, trên những bãi đất đá hoang sơ, bạn có thể tình cờ bắt gặp mấy cô gà rừng dắt con thủng thẳng đi qua trước mặt, những chú gà con bé tí dễ thương vô cùng chạy tới chạy lui quanh những bụi dứa cắm rễ sâu trong lòng đá núi, dưới những bóng râm, cần cù và lặng lẽ dâng cho đời những mùa dứa tươi ngon. Những trái dứa to, ngọt lựng và thơm mát, nặng đến 2 kg. Bởi vậy người quê anh gọi giống cây này là thơm. Ở đây, trong mỗi vườn nhà đều trồng vô số những cây mít – những cây mít cao và nhiều trái đến nỗi người ta bỏ quên nó. Bỗng một ngày, nghe thơm ngát cả một góc vườn, tìm kiếm mãi thể nào cũng bắt gặp một trái mít chín to đùng nằm dưới gốc cây. Tiên Phước, đâu đâu cũng xanh bạt ngàn những rừng dâu và quít hoang – những thứ khó ăn này (vì nó chua lắm) cũng là niềm đam mê của trẻ con, nhất là trẻ con nhà nghèo. Tiên Phước với anh thật gần gũi và đầy kỷ niệm. Bây giờ, đứng nhìn những chùm bom rơi xuống đó, lòng Tín quặn đau.
Trở về nhà, trời chập choạng tối, phố đã lên đèn. Ở đây, vẫn còn là vùng an ninh. Tín thấy tiếc nhớ những tháng ngày trước đây, muốn đi đâu thì đi, khi nào về thì về.
Cơm xong anh qua thăm gia đình cô gái để xem họ có cần giúp đỡ gì không. Cô mời anh một chén trà. Ngồi xuống chiếc chiếu hoa mới trải trước hiên nhà, anh hỏi vài câu xã giao với ba mẹ cô gái. Tín đưa mắt nhìn một lượt căn nhà dựng tạm. Trong góc nhà chất ngổn ngang một đống chăn màn mà Chính phủ vừa mới cấp. Ông nội cô gái ngồi cạnh đống chăn màn ấy có vẻ buồn bã và mỏi mệt. Người già thường khó thích nghi với hoàn cảnh mới. Tay ông đặt trên cái hòm sơn đỏ (anh biết đó là hòm đựng gia phả, nhà anh cũng có một cái như thế), như thể sợ có ai đó sẽ đến lấy mất. Ông ta không quan tâm đến bất cứ ai, bất cứ điều gì. Hình như đối với ông cái hòm đựng gia phả ấy là một bảo vật vô giá.
Cô gái đoán được suy nghĩ của anh, nên giải thích:
– Khi bỏ Tiên Phước, ông không mang theo thứ gì ngoài cái hòm ấy và mấy bộ quần áo.
Cô nói và cười dễ dãi nhưng không kém phần nghiêm trang, kính trọng.
Tín hỏi:
– Chính quyền họ có giúp đỡ gì không?
Cô chỉ vào bao gạo 50kg và đống chăn màn:
– Chỉ có vậy thôi.
Cô nói bằng một giọng thản nhiên, vô ưu. Qua mẹ, Tín biết nhà cô ta khá giàu. Tín chào gia đình họ, bước ra đường nhưng không biết đi đâu. Không gian vắng vẻ và yên tĩnh quá, như không còn mọi sinh hoạt hằng ngày nữa. Trước đây, mỗi tối trước nhà anh có mấy hàng hoành thánh, bánh xèo, chè khá đông khách. Còn bây giờ chẳng ai bán mà cũng chẳng ai mua thì phải.
– Anh định đi đâu chơi nữa hả?. Cô gái ở phía sau Tín một khoảng khá gần.
– À, cũng chẳng biết đi đâu. Bây giờ đi lại ban đêm cũng không tiện. Chán quá !
– Con trai ở phố sướng thiệt, không làm gì hết.
– Cũng không hẳn như thế. Tuỳ gia đình, nhà tôi không có nhiều người, mọi việc mẹ làm hết rồi. Trách nhiệm duy nhất của tôi là phải học thật giỏi. Bây giờ trường học đóng cửa rồi, không biết rồi sẽ ra sao ?
-Ở quê em, con trai phải vừa làm việc vừa học. Đi học về phải làm vườn: chăm sóc tiêu, chè. Đứa nào đứa nấy đen nhẻm chứ không đẹp trai, trắng trẻo như anh.
Tín không cảm động mấy trước lời khen của cô gái, vì mọi người vẫn thường khen anh như thế, với lại tâm trạng anh bây giờ nặng nề quá.
– Ở quê, chị làm gì?Tín hỏi cho có chuyện.
– Đi chợ, nấu ăn, giúp mẹ mấy việc vặt trong nhà, vậy thôi. Ba mẹ em vừa làm ruộng vừa làm vườn: nào chè, tiêu, quế, rồi heo, gà nữa, vất vả lắm.
– Chị có nhớ nhà, nhớ bạn bè không ?
– Nhớ chứ. Em cũng có mấy người bạn tản cư xuống đây. Ngày mai chắc em sẽ hỏi thăm và đi tìm họ.
Tín hỏi vì tò mò trước thái độ bình thản của chị trước bao nhiêu biến cố xảy ra.
– Tôi trông chị chẳng lo buồn gì cả.
Chị đưa tay vuốt mái tóc dài đen nhánh ra sau. Tín vẫn thích nhìn những cô gái vuốt tóc như vậy, trông họ dịu dàng và quyến rũ làm sao! Tín đã nhìn Thương nhiều lần như vậy từ khi họ mới lớn. Và mỗi lần nhìn thấy Thương đưa hai tay vén tóc ra sau, mấy sợi tóc ngắn nổi bật trên làn da trắng ngần. Tín cảm thấy cuộc sống này có biết bao cái đẹp và đáng yêu.
– Có gì mà phải lo buồn chứ, ít ngày nữa thì đâu lại vào đó thôi. Đây đâu phải là lần đầu em chạy xuống đây: năm 68 này, năm 72 này, rồi lại lục tục kéo về.
Chị nói thật bình thản, Tín thấy cũng có cái “lý” của nó. Thế nhưng anh linh cảm mọi việc không giống như trước đây. Từ mấy ngày trước cha mẹ anh đã đặt vấn đề di tản ra khỏi Tam Kỳ rồi .
Tín nói với chị sự lo lắng của mình:
– Nếu như Chính phủ không tái chiếm được Tiên Phước, không lập lại an ninh ở đó được thì chị tính sao?
– Vậy thì nhà em đói à? Ở đây lấy gì mà ăn? Thiệt là tức chết đi được, đang yên đang lành… Nhà cửa, vườn tược chắc tan hoang hết cả.
Thái độ bất mãn hiện rõ trên nét mặt đáng yêu của chị. Tín thấy tất cả niềm hạnh phúc bình dị trước kia như một vùng ảo ảnh, chỉ đợi tan biến đi như bọt biển tan trên trùng dương. Bây giờ mọi việc trở nên rối tung, thật không công bình. Những buổi tối đi ăn kem với bạn bè, đi nghe nhạc, và hẹn hò với Thương trở nên xa vời. Tuổi trẻ – họ đâu có yêu cầu gì lớn lao đâu?! Tín bất giác thở dài. Chị tiến đến, rất tự tin chị cầm tay anh. Tín kịp nhận ra bàn tay ấm áp, mềm mại của chị. Tín nhớ đến đôi bàn tay Thương của anh cũng nhỏ nhắn và mềm mại như thế.
Nhẹ nhàng giở tay chị ra, Tín nói:
– Thôi khuya rồi, chị đi nghỉ đi. Tín bước đi, còn nghe rõ lời trách nhẹ nhàng của chị:
– Người đâu mà nhát như thỏ đế.
Những tiếng nổ chát chúa vang động khắp không gian tĩnh mịch. Tín vùng dậy như mọi lần, chính xác và nhanh nhẹn, anh phóng vào hầm. Định thần lại, anh nhận ra tiếng nổ là từ đơn vị pháo binh đặt bên kia sông. Tín nhìn đồng hồ trên tay: đã 5h15 rồi. Tín bước vội ra khỏi hầm đi xuống nhà dưới, làm vệ sinh. Qua nhà ăn, anh chợt nhận ra mẹ đang ngồi ủ rũ, và gầy sọp hẳn đi. Mẹ anh nhét bông vào tai để khỏi phải nghe tiếng ồn cứ ì ầm luôn. Những tiếng nổ vẫn nối tiếp nhau tưởng chừng không bao giờ dứt. Mái tole rung lên bần bật từng hồi. Khung cửa kính phát ra những âm thanh rè rè nghe xót cả ruột gan. Không biết mẹ có chịu nổi không ?
Ngồi vào bàn ăn, bữa cơm ngon lành mà không nuốt nổi. Mẹ buồn rầu và trông khắc khổ quá. Gương mặt mẹ vốn đã khắc khổ, một gương mặt ghi dấu bao nỗi lo toan, tủi cực từ lúc mẹ còn con gái cho đến nay, giờ trông càng đáng thương hơn. Cha còn giữ được bình tĩnh, ít nhất là ở bề ngoài. Cha không ăn cơm, ông ngồi uống trà. Ông uống từng ngụm nhỏ như muốn uống cả những nỗi lo lắng, buồn bực vào lòng. Rồi chậm rãi, ông buông từng tiếng mỏi mệt:
– Con đến nhà con bé Thương nói với má nó nếu được thì cùng đi với gia đình mình, đi được người nào hay người đó, sớm ngày nào hay ngày ấy. Tình hình này thì không xong rồi.
Tín đạp xe vèo vèo trên đường phố vắng tanh. Bánh xe rào rào nghiến trên lớp sỏi mỏng, lướt vút đi. Tín chợt có cái cảm tưởng khôi hài rằng mình giống như kị sĩ chinh hành đường xa. Hai bên đường, nhiều nhà đã khoá cửa – những cái ổ khoá to tướng, có nhà lại kéo ngang qua một đoạn dây thép gai. Mọi việc xảy ra chóng vánh đến không ngờ, cứ như một vở tuồng đóng vụng. Con đường rộng và dài hơn mọi ngày. Những người lính dựng công sự ở ngã ba đường và nhiều nơi khác. Trông họ khẩn trương như thể sẽ có một trận đánh diễn ra sau một vài giây nữa. Chàng trai trẻ như anh chợt thấu rõ một nỗi buồn ghê gớm xâm chiếm từng mảnh lòng. Thời gian và không gian quanh anh giãn ra vô cùng vô tận.
Tín bước vào nhà Thương. Thương đón anh với vẻ mặt hốt hoảng, và lo âu. Câu nói đầu tiên của cô như nghẹn lại:
– Ba em vẫn chưa về, chắc là bị kẹt ở Huế rồi. Đài BBC nói Huế đã bị bao vây, mọi ngã đường đã bị phong toả, làm sao bây giờ hả anh? Cậu em lên đón mẹ con em.
Tín bước vào phòng khách, một người đàn ông to lớn, vẻ mặt hiền hậu, nghiêm trọng. Tín đã gặp ông nhiều lần. Ông là em út của mẹ Thương, ông ở Chu Lai, buôn xăng dầu nhưng khá giàu có và giao thiệp rộng rãi. Ông là một người lịch lãm.
Tín cuối đầu chào ông như hồi còn bé:
– Con chào chú.
Ông nắm tay anh, nụ cười thân mật và đầm ấm.
– Ngồi xuống đây đi con.
Qua câu chuyện, anh được biết, ông và mấy người bạn mua được một chiếc tàu biển để di tản ra nước ngoài mà Thương thì muốn gia đình anh cùng đi một chuyến. Nhưng gia đình anh còn có hai gia đình của cô anh, và các anh chị họ của anh nữa, cũng khoảng 20 người. Mà cha mẹ Tín thì không thể đi một mình mà bỏ hai cô anh được. Hơn nữa, nhà anh thì chuẩn bị ra đi bất cứ lúc nào, có thể là chiều nay, hoặc sáng mai.
Tín nói đề nghị của cha mẹ anh với mẹ Thương, nghe xong bà nói:
– Con về nói với cha mẹ, bác rất cám ơn. Nhưng ba con Thương chưa về thì bác chưa đi đâu hết. Mẹ con bác là phụ nữ, chẳng có gì phải sợ. Con nên đi sớm, đi càng sớm càng tốt. Chiến tranh thì phải chấp nhận chia tay nhau thôi. Không thể chọn lựa, không có giải pháp nào trọn vẹn. Chỉ xin ông trời cho chúng ta lại gặp nhau, tai qua nạn khỏi.
Tín cảm thấy đất dưới chân sụt nứt. Tín nhìn qua thấy Thương vùng bỏ chạy về phòng. Tín xin phép vào với Thương. Nàng úp mặt vào gối, Thương khóc thật to. Đôi vai rung rung, anh nhìn Thương khóc, nhìn căn phòng nhỏ nhắn có hai cửa sổ nhìn ra vườn, mùi nước hoa quen thuộc, rèm cửa màu xanh nhạt. Tín sắp đánh mất tất cả rồi sao?! Tín thấy mình khô cứng. Một ý nghĩ thoáng qua trong đầu: “Hay là mình ở lại với Thương”. Cha mẹ anh sẽ không đồng ý, nhất là mẹ. Tín hiểu mẹ anh, mẹ không thể sống thiếu anh được. Từ bé anh đã là báu vật của mẹ.
Nhè nhẹ ngồi xuống bên Thương, anh vén lại mái tóc Thương loà xoà trên vai, trên gối. Mùi thơm quen thuộc quyến rũ, Tín thấy đau buốt trong lòng. Chỉ 10 ngày trước đây, anh thấy Tường đau khổ, giờ đây chính mình đang đối diện với đau khổ, đơn độc và tuyệt vọng. Nhưng hiện nay, tình hình của Thương rất bi đát, Thương đang chịu hai nỗi lo buồn cùng một lúc. Làm sao Thương chịu nổi đây? Thương gầy guộc, mảnh khảnh như một cành mai, rất dễ tổn thương. Tín ý thức được mình phải làm gì trong hoàn cảnh này. Tín là hi vọng và là chỗ dựa của Thương. Tín phải can đảm và dũng lược, không được yếu đuối, không được đau buồn. Trong hoàn cảnh này thì bi luỵ có ích gì. Tín kéo Thương vào lòng, ôm Thương thật chặt. Bàn tay Thương tìm đến tay anh, như đi tìm sự nương tựa che chở.
Tín nói với Thương:
– Em bình tĩnh, mình có thể đi tìm một số người quen để hỏi tin tức của ba em.
Đôi mắt Thương sáng lên một chút, vén lại tóc rồi, với sự quả quyết, và sức mạnh của ý chí được kế thừa từ người mẹ. Thương đứng lên, đến bên bàn trang điểm, chải vội mái tóc rối bời. Thương nói và chỉ nhìn anh qua gương:
– Anh đưa em đi nghe, ngồi ở nhà khóc thì ích gì.
Tín đạp xe đưa Thương qua các phố vắng teo, những con chó mất chủ chạy rong ngoài đường đói khát và sợ hãi. Tín thấy thương chúng nó, có những con rất đẹp, trên cổ còn đeo chuỗi hạt thuỷ tinh rất đỏm dáng. Chắc là của một cô chủ nhỏ nào đó đeo cho. Trên đường có những người đi rất vội vã, nét mặt đăm chiêu và đầy hoang mang. Đã thấy những người đi hôi của, nét mặt lơ láo khinh bạc, tay ôm hoặc vác trên vai những bao nặng trịch to tướng. Tín rẽ vào một con đường nhỏ, dừng lại trước một căn nhà đẹp, một khu vườn nhỏ, trước nhà được bài trí theo kiểu Nhật. Cánh cổng sắt sơn xanh, khoá chặt bằng ổ khoá to tướng. Tín nhón người nhìn vào trong. Cửa chính căn nhà cũng đóng, không có ai để hỏi. Thấy Thương ủ rủ, nét mặt buồn rười rượi.
Tín an ủi:
– Mình đi tìm chỗ khác đi em.
Tín lại đưa Thương đi, bây giờ thì ra ngoại ô, Thương nói:
– Không có nhiều nơi để tìm đâu anh, đồng hương của ba chỉ có hai người thôi. Nhà vừa rồi là của ông bác sĩ – bạn của ba. Còn nhà mình sắp tìm là của một bác sĩ mới ra trường cũng làm ở Huế. Tín rẽ phải, con đường rợp bóng tre, tre đan dày đến nổi có rất ít bóng nắng rãi xuống đường. Chạy qua một cây cầu nhỏ xây bằng đá, cây cầu có vẻ cổ kính, dòng nước trong vắt êm đềm chảy phía dưới. Tín nghĩ đây có lẽ là nơi hẹn hò thơ mộng những đêm trăng. Cuộc sống nơi đây có vẻ vẫn bình thường. Có rất nhiều người vẫn ra đồng, vẫn chăn trâu bên vệ đường, trên bờ đê nhỏ. Tín hiểu họ chỉ còn biết an phận, chấp nhận số trời, họ đâu có điều kiện, tiền bạc để ra đi họ sợ hãi sự thay đổi. Anh và Thương vào nhà, qua một cái cổng vôi thấp và hẹp, nhưng khá cầu kỳ. Lại một ngôi nhà cổ, tường vôi dày, mái thấp, hàng hiên hẹp với những trụ vôi tròn.
Người phụ nữ trẻ và cũng rất đẹp, ôm con – một cậu bé kháu khỉnh. Nhận ra Thương chị vồn vả hỏi thăm tin tức của chồng mình. Thương thất vọng, chị ấy cũng không có tin tức gì. Họ ngồi trên trường kỷ bằng gỗ đen bóng. Căn nhà hơi tối và nhiều cột quá, những cây cột to tròn bằng gỗ mít sáng bóng.
Thương nói :
– Em cũng không có tin gì của ba em. Vậy mà em hi vọng chị có tin gì đó. Thương mân mê chén trà trên tay – bàn tay nõn nà, nền sứ trắng muốt.
Ước gì bây giờ không có chiến tranh, anh sẽ vẽ. Thương trong dáng ngồi này, bàn tay và chén trà này. Tín cũng biết vẽ một chút. Chị ngồi ôm con, nước mắt hai hàng, chị nói nhỏ nhẹ rành rọt. Tín biết chị chịu đựng nỗi đau này đã lâu và cũng quen dần với nó.
– Tình hình Huế nguy ngập rồi, không liên lạc được đâu. Chỉ biết cầu xin ông trời thương xót, cho mọi chuyện qua đi.
Trong những ngày tháng này, ở đâu người ta cũng cầu xin ông trời. Trước đây, anh không biết có ông trời không, nhưng bây giờ thì anh tin. Ông trời với quyền năng vô hạn, với sự công bằng, với tình thương yêu những người bất hạnh. Uống hết chén trà, anh an ủi chị:
– Nếu có tin gì chúng em sẽ thông báo cho chị.
– Chị giữ gìn sức khoẻ và chăm sóc cho em bé.
Thương nói thêm, tay mân mê bàn tay bé nhỏ của đứa bé. Thằng bé nhìn Thương đôi mắt tròn xoe, miệng cười chúm chím làm Thương bịn rịn.
Tín đưa Thương về. Phố xá như trong một cơn dịch, mọi người chạy đâu mất, chỉ còn là một thành phố ma vắng lạnh. Trong hoàn cảnh này, chỉ có hi vọng và nghị lực mới giúp ta đứng vững.
– Em phải cố gắng lên.
Về đến nhà, Tín thấy một chiếc xe Renaul đậu trước sân. Tín hơi bàng hoàng, tuy đã dự kiến điều này từ mấy hôm nay. Đi qua sân, anh thấy ông nội của cô gái trú ngụ nhà anh đứng ở hiên. Ông vẫn ôm cái hòm đựng gia phả. Một tay còn lại ông xỉa xói vào khoảng không trước mặt chửi rủa một điều gì đó. Tiếng ông bị át đi trong tiếng pháo bắn liên tục. Mái tôn, cửa kính rung lên bần bật. Tín chào ông nhưng ông không trả lời. Đôi mắt hiền từ và xa xăm. Tín vào nhà, thấy mẹ đang bận bịu với những gói đồ đạc đã gói ghém cẩn thận. Tín thấy ân hận vì đã không giúp được mẹ tí nào.
Mẹ kéo tay anh bảo:
– Đây là túi xách của con, nhớ giữ cho cẩn thận. Trong đó mẹ để một lượng vàng và một ít tiền, lỡ con bị lạc thì có cái để tiêu xài.
Tín “ạ” một tiếng như hồi còn 5-6 tuổi. Tín thấy mắt cay cay. Mẹ lúc nào cũng lo cho anh từng tí một. Tín nhìn ra ngoài, ông cụ vẫn đứng đó. Tay ôm cái hòm và vẫn xỉa xói vào khoảng không, chửi rủa một điều gì đó. Đôi lúc ông định đi vào trong, nhưng chỉ được dăm bước thì lại quay ra, đứng nhìn vào khoảng không, lẩm bẩm chửi.
Tín hỏi mẹ:
– Cụ sao thế mẹ?
Mẹ không nhìn anh, sửa soạn một cái gì đó:
– Ông cụ lẫn rồi con ạ. Tội nghiệp, được cái rất hiền lành.
Tín đi ra ngoài, vào thăm nhà cô gái. Ba mẹ cô đi vắng, hai cậu bé đang đùa nghịch với nhau. Cô gái ngồi bó gối ở một góc nhà, mắt đỏ hoe. Cô không buồn nhìn anh khi anh đến gần. Tín an ủi cô một chút thôi, vì lòng anh bây giờ cũng rối bời thì an ủi ai được đây.
– Cụ lẫn vì bị khủng hoảng. Rồi sẽ qua thôi, chị đừng lo lắng quá.
Cô nói và vùng vằng một cách rất đáng yêu của con gái:
– Tại sao lại như thế này mới được chứ.
Tín biết bây giờ nói gì cũng vô ích. Tín vào nhà xin phép mẹ đến nhà Thương và ở lại đó đêm nay.
***
Đi giữa phố xá vắng vẻ, anh thấy buồn kinh khủng và hơi sợ. Nhưng anh thấy yên tâm khi những người lính vẫn đi lại trên phố, súng lăm lăm trên tay, mũ sắt và áo giáp làm cho họ to lớn và cứng ngắt.
Thương và mẹ rất vui khi Tín đến. Đèn vẫn sáng khắp nhà, những ngọn đèn trong vườn cũng sáng như mọi khi. Tín đứng nhìn khu vườn êm ả và thân thương, trong lòng vô cùng nuối tiếc. Những chiều hồng sắc nắng, Thương ngồi đó dưới tán cây lá loà xoà, trông Thương thuần khiết, trong suốt và thiên thần.
Bữa cơm dọn dưới hiên, ngọn nến sáng rực, trên bàn có món bồ câu quay mà anh ưa thích, món gà hầm của Thương và rất nhiều cây trái trong vườn, có cả một lọ hoa khá lớn. Nhìn những cành hoa được cắm cầu kỳ và duyên dáng, anh biết Thương dành cho anh. Mẹ Thương hỏi về tình hình của gia đình anh.
Tín thuật lại chi tiết và nói:
– Phần con và gia đình như vậy là tạm ổn. Con chỉ lo cho bác và Thương. Con phải ra đi, để bác và Thương trong hoàn cảnh thế này. Thật là tệ!
Tín cảm thấy xấu hổ, và vô trách nhiệm, không dám nhìn Thương. Mẹ Thương nhìn anh với nụ cười nhân hậu, cố làm cho thật tươi tỉnh.
– Con không có lỗi gì hết. Với lại bác và Thương còn có cậu út, khi khẩn cấp bác sẽ đưa Thương về đó. Con cứ đi, đừng lo lắng gì hết. Bác tin rồi chúng ta sẽ lại đoàn viên.
– Má, con bói thử ha!
Thương nói và đứng lên với một chút trẻ con hồn nhiên mọi ngày, chạy vào trong phòng, Thương làm gì đó. Tín và má Thương nhìn theo, chờ đợi. Lát sau, Thương đi ra với hai mảnh giấy xếp vuông vắn. Nàng nhắm mắt, đặt tay lên ngực làm gì đó, bỏ hai mảnh giấy vào hộp. Thương đổ ra và bảo tôi chọn một. Tín chọn mảnh giấy gần mình nhất. Thương mở mảnh giấy và nhảy lên vui sướng. Thương đặt mảnh giấy lên bàn trước mặt anh và má nàng. Dòng chữ tròn và rất con gái của Thuơng: ”gặp lại”. Tín mở mảnh giấy còn lại có ghi ”không gặp lại”. Không biết sao anh cảm thấy vui và tin tưởng vào sự linh thiêng nào đó. Sau đó, họ ăn cơm rất ngon, nhất là anh, sau một ngày đạp xe đi lại nhiều.
Trăng đêm nay mờ nhạt, bầu trời đầy sao, và cao vời vợi. Ở một nơi nào đó rất xa có một vài tia chớp và tiếng ì ầm, nhưng đó là tiếng vang vọng của sấm. Tín không biết giữa tiếng sấm của tự nhiên và tiếng nổ chát chúa của đại bác có cái gì đó khác nhau về cung bậc; nhưng tiếng của cơn giông mùa hạ thì êm đềm, và thân thuộc chứ không kinh hoàng như tiếng đại bác. Chắc có lẽ con người sinh ra vốn không thuộc về chiến tranh. Chiến tranh là sự biến thái của lòng ích kỉ và sự ngu dốt.
Đêm yên tĩnh và mênh mông, họ đi dạo trong vườn, tay trong tay, trên con đường rãi sỏi nhỏ nhắn quen thuộc. Tín không nghe có tiếng nhạc vọng lại từ nhà hàng xóm như mọi lần, chỉ có tiếng côn trùng, nghe buồn bã và đơn điệu. Thương đa cảm hơn mọi lúc, nàng nếp vào anh. Mùi thơm từ tóc Thương làm bước chân anh như khựng lại. Vụng về, bất ngờ và mãnh liệt, Tín ôm Thương vào lòng và nụ hôn đầu đời nở trong đêm đầy đau xót.
Chuông đồng hồ điểm mười tiếng, Thương nuối tiếc giở vòng tay của anh:
– Mình vào nhà đi anh, đi nghỉ sớm, chẳng biết ngày mai ra sao, phải giữ gìn sức khoẻ để chịu đựng. Tín khẽ gật đầu.
Chiếc giường êm ái không làm cho anh dễ ngủ hơn, nụ hôn nồng nàn và nóng bỏng cứ vương vấn trên môi. Tín hình dung mái tóc dài bồng bềnh như mây buổi sớm, dáng dấp mảnh khảnh và yêu kiều như được tạc nên bằng ngọc, rực rỡ và thuần khiết. Tín cảm thấy lo sợ – sự lo sợ chưa bao giờ rõ ràng và thô ráp như bây giờ. Chẳng lẽ mình lại mất Thương sao, như vậy thì thật quá bất công với mình và Thương.
Tín thấy nhói đau ở ngực, hít một hơi chậm và sâu, anh chìm vào giấc ngủ nặng nề.
Tín bị hất tung ra khỏi giường, bừng tỉnh bởi tiếng đồ đạt trong phòng rơi vỡ. Chộp vội cây đèn bin, anh lao đến phòng Thương suýt nữa bị đâm sầm vào cửa. Thương cũng bị tiếng bom nổ làm giật mình tỉnh dậy, nàng vội vã chạy sang phía anh, suýt nữa là đâm sầm vào nhau. Chung quanh là bóng tối dày đặt, ánh đèn pin sáng lạnh lẽo quét một vệt sáng chói loà. Trong những âm thanh hỗn độn và hung dữ, tiếng gọi thất thanh của má Thương vọng ra từ trong hầm trú ẩn.
Chiếc hầm trú ẩn nhỏ nhắn và cũng thoang thoảng mùi thơm của phụ nữ được soi sáng dưới ánh đèn mờ ảo của cây nến nhỏ. Tín cảm thấy ấm cúng khi đựơc ngồi sát kề với Thương, chỉ phiền một nổi, đôi chân dài của anh phải co lại một cách khổ sở. Ngoài kia loé lên những ánh chớp và tiếng nổ làm rung chuyển cả căn hầm, bụi đất rơi vãi trên người họ. Thương áp sát người vào Tín không còn e thẹn trước mặt mẹ. Tín ôm Thương vào lòng tự nhiên và mạnh mẽ.
Tín nói với má Thương:
– Tiếng nổ nghe gần quá thưa bác.
Bà trả lời anh như nói một mình, giọng bình thản và cam chịu:
– Thế này thì hỏng rồi.
Anh ghé vào tai Thương:
– Em có sợ không?
Thương lắc đầu nhè nhẹ.
– Anh cũng không sợ.
Tín nói với Thương như vậy và nghĩ trong đầu: Khi con người đối diện với sự sợ hãi tột cùng thì chẳng còn sợ nữa. Những tiếng nổ cứ nối tiếp nhau như không bao giờ dứt, đất rung chuyển, trần hầm rung chuyển. Những tiếng nổ tàn bạo và vô tình. Tín nhìn lên tầng hầm và tự hỏi: không biết bao giờ nó đổ xuống đây… mặc kệ nó. Có Thương bên cạnh, anh không thấy điều gì là bất hạnh. Họ chịu đựng cho đến sáng.
Tiếng súng đã dừng. Trời bắt đầu sáng. Họ cẩn trọng ra khỏi hầm, không biết có điều gì đang chờ đón họ. Chỉ mong đừng có biến cố gì lớn. Anh ngầm thán phục mẹ của Thương, sau những việc kinh hoàng xảy ra bà vẫn bình tĩnh, quắc thước…bà quan sát xung quanh. Cả ngôi nhà và khu vườn. Bà đi ra vườn, bước đi tự tin và lịch lãm. Chung quanh yên tĩnh và nặng nề. Không một tiếng nói vọng lại từ ngoài kia như mọi ngày. Tín cảm thấy đang sống trong một thế giới khác. Một thế giới mà mình chưa hiểu biết gì. Anh và Thương theo sau, rụt rè như những chú gà con. Bà dừng lại trước một thân cây lớn bị phạt ngang một nửa thân cây phía trên đổ xuống đè bẹp mấy luống hoa và hàng cây cảnh. Bà rưng rưng nước mắt. Đây là lần đầu tiên Tín thấy bà khóc. Bà khóc không thành tiếng. Tiếng khóc bị nén lại trong lồng ngực (bà hơi sững sờ một chút).
Thương cầm tay mẹ lắc nhẹ và an ủi:
– Có gì đâu mẹ, chỉ là một cây mít thôi mà.
Đôi mắt bà xa xăm nhưng cái thần thái vẫn uy nghi
Sau khi người chủ nhà ra đi, Tín và gia đình sắp xếp mọi chuyện cho những ngày sắp tới. Tất cả đều ngăn nắp, sạch sẽ. Mấy đứa nhỏ: em gái út của Tín, hai cô con gái nhỏ của cô út anh, rất vui vì được ở cùng nhau trong căn nhà mới. Tín và ba anh đi xem xét một lượt trong căn nhà, bắt đầu từ nhà bếp. Nhà bếp rộng và thoáng, gồm có bếp và kho chứa củi. Cả nhà anh 18 người, có thể dùng trong 6 tháng. Còn ở một góc nhà bếp khác, anh thấy có rất nhiều chum vại. Ba anh bảo chị Thi mở ra xem có gì trong đó. Có hai chum mắm nục và mắm cơm, một chum cá ngừ thính, một chum nhỏ hơn là mắm ruốt, một chum cà pháo muối, chị Thi rất mừng. Như vậy là có cái ăn rồi, chỉ còn thiếu gạo. Tín và ba anh đi qua phòng ăn. Phòng ăn cũng rộng, một dãy bàn dài và sạch sẽ, tủ đựng chén, đối diện với tủ đựng chén là một tủ lạnh to tuớng. Tín mở tủ, hơi lạnh thoát ra, không có gì, chỉ có mấy chai nước lọc. Một chiếc xe Honda 50 còn mới ở một góc phòng. Một chiếc TV 14 in đặt trên một chiếc tủ khác gần đó.
Tín và ba quyết định đi thăm xã giao mấy nhà hàng xóm ở căn nhà đối diện. Anh và ba vào căn nhà đầu tiên, một người đàn ông đứng tuổi đang đọc báo trên ghế xếp. Người đàn ông hói đầu, lưng hơi cong, người hơi gầy nhưng khoẻ mạnh và linh hoạt. Ông mau mắn đón hai người vào nhà, chỉ bộ ghế salon kê giữa nhà:
– Mời anh và cháu ngồi.
Ba Tín kính cẩn và nhỏ nhẹ:
– Cảm ơn ông.
Ông ta ngồi xuống và nói với xuống nhà dưới:
– Bà ơi, có khách, mang cho tôi một ấm trà .
Một người đàn bà khoảng 60 tuổi, mập và cao lớn, có vẻ nặng nề, nhưng khuôn mặt và nụ cười hiền từ mang trà lên và cùng ngồi. Bà hỏi giọng ân cần và nhỏ nhẹ:
– Ông và cậu từ Tam Kỳ ra?
– Dạ!
Bà nói tiếp:
– Tôi vẫn hay vô đó buôn bán, nghe giọng nói là tôi nhận ra.
Bà quay sang Tín:
– Cháu bao nhiêu tuổi?
– Dạ, 18 tuổi.
Bà cười và nhìn anh âu yếm:
– Đẹp trai thật!
Anh cười không biết trả lời sao. Ông chủ nhà mời họ uống trà.
– Thôi trước lạ sau quen. Chúng ta đã là hàng xóm rồi, có cần gì ông cứ hỏi. Giúp được, tôi sẽ cố gắng.
Ba anh trả lời xã giao:
– Chắc là phải nhờ cậy ông bà nhiều.
Ông ta vuốt mái đầu hói :
– Tôi nói thì không phải chứ ông đưa gia đình ra đây để làm gì, vất vả, tốn kém, còn nhà cửa tài sản nữa, không chừng kẻ gian lấy hết.
Ba anh trả lời :
– Ông nói cũng phải. Nhưng thấy người ta di tản nhiều quá, mình cũng sợ.
Ông ta đặt chén trà đã cạn xuống và rót thêm vào, thêm cả cho khách, lại vuốt mái tóc hói.
– Ông sợ cái gì mới được chứ?
-Tôi cũng không biết, sợ bom đạn, sợ những người phía bên kia cũng có.
Ông ta nói một cách sôi nổi và gãy gọn giống như đã chuẩn bị từ trước:
– Phía bên kia là ai? Họ cũng là người Việt Nam cả. Có thằng Mỹ, thằng Tây nào đâu. Mình là người Việt, đây là đất nước của mình, chẳng phải đi đâu cả.
Ba anh phân trần:
– Cũng biết thế, nhưng vẫn sợ.
– Như vậy là ông bị cái luận điệu tuyên truyền hù doạ rồi. Tôi cược với ông là mọi chuyện sẽ tốt đẹp. Rồi ông sẽ ân hận vì chuyến đi này…- ông nói giọng kéo dài – cộng sản cũng là người Việt Nam, tại sao phải sợ chứ?
Ba anh khen ngợi xã giao:
– Ông có vẻ am hiểu tình hình.
Tín hiểu tính của ba anh. Khi ông nói như vậy có nghĩa là ông không tin gì vào những gì người đối thoại đã nói. Trong chiến tranh, người Việt Nam đã bị phân hoá, một ranh giới vô hình nhưng lạnh lùng và nghiệt ngã chia cắt họ. Khi dân tộc bị chia cắt bởi những tư tưởng, những chủ thuyết thì dân tộc đó sẽ suy yếu. Một dân tộc văn minh thì có nhiều tư tưởng nhiều quan niệm, nhưng nó không tạo nên mâu thuẫn và chia cắt. Anh nhìn thấy điều đó. Cũng như giữa ba anh và người đàn ông này – họ ngồi đối diện nhau qua một cái bàn nhỏ, nhưng suy nghĩ của họ thì xa nhau muôn trùng.
Ba anh chuyển đề tài:
– Ông bà được mấy cháu?
Bà chủ nhà cởi mở:
– Chúng tôi được hai cháu gái. Chúng nó có chồng hết rồi, chỉ còn hai vợ chồng già buồn lắm.
Họ cáo từ và đi thăm người hàng xóm kế bên. Một người đàn ông có dáng vẻ của một công chức, trong bộ pijama trắng sạch sẽ, đôi kính cận dày cộm. Khuôn mặt đầy đặn, cử chỉ mực thước. Ông nói ít, thỉnh thoảng lại đẩy đôi kính nặng trể xuống. Ông chỉ hỏi thăm sức khỏe gia đình, việc học hành của Tín và tình hình trong Tam Kỳ.
Tín và ba anh cáo từ ra về. Ông chủ nhà niềm nở nói với Tín:
– Thỉnh thoảng qua đây chơi.
Chiều hôm ấy cả nhà ăn cá ngừ thính, rau sống, mắm tôm của ông chủ nhà để lại. Chị Thi nhìn Tín:
– Thịt và cá tươi đắt như vàng, rau muống cũng đắt, ráng chịu khổ một chút, khi nào tình hình lắng dịu, tha hồ mà ăn.
Anh trả lời chị Thi bằng một câu hỏi, nhưng không phải là để hỏi chị mà hỏi bâng quơ:
– Biết bao giờ mới lắng dịu đây?
Tối hôm ấy, anh trải chiếu ngoài bao lơn, nằm nhìn lên trời. Trời thăm thẳm và đầy sao. Bây giờ, chỉ có một mình, tối hôm qua, còn ở bên Thương, bây giờ đã ở một nơi khác, xa lạ, không phải là nhà mình mà cũng chẳng biết phải ở đây đến bao giờ. Anh nhắm mắt và hình dung Thương ở bên cạnh, bàn tay thon nhỏ, mùi nước hoa dìu dịu toả từ tóc, từ cổ Thương; những sợi tóc loà xoà sau gáy…. Anh đã từng là người hạnh phúc. Hạnh phúc mong manh trong tay anh, giống như anh cầm một cục nước đá trong vắt, nhìn thấy nó tan dần trong tay mà chẳng làm gì được.
Bờ ao thưa thớt cỏ. Những cây cúc dại lơ thơ, đó đây là mấy cây ổi dại nở hoa trắng. Có một cô bé và một cậu bé, trong bộ đồ truyền thống, áo dài khăn xếp. Cô bé áo lụa vàng khăn đỏ, lộng lẫy như cô dâu, à như một thiên thần thì đúng hơn dắt tay nhau nhảy lò cò trên bờ ao thưa thớt cỏ. Hai cô cậu đuổi theo mấy con bướm bé xíu màu trắng. Con bướm nhỏ bằng móng tay út, chập chờn trên những bông hoa cúc nhỏ li ti, phải chăm chú mới nhìn thấy được. Có cả chim, những con chim nhỏ đến kỳ lạ những con chim đủ màu sặc sỡ và không có tên gọi, không có thực trong loài chim, nó chỉ có trong giấc mơ. Có cả pháo ngày Tết, pháo nổ chỉ có khói và ánh sáng của lửa và không có tiếng nổ. Tất cả giống như trong một bộ phim câm.
Tín đang mơ một giấc mơ đẹp thời thơ ấu. Giấc mơ bỗng vỡ tan như những mảnh thuỷ tinh mong manh. Anh giật mình vì nghe ai đó gọi tên anh:
– Ba ơi, anh hai ơi, mẹ chết rồi….. Ba ơi, anh hai ơi, mẹ chết rồi….
Tiếng kêu đó là của em gái út của anh. Tín nhận ra trong sự ngái ngủ, anh phóng như bay xuống cầu thang vào phòng mẹ. Cha anh đang ở đó. Cô em gái anh ngủ với mẹ, cô ôm mẹ khóc và kêu gào rất thảm. Tín thấy mẹ đang nằm trong tư thế co quắp, miệng cứng đờ, tay nắm chặt. Anh như bị rớt xuống từ một khoảng không rất xa, rất cao, mất trọng lượng và mất định hướng. Mọi người trong nhà đều có mặt.
Hai ông hàng xóm cũng có mặt. Ba anh hỏi ông hàng xóm mang kính cận:
– Ở gần đây có bác sĩ không ông?
Ông ta chỉ lắc đầu. Ông đầu hói nói:
– Tụi bác sĩ nó biến mất rồi.
Anh hỏi như người mê sảng:
– Làm sao bây giờ ?
Ông khách mang kính cận tiến đến bên giường của mẹ anh
– Để tôi thử xem.
Ông bắt mạch một chút rồi lắc đầu nói với ba anh:
– Tình hình của bà nhà nguy hiểm, nếu không cấp cứu kịp sẽ tử vong trong vài phút nữa.
Ông chạy về nhà và mang qua một túi xách, ông nói với vợ điều gì đó. Ông áp ống nghe lên ngực mẹ Tín, sau đó ông nói với ba anh, tay cầm ống tiêm và đón ống thuốc nhỏ của bà vợ vừa đem qua:
– Đây là ống Coramin. Nếu ông đồng ý, tôi sẽ tiêm cho bà nhà, cứu được hay không tôi không dám chắc.
Ba anh đặt tay lên ngực mẹ. Ông quyết định ngay:
– Nhờ ông cứu vợ tôi, mọi chuyện tôi chịu trách nhiệm.
– Tốt .
Ông hàng xóm trả lời, tay bóc ống tiêm và bẻ ống thuốc, động tác thành thục và dứt khoát. Ông tiêm thẳng vào ngực, bắt mạch và chờ đợi. Không biết là bao lâu, thời gian như đông cứng lại, không khí ngột ngạt. Ông gật đầu nhè nhẹ.
– Tốt rồi, lạy chúa.
Một lát sau mẹ thở đều và mở mắt, cả nhà thở phào nhẹ nhỏm. Ông bảo mọi người ra ngoài và mở các cửa lớn cửa nhỏ, ông dặn:
– Bà nhà cần nghỉ ngơi, cần thoáng, mát mẻ, yên tĩnh.
Tín hỏi :
– Mẹ con bị bệnh tim hả chú?
Ông trả lời dứt khoát:
– Không, mẹ cháu bị suy nhược thần kinh, bà hay nằm mơ thấy ác mộng, kêu nói lảm nhảm và rất mệt, rồi co giật, tim ngừng đập.
Cả nhà Tín cảm ơn ông rối rít. Ba anh không cảm ơn, chỉ nói:
– Trời còn thương, nếu không lũ trẻ nhà tôi mất mẹ rồi.
Ông hàng xóm làm như không nghe thấy những gì ba anh nói, chỉ bảo:
– Ngày mai tôi sẽ viết thư cho một người bạn, ông cho cháu mang đi hoặc mời ông ta đến, hoặc lấy thuốc.
– Trăm sự nhờ ông – ba anh nói giọng thành khẩn.
Hai ông hàng xóm ra về, mấy đứa nhỏ thì đi ngủ tiếp, người lớn qua phòng khách để chờ trời sáng và chăm sóc mẹ anh. Tín nhìn đồng hồ – 4h, mẹ anh ngủ được một chút. Anh ngồi nói chuyện với ba cho đến sáng. Chị Thi mang vào cho Tín một tô bún giò. Ăn xong, anh đi tắm, rồi vào uống một chén trà.
Bảy giờ sáng, anh và ba qua nhà ông hàng xóm. Ông đợi ở phòng khách, phong thư đã viết xong, cây bút đặt lên trên. Ông ngồi uống trà với một cô gái khoảng 16-17 tuổi – con gái của ông. Anh chào ông theo kiểu của trẻ con: vòng tay trước ngực cúi đầu. Ông nhìn anh bằng nụ cười và ánh mắt hài lòng:
– Cháu ngồi xuống đây uống chén trà.
Rồi ông đứng lên mời ba:
– Mời ông uống chén trà.
Ba anh ngồi xuống hướng về cô con gái. Cô gái đứng lên theo và cũng vòng tay chào ông.
– Cháu chào bác.
Ông hàng xóm đi thẳng vào vấn đề. Ông nói với Tín:
– Cháu mang thư này đi sớm, về sớm.
Ba anh nhìn ông như muốn nói một điều gì đó. Ông hiểu ý:
– Con gái tôi đi cùng, nó biết nhà.
Ba anh hỏi:
– Cháu nó đi tình hình này có an toàn không?
– Hiện nay tình hình vẫn còn kiểm soát được.
Ông nói một cách tự tin, dứt khoát. Tín đứng dậy phân vân nhìn cô gái.
– Con đi với anh, đi cẩn thận – ông nói với cô. Cô bé nhanh nhẩu đứng dậy chào hai ông già. Cô đi thẳng ra ngoài.
Đêm qua, anh đã kiểm tra chiếc xe Honda 50 – ông chủ nhà để lại, tất cả đều tốt, chìa khoá có sẵn trong ổ, xăng đầy ắp (anh cảm thấy hơi khó hiểu về ông chủ nhà này). Anh nổ máy và nói:
– Mời em.
Cô gái nghiêm nghị và đoan trang, cô thận trọng ngồi sau. Cô nói:
– Anh cứ chạy, tôi chỉ đường.
Anh chạy xe giữa dòng người đông đúc. Trên đường đầy những xe cơ giới của quân đội, xe ôtô của dân, xe Honda chạy như mắc cửi và dòng người di tản ồ ạt đổ về Đà Nẵng. Có những đoạn đường không đi được, phải nhích lên từng tí một. Cô bé bảo anh rẽ qua đường khác để tránh kẹt xe. Anh cho xe chạy theo sự chỉ dẫn của cô, anh không hiểu mình đi đâu. Đà Nẵng với anh còn xa lạ, không có cô gái anh chẳng làm gì được. Cuối cùng anh cũng ra được quốc lộ 1.
– Mình đi đâu đây, Nga?
Tín tăng ga và lượn lách. Cô gái hỏi:
– Ở nhà anh có hay đua xe không?
– Thỉnh thoảng có một chút.
– Tôi hiểu tâm trạng của anh, nhưng chạy xe kiểu này có khi lại không tới nơi.
Anh nói cho cô an tâm:
– Cô cứ tin ở tôi.
Anh tăng tốc và lạng lách, xe chạy lướt ào ào qua những chiếc GMC đổ bên đường. Xe chạy qua Phước Tường. Máy bay gầm rú trên đầu.
– Người Mỹ đang di tản – anh nói với cô gái và lạng lách để đi thật nhanh. Một chiếc xe tải ngược chiều ầm ầm chạy tới, anh giảm ga đột ngột vòng vô phía trong. Cô gái la lên:
– Không khéo anh vất tôi xuống đường mất.
Anh nói thản nhiên không ẩn ý:
– Em ôm tôi chặc vào.
Cô gái nói vào tai anh:
– Đừng hòng, không có chuyện đó đâu.
Anh cười, cảm thấy vui vì một chút hiểu lầm này. Anh tiếp tục cho xe chạy vù vù. Đoạn đường xấu, xe nhảy chồm lên, cô gái bám vào vai anh và hét:
– Anh có điên không đó? Ba má tôi chỉ có mình tôi là con gái
Anh đùa:
– Ba mẹ tôi cũng có mình tôi là con trai.
– Mặc xác anh, tôi không muốn chết. Anh dừng lại đi.
Tín cho xe dừng lại và nói với cô:
– Hay là cô ngồi kiểu con trai đi.
Cô ta trợn mắt lên:
– Không bao giờ, anh để tôi chạy xe cho.
Tín cười và thách thức cô:
– Ok.
Anh ngồi lui ra sau, đôi chân dài xoải ra.
Anh nói:
– Con gái chở con trai, không ngượng à!
Cô ta hơi mím môi và nói:
– Thà ngượng một chút còn hơn là sẽ không bao giờ được ngượng nữa.
Cô gái cầm tay lái, quay đầu lại nói với anh:
– Anh nghe đây, anh phải ngồi xa tôi một chút, không được đụng tay vào người tôi. Bàn tay để vào đây – cô chỉ phần dưới yên xe – anh mà đụng vào tôi, tôi sẽ giết anh.
Cô ta nói với anh một cách nghiêm khắc nhưng đôi mắt cô ánh lên một nét cười. Cô chạy một đoạn khá xa, đến cầu đỏ, anh đùa một chút cho vui:
– Cô chạy xe cũng khá nhưng đừng có đâm đầu vào xe lớn đó nghe. Ba mẹ tôi chỉ có tôi là con trai.
– Anh yên tâm, tôi là con gái thành phố.
– Còn tôi là dân tỉnh lẻ – anh nói và cười phá lên.
Cô gái đính chính:
– Ý tôi không phải vậy.
Xe chạy vào một con đường nhỏ với những vườn cây hai bên, những cây nhãn gốc to bằng hai người ôm, những cây loại này rất hiếm, toả bóng mát và tạo một cảm giác êm dịu, mát mẻ khác với khoảng trời ngoài kia – chang chang nắng. Cô gái dừng xe trước một căn nhà sang trọng, phía trước là một khoảng sân rộng, một hồ nước xây hình bán nguyệt với hòn non bộ lởm chởm đá, rêu phủ xanh. Có lẽ hồ nước này được đặt ở đây để án ngữ con đường đâm thẳng vào nhà theo thuyết phong thuỷ. Một người đàn ông cao gầy, phong thái đạo mạo đứng trên thềm nheo mắt nhìn, ông nhận ra cô gái. Tiếng ông gọi vọng xuống dưới nhà:
– Bà ơi xem ai đến này!
Người phụ nữ đi từ dưới nhà lên tay cầm khăn, (chắc bà đang làm gì đó), mắt bà sáng lên, khuôn mặt rạng rỡ, bà vắt khăn lên vai cầm tay cô gái âu yếm nhìn.
– Bé Nga lớn thế này rồi và rất đẹp phải không ông?
Ông chủ nhà gật gù:
– Ừ, nó càng lớn càng đẹp. Ba mẹ khoẻ chứ con?
– Dạ ba mẹ con khoẻ.
Người phụ nữ nhìn anh ngập ngừng, chắc bà nghĩ anh là người yêu của Nga. Nga hiểu ý bà:
– Dạ không. Nga giới thiệu sơ sơ về anh và đưa thư của ba cho hai vợ chồng ông chủ nhà. Họ mời khách vào trong phòng, bà rót nước khi ông chồng đọc lá thư – vẻ trầm ngâm, trán ông xuất hiện những nếp nhăn:
Ông hỏi Tín về một số việc liên quan đến đến bệnh tình của mẹ anh. Rồi ông nói:
– Đó là dấu hiệu suy nhược thần kinh. Lấy thuốc về uống, có gì đến đây đích thân tôi sẽ thăm bệnh. Điều quan trọng là phải để bệnh nhân nghỉ ngơi, thư giãn trong một môi trường an tĩnh và thoáng mát, tránh những xúc động mạnh, buồn phiền, sợ hãi lo lắng.
Ông quay sang bà:
– Bà làm cái gì đó cho chúng nó ăn, tôi đi làm thuốc.
Ông sang phòng bên cạnh mở cửa, mùi thuốc Bắc thoang thoảng, dễ chịu vô cùng. Từ bé, Tín vẫn mê cái mùi nầy. Có lúc anh muốn sau này trở thành một bác sĩ đông y. Anh đã đọc về Lê Hữu Trác, Tuệ Tĩnh – họ là những con người kỳ tài và đẹp như huyền thoại.
Bà chủ nhà ân cần nói với Nga:
– Các con ở đây chơi chiều về, trưa nay cô nấu món gà hầm hạt sen – táo tàu cho con – món mà con vẫn thích đó.
Tín hơi sững sờ. Một điều nhắc nhớ đến Thương làm anh nhói đau. Thương cũng thích món gà hầm táo tàu hạt sen. Không biết bây giờ Thương thế nào, chắc là cô đơn và buồn. Khu vườn nhà Thương trưa nay thế nào, đầy nắng hay u ám? Chắc có lẽ bây giờ Thương ngồi ở phòng khách nhìn ra khu vườn quá yên tĩnh, yên tĩnh đến lạnh giá. Nếu biết tình thế như hôm nay, thì ở lại Tam Kỳ được sống bên Thương. Bây giờ đi không được, lại phải xa Thương. Cuộc sống sao mà oái oăm, oan nghiệt, cứ trêu ngươi người ta, dồn người ta vào thế tiến thoái lưỡng nan. Mười tám tuổi, mới đặt bước chân đầu tiên vào cuộc đời thì bị một cú knock-out khó lòng vượt qua.
Cô gái hích chỏ vào anh:
– Anh sao vậy?
Tín như bừng tỉnh khỏi một giấc mơ, thở dài mỏi mệt. Bà chủ nhà hiểu cái thở dài đó theo cách của bà:
– Thôi con cứ mang thuốc về cho mẹ uống, hẹn lần sau, hai đứa lại đến đây nhưng phải có tin vui đấy.
Cô gái chối đây đẩy:
– Lần sau thì có nhưng không có tin vui gì đâu.
Bà làm hai ly nước chanh – thứ chanh trồng ở vườn nhà, vỏ dày, nhiều nước và thơm tuyệt vời. Một lát sau, ông thầy thuốc (bây giờ thì anh gọi ông như vậy) bước vào, trên tay là một chồng những thang thuốc gói giấy vàng sẫm.
– Lấy 15 thang. Mỗi ngày một thang, sắc theo chỉ dẫn ghi trong thang thuốc.
Ông chủ nhà lấy một số tiền, mà anh biết chỉ đủ để mua lại thuốc, Tín hơi áy náy, nhưng không dám nói gì…chỉ thầm biết ơn.
Anh cho xe chạy theo đường đi qua Ngũ Hành Sơn. Con đường này tương đối yên tĩnh và dễ đi, qua cầu Trịnh Minh Thế thì bị kẹt, chạy vòng vòng đâu đó anh cũng không biết.
Về đến nhà đúng trưa, cả nhà đã ăn cơm, vào nhà bếp vừa ăn vừa sắc thuốc. Anh muốn tự tay mình làm cho mẹ. Uống thuốc xong một chút thì mẹ ngủ. Anh thấy nhẹ nhỏm trong lòng.
Buổi chiều, Tín leo lên sân thượng để nhìn cho đỡ buồn. Lại nhớ Thương da diết, nhớ quá đi mất. Nếu Thượng Đế sinh con người có thêm đôi cánh thì hạnh phúc biết bao – anh chợt nghĩ như vậy. Nếu có đôi cánh anh sẽ bay về với Thương. Anh sẽ bay ra biển, bay ban đêm. Biển mênh mông lấp lánh. Trời đầy sao, ánh trăng vằng vặc và gió – rất nhiều gió để đôi cánh thêm bồng bềnh phiêu lãng. Anh đứng như vậy không biết bao lâu, chỉ biết đèn đường đã bật lên. Anh vào phòng, lần đầu tiên anh chú ý căn phòng này: đầy nữ tính. Chiếc giường đệm trắng muốt, chiếc gối màu hồng, bàn trang điểm. Anh chợt nhớ đến cô gái có đôi mắt kiêu kỳ với dáng đi nhún nhảy. Còn có một chiếc tủ đứng kê sát tường ngăn cách giường ngủ và bàn trang điểm. Chiếc tủ khép hờ. Anh mở tủ, rất nhiều quần áo và ba chiếc áo dài nữ sinh. Nỗi nhớ Thương xót xa trong lòng bừng dậy. Anh nhớ mới ngày hôm qua, anh còn đón Thương trên đường đi học về mỗi chiều. Tà áo trắng thướt tha, mái tóc đen nhánh, gót chân tròn nhỏ, nụ cười nghiêng thành, ánh mắt âu yếm nhìn anh, vẻ phớt tĩnh của Thương khi bạn bè trêu chọc. Tín đóng cửa tủ thật chặc, hi vọng một ngày nào đó cô bé kia trở về và mặc những chiếc áo ấy. Nhưng anh cảm thấy đắng cay, vì thực ra trong lòng, anh linh cảm ngày đó sẽ không còn. Cô bé ấy với ánh mắt kiêu kỳ và nụ cười khiêu khích, không biết bây giờ ra sao: đang lênh đênh trên biển hay là đã đến nơi, hay đã….
Anh không muốn nghĩ đến, không dám nghĩ đến, cầu xin Thượng Đế che chở cho cô ấy. Anh ngồi vào bàn trang điểm, nhìn mình trong gương: hơi đen và gầy một chút. Anh nhìn những lọ nước hoa, anh chưa bao giờ để ý đến chúng, anh chỉ biết đến nó khi ở gần Thương. Lấy lên một lọ, mở nắp cho một ít vào tay xoa nhè nhẹ. Tín giật mình, sao lại thế cũng mùi nước hoa này, cái mùi hương quen thuộc quá, anh tưởng chừng như Thương đang ở đâu đây – rất gần – sau lưng anh. Nhìn vào gương, không có ai hết, chỉ có mùi hương nồng nàn gợi nhớ. Anh thấy chới với, cô đơn – tột cùng cô đơn.
Anh đứng dậy lấy chăn mùng đi ngủ. Chiếc giường đệm mời mọc anh bằng cái vẻ trắng muốt và sự êm đềm của nó. Anh thử đặt lưng xuống…, mùi con gái thoang thoảng. Tín chồm dậy, ôm chăn màn ra ngoài balcony. Anh sợ cái mùi con gái sẽ làm anh mất ngủ cả đêm. Nằm dài hít thở nhè nhẹ, sâu và chậm như một bài khí công anh đọc được trong quyển sách của ba anh. Tín chìm vào giấc ngủ đầy mộng mị và mỏi mệt.
Trời đã sáng, Tín giật mình nhìn đồng hồ: đã 7h30. Anh xuống nhà đi tắm và qua uống trà với ba như mọi ngày. Ba gầy và già đi, trầm tư và buồn bã.
Chị Thi vào:
– Mày ăn cơm rồi chở chị đi chợ nghe.
Chợ Cồn những ngày cuối tháng 3/1975 thật là lạ – lạ đến mức kỳ quái. Những thứ cần mua thì hiếm, dầu ăn, đường, bột ngọt giá cắt cổ. Có rất nhiều người bày bán những thứ không ai mua: vải vóc, áo quần và chén đĩa – tất cả đều là hàng ngoại Mỹ, Nhật, Đài Loan. Họ bán rẻ như cho. Anh nhìn thấy một người nông dân khệ nệ ôm một chồng chén dĩa Nhật mới toanh và rất đẹp. Ông ta mua với giá chỉ bằng một tô phở bò. Tín thấy chán nản quá! Anh mua 10 lon Coca – Cola vì mấy hôm nay anh chưa hề được uống.
Chị Thi rủa anh:
– Thằng quỉ, mày mua cái đó làm chi?
Anh trả lời tỉnh bơ:
– Em uống chứ làm gì.
Chị nhìn lắc đầu với một nụ cười:
– Tình thế này mà mày vẫn còn phong lưu.
Trên đường về, Tín thấy sự hỗn loạn đã lên tới mức không còn kiểm soát được nữa. Máy bay gầm rú trên đầu, tiếp tục di tản. Trên đường những chiếc xe quân đội bị bỏ lại la liệt, án ngữ những lối đi vốn đã chật hẹp. Có những người lính đào ngũ đi lang thang, quấy nhiễu, họ uống rượu say rồi đánh nhau. Có lẽ vì buồn chán và tuyệt vọng. Họ từ những mặt trận khác đổ về đây, không còn quân kỉ, không còn chỉ huy, họ tự do trong sự tuyệt vọng. Anh dừng lại lắng nghe hai sĩ quan đang tranh luận với nhau để biết họ nghĩ gì và tình hình xấu đến mức độ nào.
Một sĩ quan có vẻ kiên nghị, bừng bừng nhiệt huyết :
– Phải đánh một trận chứ, để coi “mèo nào thắng mỉu nào”.
Người kia có vẻ buồn rầu, ủ rũ hơn:
– Cũng chẳng giải quyết được điều gì. Mỹ đã bỏ rơi chúng ta, đánh nhau chỉ dẫn đến chết chóc và tàn phá. Chúng ta không thể thắng khi chúng ta không còn đồng minh và đối phương thì thế lực hơn hẳn chúng ta.
Dù thế nào, anh cũng mến phục hai con người đó.
Về đến nhà, anh thấy một gia đình, họ có vẻ là những nông dân, đang tá túc trước hiên. Anh không ngạc nhiên: chiến tranh mà. Họ có năm người: người chồng to lớn lực lưỡng, người vợ bệnh hoạn nằm trên chiếc chiếu còn rất mới nhưng bị rách toạc, ba người con: người con trai khoảng 20 tuổi và hai cô gái. Anh chào họ một cách lễ độ như người đã quen, anh không muốn làm họ sợ và áy náy vì thân phận của mình. Người đàn ông đáp lời:
– Chào cô cậu.
Qua giọng nói anh nhận ra họ là người Huế. Tín nhớ đến ba Thương. Anh hỏi với hi vọng mong manh:
– Chú có biết bác sĩ Hoàng, ở khoa ngoại bệnh viện Huế không, khoảng 50 tuổi.
Ông ta lắc đầu:- Chúng tôi là nông dân làm sao biết mấy ổng được. Tôi ở Mỹ Chánh chạy vào đây.
Tín hỏi ông:
– Tình hình Huế thế nào?
Ông ngồi tựa lưng vào tường, tay vòng ôm gối:
– Mất tới nơi rồi.
Tín chào ông ta và nói thêm:
– Mọi người cần gì thì nói, nếu được cháu sẽ cố giúp.
Đến trưa, hai cha con ông mang về hai bao gạo 50 kg và một bao bia BGI… Ông vào gặp Tín vẻ ngại ngùng:
– Cháu mua giúp chú hai bao gạo – và ông chỉ bao bia (những chai bia BGI đựng trong bao sọc xanh) – tôi cần tiền mua thuốc cho ba nhà tôi. Bệnh viện không có ai, gần như đóng cửa.
Anh nhớ lại lời hứa của mình khi sáng. Anh đồng ý và hỏi ông:
– Chú muốn bán bao nhiêu. Ông ta mừng rỡ nói:
– Thế thì tốt quá. Cháu cho hai bao gạo một ngàn đồng còn bia thì tuỳ đưa bao nhiêu thì đưa. Anh tưởng mình nghe nhầm. Mới hôm qua chị Thi mua 300đ/1lạng gạo. Anh hỏi lại và được ông giải thích:
– Gạo này tôi lấy ở kho dự trữ – kho an toàn đó.
Ông nói và cười một cách xấu hổ. Tín à lên một tiếng và trả tiền. Tất cả 1500 đồng. Anh mang gạo và bia vào nhà với sự giúp đỡ của hai cha con người nông dân. Khi họ đã ra ngoài, cô hai, anh ba la Tín om sòm:
– Mi mua bia làm chi, thằng phá nhà. Trên bom dưới đạn sung sướng lắm hả. Anh chỉ cười tháo bia ra, mang hai mươi chai vào tủ lạnh.
Buổi trưa cả nhà ăn cơm. Đó là buổi trưa ngày 24/3/1975. Anh Nhân và anh Khanh (anh Khanh là rể của cô hai – chồng chị Thi, còn anh Nhân là rể của cô bốn tuy lớn hơn Tín mười tuổi nhưng trong gia đình vẫn là vai em) từ Tam Kỳ ra. Anh Khanh là giáo viên, anh Nhân là sĩ quan cảnh sát dã chiến. Anh Khanh rất vui khi gặp vợ con,anh nói rất nhiều, có cả những điều không cần thiết. Anh Nhân thì buồn rầu vì lo lắng vợ con còn ở lại Tam Kỳ không di tản được. Anh lặng lẽ ngồi xuống ăn cơm. Tín chạy vào lấy hết số bia trong tủ lạnh, cho thêm vào đó hai mươi chai. Anh Nhân vẫn lặng lẽ uống bia, từ khi bước chân vào nhà anh chỉ nói mỗi một câu: ”Tam Kỳ thất thủ rồi”. Còn anh Khanh thì nói liên miên hết chuyện này sang chuyện khác, toàn những chuyện rùng rợn. Trong những chuyện kinh hoàng đó, chuyện nào anh cũng là trung tâm hoặc đóng một vai trò quan trọng. Từ trước đến nay anh vẫn vậy, cho nên khó xác định được sự khả tín trong những câu chuyện của anh. Sợ anh đi quá trớn trong một hoàn cảnh mà ai cũng không vui này chị Thi vợ anh ngăn lại:
– Thôi! Anh bớt ba hoa đi cho và cũng uống ít thôi.
Anh cụt hứng quay sang Tín:
– Bia ở đâu đây?- Em mua!
Anh khanh vỗ vai Tín:
– Anh thích cái tính hào hoa của cậu, ở đâu hoàn cảnh nào cũng vậy. Hèn gì các cô gái mê cậu là đúng.
Tín cười, không phải vì lời khen của anh mà vì thái độ bình thản của anh. Anh vui vẻ như một cậu bé, trong bất cứ hoàn cảnh nào. Nếu có ai chỉ trích, anh vẫn thản nhiên và quên ngay.
– Còn nhiều lắm, anh uống đi.
Anh Nhân ngăn lại:
– Thôi đừng uống nữa, có rất nhiều người di tản ra từ Tam Kỳ, mình chia nhau đi dạo coi thử có ai quen để hỏi thăm tin tức của gia đình.
Tín đồng ý, anh cũng có chút hy vọng mong manh, biết đâu Thương và gia đình ra đây thì sao. Anh thầm cầu xin Thượng đế thương xót cho những người bất hạnh. Anh chạy xe vòng vòng, hết đường này qua đường khác, chậm rãi để quan sát từng người trên đường. Rất dễ phân biệt người di tản và dân địa phương: người di tản thì bơ phờ, áo quần xộc xệch dơ bẩn (vì lo lắng và sợ hãi). Anh dừng lại khi thấy những người tị nạn nghỉ tạm dưới những hàng cây ven đường hay bất cứ chỗ nào có thể: đó là hiên của một gia đình đã ra đi, là khoảng sân rộng của nhà ai đó, và nhiều nhất là ở những bến xe, ở trại tiếp cư.
Tại trại tiếp cư, anh thấy rất nhiều người, có người thì nằm trên chiếu trải trên đất, đa số ngồi bó gối, trông họ thiểu não, buồn chán, không còn sinh khí. Các cô gái nằm ngủ vì mỏi mệt, họ không buồn quan tâm đến có đôi mắt xoi mói nào nhìn trộm không. Tín đi lẫn vào trong đám người lố nhố. Anh nhìn xung quanh, rồi nhìn xa nhìn gần, nhìn trước nhìn sau. Có rất nhiều người như anh – họ bị lạc mất người thân, họ cũng đang dáo dát tìm, có người lạc mẹ, có người lạc con. Tiếng khóc, tiếng rên rĩ xé lòng. Anh không dám nhìn cái cảnh đau buồn đó, nó quá tàn nhẫn, quá phi lý. Đôi lúc tim anh rộn lên niềm vui sướng. Anh cuống cuồng chạy đến vì một mái tóc, một dáng đi giống quá, nhưng rồi lại thất vọng khi đứng trước một cô gái xa lạ. Cô gái và bà mẹ nhìn anh thông cảm. Anh lại đi từ nơi này sang nơi khác, buồn rầu, vô vọng.
Trở về khi chiều đã muộn, mệt nhoài vì cả buổi chiều lăng xăng và căng thẳng. Tín đi tắm và ăn cơm, anh ăn một mình. Anh Nhân vẫn chưa về. Mẹ Tín ngồi một bên, mẹ đã đỡ nhiều, ngủ được và ăn ngon. Mẹ an ủi:
– Con đừng buồn, chuyện gì cũng là ý trời cả, ăn nhiều vô, ngủ một giấc, mai lại đi, biết đâu lại gặp may.
Anh cảm thấy mình không phải khi để mẹ lo lắng trong tình trạng sức khoẻ như vậy.
Anh nói với tâm trạng của người có lỗi:
– Mẹ cứ yên tâm dưỡng bệnh. Con lớn rồi, chuyện của con, con tự lo. Ai lớn lên cũng phải đối diện với những vấn đề của riêng mình có phải không mẹ?
Mẹ anh cười:
– Thằng này nó lớn thật rồi.
Tín đi ra ngoài, gặp Nga đi đâu đó mới về. Anh mời cô lên phòng anh. Anh mang theo hai lon Coca. Họ đứng ở balcony nhìn xuống khoảng sân hẹp. Trước mắt là nhà của Nga. Ông bố đang nghe radio.
Anh nói với Nga:
– Cám ơn em vì chuyến đi vừa rồi. Không có gia đình em, không biết sẽ ra sao. Tôi sẽ không quên sự giúp đỡ chí tình này.
Nga cầm lon Coca từ trong tay anh đưa cho:
– Thôi đi, anh đừng dùng cái thứ ngôn ngữ “ngoại giao” đó, nó không hợp với sự ngốc nghếch của anh và cũng không hợp với sự chân thành của tôi.
Anh cười phá lên, cô gái cũng mỉm cười. Anh quay sang nhận xét về căn nhà đang ở.
– Căn nhà này tiện nghi nhưng đơn điệu quá, không có hoa, không có cây xanh. Không biết ông chủ làm nghề gì? Ông là người có tình, nhưng ngôi nhà này tẻ nhạt quá.
– Anh nghĩ ngôi nhà và người chủ nhất định phù hợp với nhau sao?! Cô gái nhìn anh hơi ngạc nhiên.
– Thường thì như vậy, ngôi nhà vật dụng, nó thể hiện cá tính của chủ nhân.
– Nếu vậy thì đúng rồi. Ông ta đơn giản nhưng tốt bụng, không màu mè, không khoa trương nhưng nếu cần ông ta sẵn sàng giúp.
– …..cũng như ba em.
– Ba em khác, tốt bụng nhưng nguyên tắc – cô gái nói về ba cô vẻ tự hào.
– Ba em làm gì?
– Ba em là sĩ quan quân y, bị thương giải ngũ khá lâu rồi.
Cô lại nhìn anh:
– Chắc nhà anh đẹp lắm.
– Không, bình thường thôi. Nhưng nhà bạn tôi thì rất đẹp, rất thơ mộng.
– Bạn gái hả?
Anh gật đầu nhè nhẹ.
– Chắc cô ấy đẹp lắm?
– Đẹp tuyệt vời.
Cô gái có vẻ buồn. Anh cảm nhận được một điều: không có cô gái nào vui khi có một người nào đó khen một cô gái khác trước mặt họ. Anh nhìn cô gái đôi mắt long lanh, khuôn mặt nở nang rạng rỡ, cái nét đẹp của một mệnh phụ trong tương lai. Anh khen cô một cách chân tình:
– Em cũng rất đẹp.
– Không cần anh nịnh đầm, tôi tự biết mình. Cô gái nói có vẻ bất cần nhưng anh thấy cô vui và rất mãn nguyện.
Hai ngày trôi qua, sự tìm kiếm vô vọng. Đà Nẵng hai ngày mưa, mưa không lớn nhưng dai dẳng và não nùng. Bầu trời xám xịt, đường phố trở nên u ám, ẩm ướt và lép nhép bùn, nhất là quãng đường Ông Ích Khiêm-chợ Cồn.
Tín lang thang qua mọi ngõ ngách, anh đã chứng kiến một Đà Nẵng hỗn loạn. Quân đội hình như đã tan vỡ một cách lạ lùng và khó hiểu, đường phố không còn người quét rác, rác vương vãi và ngập đường, ruồi nhặng khủng khiếp. Cảnh sát cũng không còn, luật pháp coi như chấm hết. Người ta sống với lương tâm của chính mình, trật tự xã hội được điều hành bởi ý thức công dân. Một ý thức công dân được hình thành với một Nhà nước pháp quyền tồn tại ngắn ngủi.
Anh trở về mỏi mệt và buồn chán. Lên lầu, lấy một chai bia mang theo, gặp anh Nhân – trông anh gầy rộc, mặt hốc hác thảm hại. Tín hiểu tâm trạng của anh: vợ và hai con nhỏ bị kẹt ở Tam Kỳ, anh như người ngồi trên đống lửa.
Tín hỏi:
– Anh uống một ly bia chứ?
Anh gật đầu và cười, nụ cười méo mó và thiểu não. Tín chạy lại lấy thêm hai chai nữa, hai người ngồi ngoài balcony lặng lẽ uống, thỉnh thoảng họ trao đổi một vài câu đơn điệu.
Tín hỏi anh ta:
– Theo anh thì tình hình có cứu vãn được không? Người ta đang nói đến một” giải pháp chính trị”.
Anh ta lắc đầu, đôi mắt buồn thăm thẳm:
– Làm gì có giải pháp chính trị, chiến xa và pháo binh Việt cộng đã áp sát thành phố, họ sẽ tiến vào trong nay mai thôi. Giải pháp chính trị chỉ là ảo tưởng của một số người ngây thơ, hảo huyền.
– Anh tính thế nào?
– Còn thế nào nữa, đi thôi, nhưng kẹt vợ con, thật điên cái đầu.
Tín thấy mình không phải là người duy nhất đau khổ, anh uống hết chai bia và đi ngủ.
Buổi sáng ngày 29/3/1975, chị Thi từ ngoài phố chạy về, vẻ mặt hốt hoảng, chị nói lắp bắp:
– Nghe người ta nói Việt cộng về tới ngã ba Huế rồi.
Anh Khanh và anh Nhân lên xe Honda, đi xem xét tình hình. Một giờ sau, họ về, anh Nhân cởi vội bộ quân phục, vứt ra đường mặc bộ civil vào, anh sửa soạn một túi xách tay nhỏ. Anh Khanh cũng sửa soạn ra đi, anh nói với chị Thi:
– Em ở nhà chăm sóc con, anh phải đi thôi, giờ này không thể mang em và con theo được.
Chị Thi khóc, chị đưa thằng cu cho anh ôm một chút để từ biệt. Anh Khanh ôm hôn con, hôn khắp người, từ bàn tay bàn chân, nước mắt anh chảy dài trên má… thật cảm động.
Anh Nhân hối thúc:
– Thôi, nhanh lên không còn kịp nữa, tàu nhổ neo bây giờ.
Anh hỏi Tín:
– Cậu có đi không?
Tín lắc đầu.
– Cậu ở lại bảo trọng, chăm sóc mợ chu đáo, bệnh của mợ không đơn giản đâu – anh ta ôm Tín thật chặt – hẹn gặp lại.
Họ lên xe, rú hết ga ra bến tàu.
Những chiếc chiến xa T54 tràn vào Đà Nẵng. Tín nhìn thấy lá cờ của “Mặt trận giải phóng dân tộc miền Nam Việt Nam” đi qua đường Nguyễn Hoàng, anh đang chứng kiến giờ phút thay đổi của Đà Nẵng, lúc đó anh nhìn đồng hồ 3h chiều, thành phố quan trọng bậc nhất miền Trung. Mọi người trong nhà chờ đợi, không ai nói một lời.
Thành phố yên tĩnh, hai ngày trôi qua, nhiều người đã ra đường, một cách thận trọng. Người ta bắt đầu mua bán những thứ đơn giản. Bà hàng bún trước nhà mở cửa trở lại. Đồng tiền mất giá kinh khủng, vì không biết bây giờ người ta có dùng nữa không. Các bà các cô thì tháo hết vàng bạc nữ trang giấu kỹ, họ lặng lẽ và bí mật giấu hết, quỉ không hay – thần không biết. Tín nói với ba mẹ, anh muốn về Tam Kỳ, nhưng ba mẹ không đồng ý.
– Con cố chờ thêm vài hôm nữa cho tình hình yên tĩnh đã. Hôm nay còn nguy hiểm lắm. Cầu Câu Lâu sụp rồi, xe không qua được.
Trong bữa cơm, chị Thi nói:
– Ngoài biển người ta nói rất nhiều người chết tấp vô. Hôm qua con nằm mơ thấy thấy anh Khanh về, anh ấy nói bị đói và rất lạnh, con sợ ảnh… Chị không nói nữa, nước mắt lã chả.
Cô hai của Tín nói với ba anh :
– Hay là mình đi xem thầy, coi thử thế nào, coi nó còn sống không? Ba anh không tin chuyện bói toán nhưng bác bỏ cũng không tiện, đành nói:
– Tuỳ chị, nhưng theo tôi “tử sinh hữu mệnh”.
Vậy là Tín phải đưa chị Thi đi xem bói. Đến một xóm nhỏ, nhà cửa chật hẹp và nghèo nàn. Vào một căn nhà khói hương nghi ngút, ngột ngạt vô cùng, Tín thấy buồn nôn khi nhìn người đàn ông thấp, da ngăm mặc bộ pijama nâu, miệng nhai trầu bỏm bẻm. Trông ông ta quái dị, nửa đàn ông, nửa đàn bà nói chuyện với chị Thi.
– Được. Chị cúng bà 2000 đồng. Tôi sẽ hỏi cho chị.
Sau đó ông ngồi lên bàn, trùm khăn đỏ, bắt đầu lắc lư, rồi một giọng nói the thé quái gở như từ một thế giới khác. Anh không tin nhưng cũng thấy rùng mình.
– Tuổi này, năm nay gặp nạn chắc khó qua khỏi, nhưng khi sinh thời có tu nhân tích đức nên ở thế giới bên kia cũng được sung sướng.
Chị Thi vẫn không an tâm hỏi:
– Nhưng sao con chiêm bao thấy chồng con đói và lạnh.
– À, chắc là rơi xuống biển nên hồn về báo như thế, bây giờ thì siêu thoát rồi.
Trên đường về, chị Thi bảo ngày mai đưa chị sang quận 3 đi tìm xác anh Khanh. Tín không tranh luận với chị Thi vì anh nghĩ chỉ vô ích thôi, hơn nữa cũng phải đi để chị an tâm, vì điều gì cũng có thể.Tín và chị Thi đi dọc theo bờ biển mà mấy tuần trước đây là bãi biển thơ mộng và trữ tình với những người phụ nữ thướt tha, yểu điệu và hấp dẫn trong bộ đồ tắm, đi thang lang dọc bờ biển. Bây giờ, đây là một bãi biển kinh hoàng, những thây người vô thừa nhận nằm rãi rác. Những người tốt bụng quanh vùng mang những cái thây người sình to đặt trên mấy chiếc chiếu vàng ố. Mùi hôi thối bốc lên kinh khủng, dù cho gió biển đã làm cho cái mùi đó bớt đi. Tín và chị Thi – mỗi người một khẩu trang, cùng với rất nhiều người đi tìm người thân. Họ nhìn áo quần của những người xấu số,để sơ bộ xác định nhân thân. Tín thấy có nhiều xác chết đã biến dạng hoàn toàn: tay chân, mặt mũi đã bị cá rỉa làm cho không thể nào nhận diện được, rồi cái nắng nóng làm cho làm cho những thi thể nhanh chóng hư hoại và sình to lên một cách đáng sợ. Anh không thấy sợ hãi như trước đây khi nhìn người chết, đặc biệt là những tình huống ghê tởm như thế này.
Bây giờ, anh chỉ thấy đau lòng và thương cảm, anh nhìn thấy cái thân phận bi đát của con người, cái thân phận mong manh, bé nhỏ và phù du của con người. Hình dung những người phụ nữ, những người đàn ông và có cả trẻ con đang nằm kia, nắng và gió biển làm cho thân thể họ tím bầm, nhợt nhạt. Ruồi nhặng bâu đầy trên những mảnh thịt đỏ bị loắt ra. Trước đây, họ đã là những người phụ nữ duyên dáng, quyến rũ và những người đàn ông lịch lãm, hào hoa, những cô bé cậu bé xinh xắn như thiên thần. Bây giờ họ nằm đó, biến dạng và khủng khiếp. Anh thấy có một cái gì đó đang đổ vỡ trong anh. Chỉ qua một thời gian ngắn, những biến cố trong cuộc đời đã làm anh trở nên tỉnh táo, vô tình và lý trí đến cứng nhắc, không còn đa cảm và dễ xúc động nữa. Chỉ có nỗi niềm của anh với Thương là vẫn còn nguyên vẹn, nó nằm ở một nơi rất riêng trong trái tim anh.
Sau khi đã lang thang suốt một buổi mai, và đã xem xét rất nhiều người chết, chị Thi bảo Tín đưa về vì thấy buồn nôn và nhức đầu. Về đến nhà, Tín vồi vàng thay quần áo và tắm. Ăn cơm xong, anh lên phòng, trải tấm nệm dưới nền gạch hoa. Sau khi đã xịt khắp phòng một ít nước hoa, anh nhắm mắt mường tượng Thương đang đâu đó trong phòng. Thương đang hiện diện đầy ắp trong phòng này.Ba giờ chiều thức dậy, Tín đi tắm cho người tỉnh táo. Anh qua nhà Nga để chào tạm biệt ba của Nga. Người đàn ông ít nói, hơi lặng lẽ, niềm nở tiếp anh ở phòng khách. Phòng khách nhỏ nhưng bày trí rất hài hoà, và rất có hồn. Anh thấy tất cả mọi thứ ở đây đều nằm đúng vị trí của nó. Bộ salon, mấy chậu hoa, hồ cá, mấy bức tranh trên tường – phiên bản của Picaso, của Leonardo De Vinci. Ông mời anh một chén trà, mùi thơm của trà gợi anh nhớ lại cái không khí êm đềm và hạnh phúc ở nhà Thương. Anh tưởng như có tiếng mẹ Thương vọng lên từ nhà dưới.
Ông hỏi anh:
– Con có tâm sự à?
– Dạ,con sang đây để chào tạm biệt chú và Nga, và cũng để cảm ơn chú và Nga về những sự giúp đỡ trong thời gian qua. Có dịp con mời chú và Nga vào Tam Kỳ, đến nhà con chơi.
Nga nheo nheo mắt nhìn anh :
– Lại những lời lẽ ngoại giao vụng về.
Họ cười rất vui vẻ, anh nâng chén trà để lên mũi hít nhè nhẹ để cho cái mùi hương dìu dịu ngập tràn từng khoang phổi, để nỗi nhớ Thương thấm sâu vào máu huyết.
– Trà Ô Long này thật tuyệt vời. Với con, nó có nhiều kỉ niệm. Không biết rồi đây con có được uống nữa không!
– Chắc là không, trà này nhập từ Đài Loan, Hồng Kông, giá rất đắt – loại xa xỉ phẩm nghe nói đâu chế độ mới họ sinh hoạt rất tiết kiệm.
Anh nghe trong cách nói của ông, ông dùng từ rất thận trọng.
– Còn nước hoa thì sao hả ba.
Nga hỏi vẻ sốt ruột vì Nga cũng dùng nước hoa, với cô đó là một điều rất quan trọng.
Ông cười phá lên:
– Nước hoa à… Ba chỉ có một mình con, nhưng rồi đây con cũng không còn là công chúa nữa. Con phải làm một việc gì đó để kiếm sống. Mọi người phải lao động.
– Lao động thì lao động. Con chẳng sợ.
Ông không nói gì, nét mặt buồn mênh mông.
Buổi sáng, lúc ăn mai, anh trình bày ý định về Tam Kỳ với ba mẹ.
Mẹ anh chỉ hỏi:
– Có sớm quá không con?
Ba anh có vẻ dửng dưng. Trước đây, ông rất lo lắng; bây giờ ông ít nói, ít ra ngoài, và vẻ mặt của ông có vẻ an phận, có vẻ lãnh đạm.
– Về cũng được, con bảo trọng. Tuần sau cả nhà cùng về.
Tín chuẩn bị hành lý, chỉ vài bộ quần áo, và một ít tiền, chiếc xe đạp của ông chủ nhà để lại còn rất tốt. Loại xe dura của Pháp, vừa nhẹ vừa lướt nhanh. Anh cảm thấy nhẹ nhàng và ít ra anh cũng thực hiện được dự định của mình, và điều quan trọng hơn là anh háo hức được gặp lại Thương. Nghĩ đến điều đó là anh cảm thấy được khích lệ…, cảm xúc bay bổng tràn ngập trong lòng. Anh sẽ ngắm Thương thật lâu, từ mái tóc mượt mà như mây, chiếc cổ tròn ba ngấn, ánh mắt dịu dàng đằm thắm nhưng rừng rực một tình cảm đam mê dấu kín. Bàn tay nuột nà, những ngón tay thon dài. Những ngón tay ấy, từ ngàn năm trước đã làm não lòng người dũng sĩ một đi không trở lại – Kinh Kha. Anh chợt mỉm cười, ngàn năm sau, ngàn năm sau nữa, và mãi mãi, bàn tay nuột nà của mĩ nhân sẽ là nỗi đam mê cháy bỏng trong lòng các đấng mày râu.
Xe đã đến cầu Câu Lâu. Cây cầu đồ sộ đã bị giật sập, nó quị xuống như người bị thương. Anh nhìn xuống bến sông, tấp nập những chiếc xuồng, những chiếc ghe nhỏ chờ người qua sông. Những người dân quanh vùng đưa khách qua sông với một ít tiền lộ phí. Một vài quán mì Quảng mọc lên để phục vụ khách qua đường. Những tô mì nấu rất vụng về, giúp khách lót lòng. Anh vào gọi một tô mì rồi qua sông. Dòng sông không quen cũng không lạ đối với anh. Anh không là bạn cũng không là khách. Anh nhớ đến dòng sông quê anh, nhớ đến những người bạn mà bây giờ không biết ra sao. Anh thấy cuộc sống của anh đang thay đổi, có điều không biết nó sẽ thay đổi đến mức nào.
Về tới Tam Kỳ trời đã xế bóng, phố xá hoang vắng buồn thảm, thỉnh thoảng mới gặp vài người, cũng với nét mặt an phận lãnh đạm, không buồn chào nhau, họ như những người vừa trải qua một cơn đau, miệng còn đắng chát nên dửng dưng với mọi việc, với tất cả. Anh rẽ vào một góc phố nhỏ, nhà Thương đây rồi, nhưng trước anh là một cảnh tượng mà anh không hề được chuẩn bị trước. Anh choáng váng. Chiếc cổng sắt bị tháo mất một cánh. Trong nhà đồ đạc không còn. Những căn phòng rỗng tuếch, chỉ còn những thứ không mấy giá trị, bọn trộm vứt ngổn ngang trên sàn nhà, ngoài vườn. Cửa kính bị tháo hết, căn nhà không còn cửa trở nên hoang tàn không nhận ra nữa. Anh đi quanh vườn, bọn trộm thật nhẫn tâm, những chậu cây kiễng lớn không mang đi được cũng đập vỡ nát. Cái xấu cái ác đã có một cơ hội tuyệt vời để hoành hành.
Tín trở về nhà. Gia đình cô gái tá túc không còn ở đó nữa. Chắc họ đã về Tiên Phước. Cánh cửa nhà anh bị tháo khoá, vòng khoá vất ở một góc nhà, đồ đạc bị lấy đi rất nhiều. Những thứ nặng nề như tủ giường bàn ghế thì còn. Kẻ trộm lấy đi những gì có thể lấy, những gì không lấy được thì còn nguyên vẹn. Anh thấy những kẻ trộm này còn có chút lương tri, anh thoáng nghĩ, thôi cũng được, họ cần thì họ lấy, điều quan trọng là họ không đập phá những gì không lấy được, khác với nhà Thương, những gì không lấy được đều bị đập phá một cách tàn nhẫn.
Anh trải một tấm vải bạt xuống sàn nhà đầy bụi, không màn, không điện, anh nằm trong bóng tối và nghĩ đến ngày mai anh sẽ được gặp Thương. Nhà vắng người, lũ chuột cũng bị đói, chúng chạy xao xác tìm mồi, rượt đuổi nhau va cả vào người anh.
Buổi sáng thức dậy, anh thấy cô đơn vô cùng, trong ngôi nhà lạnh lẽo. Không có người thân ngôi nhà trở nên xa lạ, hoang vắng. Tín đi tắm, chẳng có dầu gội, cũng không xà phòng, lần đầu tiên anh tắm như vậy. Tắm xong rồi mà tưởng như mình chưa tắm.
Anh ra phố tìm một chút gì để ăn. Chẳng có thứ gì, người ta chưa quay về với cuộc sống bình thường. Anh nhịn đói đạp xe đi Chu Lai. Con đường Tam Kỳ – Chu Lai vắng teo. Cảnh sắc hai bên đường vẫn thế, những ruộng lúa, những dải cát dài nối tiếp nhau, rừng dương liễu nối tiếp với núi đồi. Thỉnh thoảng cũng có người đi qua lại. Anh nhìn phía trước, phía sau, anh chỉ có một mình trên quãng đường heo hút. Đi qua chợ – anh không biết chợ gì, cách Chu Lai về phía bắc khoảng 8km, anh ghé vào chợ mua một nải chuối nhỏ và ba trái mãng cầu của một bà lão. Bà bán rẻ quá, rẻ đến nỗi làm anh áy náy. Tín khẩn khoản muốn trả thêm tiền nhưng bà dứt khoát từ chối. Anh vào một cửa hàng gạo, gạo trong cửa hàng đã hết, chỉ còn tấm biển xiêu vẹo. Bụng đói cồn cào, anh ăn thật nhanh, thật ngon, loáng một cái đã hết sạch. Bà hàng gạo mang cho anh một bát nước chè đen đậm và nóng hổi. Anh uống xong, cám ơn rồi lên đường.
Anh nghe bà chủ bán gạo nói với bà lão bán trái cây:
– Thằng bé không phải người vùng này, con nhà ai mà dễ thương quá.
Tín đến nhà cậu của Thương. Anh đã đến đây một lần vào mùa hè năm 1973 cùng với ba mẹ Thương, đi tắm biển Rạng. Họ đi trên một chiếc xe Jeep mui trần, màu trắng. Anh và Thương ngồi sau, ba Thương cầm lái. Đến đâu ông cũng được chào đón một cách trang trọng. Ông có mối quan hệ rộng rãi và khá nổi tiếng. Lúc đó anh thấy mẹ Thương trẻ và đẹp. Thương giống mẹ như một phiên bản, cộng với một chút quí phái của cha. Anh tưởng chừng như mới hôm qua.
Tín vào nhà, không có ai, đồ đạt vứt lung tung, cái cảnh tượng chẳng khác nhà anh là mấy. Tim anh như ngừng đập. Như vậy là Thương đã đi rồi. Anh leo lên tầng trên, cũng không có ai, nhìn qua bên kia đường: mấy người hàng xóm đang nhìn anh, họ nói với nhau một điều gì đó. Anh quyết định đến hỏi thăm để biết một chút tin tức về Thương. Mấy người phụ nữ tuổi mẹ anh và một cô gái chào anh.
– Cháu tìm anh Thao phải không?
– Dạ. Cháu tìm người nhà của Thương. Ông Thao là cậu của Thương – anh trả lời.
Bà hàng xóm mập quá khổ nhưng có vẻ mặt hiền từ, bà nói với bà kia:
– Thương là cái cô bé đẹp như diễn viên đó, cháu ổng.
Bà kia nhìn anh :
– À, cháu là…
Tín tiếp lời :
– Cháu là bạn của Thương. Cháu muốn hỏi Thương và gia đình đi đâu rồi ạ?Bà hàng xóm nhìn anh có vẻ ái ngại không muốn nói với anh một điều gì đó. Cô gái nhanh nhẩu cho anh biết:
– Nhà này đi rồi nhưng… – cô bé lại nhìn bà hàng xóm như muốn hỏi có nên nói ra điều này không. Anh linh cảm một việc gì đó không may xảy ra, tim anh thắt lại, anh nói như van xin họ:
– Cháu rất muốn biết tin tức của Thương và gia đình, mong các bác nói cho cháu biết.
Bà hàng xóm gật đầu với cô gái. Cô bé có vẻ thạo tin và thích nói chuyện.
– Gia đình này có một chiếc tàu, họ đã lên tàu chuẩn bị di tản, nhưng tàu bị trục trặc gì đó, ông chủ tàu tìm thợ ra sửa máy. Tàu đang sửa máy, đậu khá xa bờ, lúc đó quân giải phóng tiến vào Chu Lai. Dòng người hoảng loạn đổ xô ra biển, họ dùng xuồng nhỏ, liều mạng chèo ra những tàu lớn. Họ tràn lên tàu, nhiều người quá nên tàu chìm. Gia đình này bị kẹt trên đó, chắc là chết hết rồi.
Tín thấy đau buốt trong ngực, choáng váng như bị sét đánh. Anh gục xuống khóc như mưa như gió, không để ý đến mọi người nhìn anh. Họ để cho anh khóc rất lâu. Cô gái mang cho anh một ly nước chanh. Bà hàng xóm ép anh uống hết cốc nước chanh đầy. Bà ngồi bên cạnh anh, vuốt tóc như con của mình.
Anh hỏi:
– Có thể có sự nhầm lẫn nào đó không hở bác?
Bà buồn rầu khẽ lắc đầu.
Chẳng biết đi đâu bây giờ, anh chẳng biết làm gì bây giờ, anh như một người bị thương. Anh chào mọi người.
Bà hàng xóm hỏi:
– Con về có được không. Bác cho người chở con về.
Anh cảm ơn bà:
– Con về được, con phải về.
Trên đường về, Tín vẫn khóc, nước mắt chảy dài trên má. Anh tưởng chừng như Thương vẫn còn đó, bên cạnh anh trên đường đi học – tà áo dài tha thướt, mái tóc tung bay trong gió. Thương mỉm cười với anh.
Về Tam Kỳ, 5 giờ chiều, một buổi chiều đầy mây, trời trở gió, những trận gió cuốn phăng những chiếc lá rụng ven đường, dồn chúng lại, hất tung lên rồi bỏ mặc cho chúng rơi lả tả. Trước đây, khi còn bé anh và Thương vẫn hay đuổi theo những chiếc lá bị gió cuốn tung lên trời, chới với chạy theo đón bắt trước khi chúng rơi xuống đất. Mãi nhìn theo những chiếc lá chơi vơi trên cao, màu trời pha những vết loang tím sẫm. Anh va phải Thương làm Thương đau điếng, ngã lăn ra đất. Tín vội vàng vứt hết những chiếc lá trên tay, đỡ Thương dậy, xuýt xoa xin lỗi.
Thương cười:
– Anh mất hết tiền rồi – họ gọi những chiếc lá là tiền.
Tín nhìn Thương:
– Anh không cần nó. Em có đau không?
– Không, em cho anh này.
Thương chia một nửa cho anh.
Anh lại khóc.
Bây giờ, Tín chỉ có một mình trong buổi chiều quạnh quẽ, hiu hắt. Anh về nhà lấy mùng mền, anh quyết định ngủ đêm tại nhà Thương. Anh tin rằng Thương sẽ về, ít nhất là trong giấc mơ. Anh muốn gặp lại Thương bằng mọi giá, bằng mọi cách.
Vứt đống chăn màn qua một góc phòng, anh đi qua phòng Thương.
Anh tìm trên tường, trên bệ cửa sổ, một dấu vân tay của Thương. Anh qua bàn trang điểm, ở đây không còn gì, kẻ trộm đã lấy đi hết. Anh căm thù kẻ trộm, thật nhẫn tâm, không để lại cho anh một chút gì – kỉ niệm của Thương.
Tín đi ra vườn, bước chân xiu vẹo. Anh tìm dấu chân Thương vẫn hay lang thang trong vườn với anh hoặc một mình. Biết đâu còn một dấu vết nào đó tình cờ in trên một khoảnh cát nào đó. Anh đến từng gốc cây, lần mò tìm kiếm, hi vọng Thương khắc tên mình trên đó để lại cho anh. Không có gì hết, anh tìm đến cây mai trồng ở giữa vườn. Cây mai này mỗi dịp xuân về anh và Thương tìm đếm những nụ hoa nhú lên mỗi ngày…và những bông mai vàng rực, mùi thơm dìu dịu đầy cành. Họ nhìn mai rồi nhìn nhau, niềm vui bở ngở: họ lớn lên một chút, Thương đẹp lên bội phần.
Tín nhìn thấy lủng lẳng trên cành mai một túi vải màu hồng. Anh thận trọng lấy chiếc túi xuống, mở dây buộc, lấy ra một lá thư và hai mảnh giấy xếp vuông vắn. Tín nhận ra hai mảnh giấy mà Thương dùng để bói vào cái đêm cuối cùng họ bên nhau. Tay anh run run khi nhìn thấy nét chữ của Thương – nét chữ tròn mềm mại:
“Anh thương nhớ,Ba em vẫn biệt vô âm tín. Mẹ quyết định đưa em về trú ngụ nhà cậu út ở Chu Lai. Anh nhớ tìm em khi về nghe. Em sẽ đợi anh dù bất cứ nơi đâu, có thể em sẽ ra đi. Mãi mãi nhớ anh.Em hôn anh thật nhiều.”
Tín ôm lá thư vào lòng, khóc nức nở. Anh chạy vào nhà, nằm vật ra trên đống chăn màn. Anh nằm như vậy rất lâu. Đêm xuống tự bao giờ – đêm dày đặc và ngột ngạt. Anh ra vườn men theo lối đi quen thuộc. Anh như Adam cô đơn trong vườn Địa Đàng tan nát.
Huỳnh Ngọc Tuấn
Kính gởi Luật sư Lưu Nguyễn Đạt.