1. Trường phái Cổ Điển trong Nghệ Thuật
Trường phái Cổ Điển được định nghĩa trong từ điển là trình độ cao nhất về Văn Chương và Nghệ Thuật, đặc biệt là phụ thuộc vào nền Văn Hóa Cổ Hy Lạp và Cổ La Mã. Danh từ Cổ Điển mang hàm ý rằng trong quá khứ, con người đã đạt tới sự tuyệt vời về nghệ thuật và ngày nay những công trình văn học, nghệ thuật liên quan tới truyền thống cũ đều được coi là cổ điển.
Các nghệ sĩ cổ điển trong thế kỷ 18 tại châu Âu đã không quan tâm tới cá tính hay các kinh nghiệm cá nhân như là sơ liệu nghệ thuật của họ. Một công trình nghệ thuật tự bản thân nó đã có sẵn cái đẹp, cái hay mà không cần tới sự diễn tả của bản ngã người nghệ sĩ trong khi các nghệ sĩ thuộc trường phái lãng mạn (romantic) lại coi Nghệ Thuật là một phương tiện để tự thể hiện. Trường phái cổ điển hướng về sự trong sáng của tư tưởng và vẻ đẹp của hình thể, coi trọng sự kiểm soát và kỷ luật nơi nghệ thuật, quan tâm tới tiềm năng trong cách diễn tả thuần lý, trong công phu gọt dũa tỉ mỉ và tầm nhận thức về vẻ đẹp lý tưởng. Tất cả căn bản của phong cách cổ điển đã khuyến khích người nghệ sĩ chú tâm vào các phẩm chất của trật tự, của sự thăng bằng và sự hòa hợp.
Về âm nhạc, sự phân chia rõ ràng giữa cổ điển và lãng mạn đã không có một mốc thời gian nhưng khi xét các khuynh hướng nghệ thuật của thế kỷ 18, các nhà phê bình cho rằng thế kỷ đó đã có những dấu nét đặc biệt, khác biệt với trào lưu nghệ thuật của thế kỷ sau.
Nghệ thuật kiến trúc của thế kỷ 18 mang các dấu ấn đặc thù, với các lâu đài nguy nga và các khu vườn rộng lớn, tất cả được xây dựng theo tỉ lệ cân đối, với các chi tiết trang hoàng tỉ mỉ. Vào giữa thế kỷ này, Vua Louis 15 của nước Pháp đã chủ xướng các lễ hội xa hoa tại Cung Điện Versailles, đồng thời các vương triều khác cũng ngự trị tại các quốc gia láng giềng: Frederic Đại Đế cai trị nước Phổ, Catherine là Nữ Hoàng của nước Nga và Maria Thérésa trị vì nước Áo. Tại châu Âu thời đó, giai cấp cai trị đã nắm quyền lực nhờ vào đặc quyền thừa kế. Xã hội của thời kỳ này tôn trọng quá khứ, đề cao truyền thống và hiện trạng được duy trì. Các nhà quý tộc đã coi trọng hình ảnh của các thần linh cổ xưa, đề cao thành tích của các vua chúa, các anh hùng hiệp sĩ vì đây là phản ánh của chính họ, của những gì quý phái, cao sang.
Do ảnh hưởng cổ điển, các nghệ sĩ cũng diễn tả những tư tưởng hướng về Hy Lạp và La Mã. Họa sĩ Jaques-Louis-David đã vẽ bức danh họa “Cảnh Chết của Socrates” theo cảm hứng từ nghệ thuật và văn hóa Cổ Hy Lạp. Các cuốn tiểu thuyết của Samuel Richardson, Henry Fielding, Laurence Stern và Tobias Smolett… đã chứa đựng các tình cảm trưởng giả, giống như thơ phú của Thomas Gray, Oliver Goldsmith và William Cowper.
Nhưng dưới ánh vẻ hào nhoáng của các vương triều và trong các xã hội mà quyền uy đã được coi như thiên mệnh, đang âm thầm các sức mạnh bộc phá, làm lung lay nền móng của các chế độ cai trị. Cuộc Cách Mạng Hoa Kỳ là một đòn mạnh đánh vào chủ thuyết thần quyền của các vị vua chúa, rồi Cuộc Cách Mạng Pháp đã làm rung chuyển toàn thể châu Âu. Thời kỳ cổ điển đã chứng kiến ngày tàn của các thể chế cũ và bình minh của châu Âu hiện ra với các biến đổi chính trị, kinh tế, nhờ đó quyền lực được chuyển từ giai cấp quý tộc sang giai cấp trung lưu. Chế độ tư bản đang bành trướng nhờ cuộc Cách Mạng Kỹ Nghệ với các tiến bộ về Khoa Học, Kỹ Thuật, nhờ năng lực hơi nước, đường xe lửa, các nhà máy, các hầm mỏ…
Vào giữa thế kỷ 18, nhiều phát minh khoa học đã ra đời chẳng hạn như máy se sợi của Hargreaves năm 1760, máy hơi nước của James Watt năm 1765, máy dệt của Cartwright năm 1785, máy cán bông gòn của Eli Whitney năm 1793… Bộ môn Khoa Học Thuần Lý đã có sự đóng góp của Benjamin Franklin tìm ra Điện Lực năm 1752, Priestly khám phá ra Oxygen năm 1774, Bác Sĩ Jenner hoàn chỉnh cách Chủng Ngừa năm 1796, nhà toán học Laplace đã tính toán cách vận hành của Vũ Trụ và pin Điện Cực được Alessandro Volta phát minh vào năm 1800. Sinh hoạt trí thức cũng có các đóng góp đáng kể như cuốn sách “Lịch sử nghệ thuật cổ” của Winckelman xuất bản năm 1764, Từ Điển Bách Khoa Pháp (1751-52) và Từ Điển Bách Khoa Britanica với ấn bản đầu tiên vào năm 1771.
Sinh hoạt trí thức của thời Cổ Điển như vậy đang đứng trước hai trào lưu đối nghịch. Một xu hướng là nghệ thuật cổ điển đang được tinh luyện trong đời sống nhưng cũng đang đi dần tới kết thúc, xu hướng kia là một cách sống mới đang vật lộn để chào đời.
Thế kỷ 18 còn được gọi là Thời Đại của Lý Trí (the Age of Reason). Các nhà triết học người Pháp như Voltaire, Diderot, Rousseau, Condorcet, d’Alembert … đã tạo nên Bộ Từ Điển Bách Khoa như một dụng cụ Khai Sáng, đã đề cao Lý Trí với mục đích tấn công vào nền trật tự đang hiện hữu trong khi giai cấp trung lưu chiếm dần các vị trí quan trọng trong cuộc nổi dậy.
Văn Hóa của thế kỷ 18 đã được đặt dưới sự bảo trợ của giới quý tộc vì Nghệ Thuật được coi là một thứ trang hoàng cho đời sống vương giả. Cuộc sống của các ông hoàng, các mệnh phụ được diễn ra nơi lâu đài, với các yến tiệc, các lễ nghi đòi hỏi tới sự lịch duyệt trong phong cách và vẻ đẹp trong kiểu mẫu. Các nghệ sĩ của thế kỷ 18 đã sống trong khung cảnh đó. Họ là những người phục vụ cho các vương triều, các ông hoàng bà chúa, để có được sự an toàn kinh tế và địa vị xã hội. Các nghệ sĩ vì thế đã sáng tác ra các tác phẩm theo đòi hỏi của giới quý tộc.
Về âm nhạc, các nhạc sĩ nam nữ thời đó sống nhờ vào các cung đình, họ là ca sĩ, nhạc công và giáo sư âm nhạc cho các gia đình quý tộc giàu có. Họ viết nhạc để phục vụ tôn giáo, hoặc soạn ra các bài thực tập âm nhạc dành cho nhạc sinh, hoặc sáng tác ra các bản nhạc để hát, để đàn trong các buổi giao tế xã hội của giới quyền quý.
Thời kỳ Cổ Điển của bộ môn Âm Nhạc có thể được coi là từ năm 1750 tới năm 1825 với các tác phẩm của bốn bậc Thầy tiêu biểu, thuộc trường phái Vienna là Haydn, Mozart, Beethoven và Schubert. Trong thời kỳ này, nghệ thuật Âm Nhạc đã kết nụ, nở hoa vì những thí nghiệm và khám phá, và các nhạc sĩ đã phải đứng trước ba thử thách, thứ nhất là thám hiểm vào phạm vi rộng lớn của hệ thống âm giai trưởng-thứ, thứ hai là làm hoàn chỉnh ngành âm nhạc tuyệt đối (the absolute instrumental music) và thứ ba là tận dụng các thể loại âm nhạc mới với các sonata đơn và kép, các trio, quartet, concerto, thể loại giao hưởng (symphony) và các loại nhạc thính phòng.
Nếu nói rằng các nhạc sĩ bậc thầy như Haydn, như Beethoven, thuộc trường phái cổ điển thì cũng chưa hẳn chính xác. Các nhạc sĩ thuộc trường phái Vienna đã thí nghiệm một cách táo bạo và không ngừng dùng các vật liệu âm nhạc trong tầm tay. Lúc đầu họ phải quy phục các nguyên tắc của các thể loại đã có từ trước, rồi về sau đã diễn tả tình cảm nội tâm qua các tác phẩm. Cũng vì thế các bản nhạc của Haydn hay của Beethoven vào thời kỳ đầu đã mang nhiều sắc thái cổ điển hơn, trong khi Schubert ở cuối giai đoạn lại mang màu sắc trữ tình. Cho nên danh từ Cổ Điển có thể bao hàm ý nghĩa của sự toàn hảo, sự huy hoàng của Âm Nhạc vì các bậc Thầy của thời đó đã trình bày, đã sáng tác ra các bản giao hưởng, concerto, sonata, trio, quartet mà sau này được coi là những mẫu mực không vượt qua được.
Âm Nhạc của trường phái Vienna còn có các giai điệu vừa lịch lãm, vừa ca ngợi, thường căn cứ vào các câu 4 nhịp đối xứng có đoạn kết rõ ràng nhờ đó âm nhạc dễ dàng thâm nhập vào tâm hồn thính giả. Các giai điệu cổ điển này vừa có thể dùng để ca hát, vừa dùng cho nhạc cụ, đã đi từng bước ngắn, nhẩy các quãng hẹp lại bám rễ vững vàng vào cung khóa (key). Sự trong sáng của bản nhạc được nổi bật nhờ các câu nhạc lặp lại và nhờ cách dùng thường xuyên các tiếp khúc (sequence) hay sự nhắc lại một mẫu câu nhạc bằng giọng cao hơn hay trầm hơn. Các câu nhạc vừa đối xứng, vừa cân đối nên dễ làm cho người nghe thưởng thức được phong vị của giai điệu.
2. Cuộc đời của nhạc sĩ Ludwig van Beethoven
Ludwig van Beethoven chào đời ngày 16 tháng 12 năm 1770 tại thành phố Bonn trong miền Rhineland nước Đức. Cha của Beethoven, ông Johan và ông nội, đều là các ca sĩ cung đình địa phương của ông hoàng Max Friedlich. Mẹ của Beethoven, bà Maria, là con gái của một người đầu bếp cung đình. Đây là một gia đình thiếu hạnh phúc vì người cha thường hay say rượu, nổi điên và đánh đập các con khiến bà Maria vẫn phải che chở Ludwig tránh khỏi các cơn hành hạ của người cha nghiện ngập.
Ngay từ thuở thiếu thời, Ludwig đã tỏ ra có năng khiếu về âm nhạc và ông Johan đã quyết định bắt con học nhạc để sau này khai thác như thần đồng Wolfgang A. Mozart. Ludwig đã bị cha nhốt vô phòng trong nhiều giờ để học đàn vĩ cầm và đàn dương cầm. Năm lên 6 tuổi, Ludwig đã biểu diễn âm nhạc trước thính giả nhưng đã không tạo được tiếng vang nào.
Mặc dù bị bạo hành bởi người cha, bị ép buộc phải học âm nhạc, Ludwig đã không thù ghét âm nhạc mà lại coi âm nhạc là một con đường giải thoát. Giáo sư dạy nhạc của Ludwig là nhạc sĩ đàn phong cầm của cung đình tên là Christian Gottlob Neefe. Theo ông Neefe, Ludwig không có năng khiếu kỳ diệu như Mozart nhưng cũng đã tỏ lộ một tài năng lớn lao. Ông Neefe đã nhờ Ludwig, khi đó 11 tuổi, làm nhạc sĩ trợ giúp đàn phong cầm để đàn các bản dạo khúc (prelude) và tẩu khúc (fugue) của J.S. Bach. Ludwig cũng sáng tác các bản nhạc đầu tiên vào năm 1783. Ngoài ra Ludwig còn làm trợ giáo dạy cho hai đứa trẻ của gia đình Von Breuning. Bà mẹ của gia đình này là một phụ nữ tử tế, có giáo dục cao nên đã giới thiệu Ludwig cho các nhân vật quan trọng trong thành phố.
Sống tại Bonn, một nhạc sinh thời đó chỉ có được kinh nghiệm về âm nhạc, còn muốn trở nên một nhạc sĩ độc tấu hay một nhà soạn nhạc, nhạc sinh đó phải đến thành phố Vienna là thủ đô của nước Áo và cũng là kinh đô âm nhạc của châu Âu thời bấy giờ. Năm 1878, Ludwig làm một chuyến du hành tới Vienna và đã có dịp dạo đàn cho Mozart nghe và có lẽ đã theo học nhạc sĩ tài danh này một thời gian ngắn vì Ludwig sau đó bị gọi về Bonn do mẹ chết. Từ nay, Ludwig phải lo cuộc sống cho gia đình gồm người cha say sưa và tuyệt vọng cùng hai người em trai.
Trong thời gian sống tại Bonn, Ludwig van Beethoven bắt đầu được nhiều người có danh vọng biết tới tài năng, đặc biệt là tài ứng tác (improvisation). Chàng thanh niên này quen biết được nhiều người quyền thế trong đó có Bá Tước Ferdinand Waldstein, một người thường giúp đỡ Beethoven và sau này là một người bạn suốt đời. Beethoven cũng có dịp bước vào sinh hoạt của giới quý tộc, tiếp xúc với văn chương và thơ phú của giới trí thức, đã có dịp đọc các tác phẩm của Shakespeare cũng như của các văn hào đương thời là Goethe và Schiller. Vào giai đoạn này, châu Âu đang tràn ngập tinh thần dân chủ của Cuộc Cách Mạng Pháp. Ngày 14-7-1789, dân chúng Paris nô nức đi phá ngục Bastille, giải thoát các tù nhân và diễn hành trên đường phố, phản đối phe bảo hoàng. Toàn thể nước Pháp khi đó đang sôi động với bản nhạc ái quốc La Marseillaise và với việc phòng thủ chống xâm lăng từ bên ngoài. Vài tháng sau, Vua Louis 16 bị dẫn ra pháp trường và bị chặt đầu, đồng thời một trung úy pháo binh tên là Napoléon Bonaparte bắt đầu xuất hiện trên chính trường của nước Pháp. Sự thể hiện tinh thần cách mạng và các hành động anh hùng của Napoléon đã khiến cho Beethoven bị xao động.
Trong phạm vi âm nhạc vào thời đó, Haydn đang ở đỉnh cao của danh vọng và Mozart đã chết trong nghèo khó vào năm 1791 và bị chôn cất vội vã trong khu nghĩa địa nghèo nàn của thành phố Vienna. Năm 1792, trong chuyến đi London, nhà soạn nhạc danh tiếng Joseph Haydn đã dừng chân tại Bonn và đã nghe một số bản nhạc của Beethoven. Haydn đã khuyên Beethoven nên tới Vienna để trau dồi âm nhạc đồng thời vị vương hầu của miền Cologne đã giúp đỡ tài chính cho Beethoven ra đi.
Tại Vienna, Beethoven đã học nhạc với Haydn cho đến khi vị nhạc sĩ này rời Vienna đi London vào năm 1794. Sau năm đó, Beethoven đã theo học ông Johan Schenk là một nhà soạn nhạc danh tiếng, chuyên viết các bản ca, rồi học Đối Điểm với ông Johan Georg Albrechtsberger là một tác giả viết sách về sáng tác âm nhạc. Nhạc sĩ Antonio Salieri, trước kia là môn đệ của Gluck, cũng chỉ dạy cho Beethoven về cách sáng tác nhiều giọng. Như vậy Beethoven đã được thừa hưởng những nhạc phong của Haydn, Mozart, hiểu rõ các nhạc thức cổ điển mà cho tới lúc đó, đã khá phong phú nhưng vẫn còn tiềm năng phát triển. Các hoàn cảnh bên ngoài, sức mạnh của tài năng bên trong đã giúp Beethoven biến đổi các di sản âm nhạc tiếp thu được thành những tác phẩm độc đáo, không hẳn là cổ điển, lại không thuần túy lãng mạn mà hàm chứa bên trong những nét đặc thù, khiến cho về sau này giới âm nhạc coi Beethoven như vị Vua Âm Nhạc xuất hiện giữa hai thế kỷ 18 và 19, ở giữa hai trường phái cổ điển và lãng mạn.
Các sáng tác âm nhạc của Beethoven đã tới với giới quý tộc mê âm nhạc như những mùa xuân. Ông đã được đón mừng bởi các gia đình danh giá và quyền lực của thành phố Vienna và tên của họ đã xuất hiện trên những tác phẩm âm nhạc như ông hoàng Lichnowsky, ông hoàng Lobkowitz, bá tước Razumovsky… Họ đã tặng quà và trả tiền rộng rãi cho các tác phẩm danh tiếng của Beethoven đồng thời cũng kính trọng ông và coi ông như ngang hàng, như một người bạn, khác hẳn với giới nhạc sĩ thời trước bị coi là gia công trong các gia đình quyền quý. Beethoven còn được sự hâm mộ của giới trung lưu lúc đó đang tiến dần lên các đẳng cấp xã hội, thêm vào đó là sự phát triển của các buổi hòa nhạc công cộng và sự xuất hiện của các nhà xuất bản. Vào tuổi 31, Beethoven đã viết: “Tôi có sẵn 6 hay 7 nhà xuất bản in các tác phẩm của tôi và còn có thể có nhiều hơn nữa. Họ không trả giá với tôi, tôi ra điều kiện và họ thanh toán”.
Trong khi danh vọng của Beethoven đang đi lên vào cuối thập niên 1790, nhà đại nhạc sĩ bị mất dần thính giác, một giác quan đối với ông tối cần thiết và được coi là hoàn hảo nhất. Trước kia, Beethoven là một người tự hào, độc lập và hơi kỳ dị, thì nay bệnh lãng tai đã biến đổi ông thành người đa nghi, dễ nóng giận. Beethoven bị điếc hoàn toàn vào cuối cuộc đời nhưng ông vẫn sáng tác và đã coi nghệ thuật âm nhạc là một vinh quang cuối cùng để vượt qua cuộc sống.
Beethoven đã sống độc thân, không hạnh phúc với hai người em là Johan và Karl. Hai người này thường hay cãi cọ với nhà nhạc sĩ. Karl chết vào năm 1815, để lại cho Beethoven đứa con trai 9 tuổi. Đứa trẻ này trở thành người coi sóc cho ông lúc tuổi già đồng thời cũng gây cho ông nhiều phiền não. Beethoven bị cảm nặng vào cuối năm 1826, bị sưng phổi rồi qua đời vào ngày 26-3-1827.
3. Các tác phẩm âm nhạc chính của Ludwig van Beethoven
Các nhạc phẩm của Beethoven dành cho dàn nhạc (orchestral music) gồm 9 bản giao hưởng (symphonies): số 1 (năm 1800), số 2 (1802), số 3 = Eroica (1803), số 4 (1806), số 5 (1808), số 6 = Pastoral (1808), số 7 (1812), số 8 (1812) và số 9 = Choral (1824), các bản Khai Khúc (overtures) kể cả bản Leonore (số 1,2,3) và bản Egmont.
Các bản Concerto (nhạc hòa tấu dùng cho một nhạc cụ và dàn nhạc) gồm 5 bản dành cho piano (số 5 = Emperor, 1809), 1 bản dành cho violin (1806) và 1 bản dành cho 3 đàn violin, piano và cello (1804).
Nhạc thính phòng gồm các bản hòa tấu 4 đàn dây (string quartets) Op.18, No.1- 6 (1789-1800), 1 bản hòa tấu 5 đàn (quintet), các bản sônát violin và cello (sonata), dạ khúc (serenade) và nhạc kèn thính phòng (wind chamber music).
32 bản sônát dành cho piano, gồm cả bản Op.13 = Pathétique (1798); Op.27, No.2 = Moonlight (1801); Op.53 = Waldstein (1804); Op.57 = Appassionata (1805).
1 nhạc kich (opera) = Fidelio (1805), nhạc đồng ca (choral music) gồm Missa Solemnis (1823), hơn 20 bộ Biến Khúc (variations) và nhiều bản Thanh Nhạc Cantata cùng nhiều bài hát khác.
Trong suốt cuộc đời của ông, Beethoven đã luôn luôn lạc quan và đặt niềm tin vào các giá trị đạo đức. Những điều này thường nằm trong các nhạc phẩm của ông với các niềm vui cuối cùng thường xuất hiện sau các nhạc vẻ (mood) đôi khi bi quan.
Beethoven đã dùng đến rất nhiều tập phác thảo (sketchbooks) nhờ đó người ta đã thấy ông soạn nhạc rất thận trọng, không ngừng xét lại các nhạc đề (theme), thay đổi các hình thức diễn tả cho đến khi ông vừa ý. Sự kỹ càng và khéo léo của Beethoven đã khiến cho mỗi nốt nhạc của ông hoàn hảo đến độ khó viết được theo cách khác, chẳng hạn như phần đầu của bản Giao Hưởng số 5 (the 5th Symphony) và trong bản Sonata dành cho piano Op.106.
Giai đoạn sáng tác đầu tiên của Beethoven bắt đầu từ cuối thập niên 1780 tới khoảng năm 1800. Các tác phẩm của ông trong thời kỳ này phản ánh ảnh hưởng của các vị thầy là Haydn, Mozart, Bach và Christian Neefe nhưng cũng đã bao gồm những giai điệu mạnh và cho thấy cá tính cẩn thận của nhà soạn nhạc.
Giai đoạn thứ hai về sáng tác được kể từ 1800 tới 1815 và được coi là xúc tích nhất. Beethoven đã viết các bản giao hưởng thứ ba tới thứ tám và các concerto… Ngày nay, âm nhạc của Beethoven đã trở nên quá quen thuộc với chúng ta trong các chương trình diễn tấu nhưng vào thời đại của ông, các nhạc phẩm đó đã gây ra nhiều sóng gió. Một số nhà phê bình âm nhạc thời đó cũng cho rằng khó có thể hiểu nổi cách diễn tả của Beethoven.
Beethoven đã làm phát triển và thay đổi các hình thái âm nhạc cổ truyền chẳng hạn như các bản giao hưởng. Bản giao hưởng số 3 với tên là Eroica, đã được Beethoven lúc đầu dành cho Napoléon, vị Tổng Tài thứ nhất của nền Cộng Hòa Pháp, là nhân vật tượng trưng cho sự anh hùng và giải phóng, nhưng khi Napoléon trở nên Hoàng Đế của nước Pháp, Beethoven đã bất bình và gạch bỏ danh dự đề tặng tác phẩm cho Napoléon. Sức mạnh và sự quý phái trong tác phẩm của Beethoven đã được mọi người nhận thức và tán thưởng, ngay cả khi ông còn sống.
Ở nhạc kịch Fidelio, Beethoven nhờ hứng khởi gây ra bởi câu chuyện theo đó một người vợ tận tụy và can đảm đã cứu chồng bị giam cầm vì bất công. Trong nhạc kịch này, Beethoven đã ca ngợi các ý tưởng tự do, các phẩm cách cá nhân và sự anh hùng đối với bạo quyền. Khi viết nhạc kịch Fidelio, Beethoven đã duyệt xét lại nhạc phẩm này hai lần cho đến khi ông vừa lòng, và ông cũng thấy rằng các đòi hỏi của việc sáng tác nhạc dành cho sân khấu đã không thích hợp với tài năng của ông.
Giai đoạn thứ ba cũng gồm nhiều nhạc phẩm quan trọng. Nhạc phẩm Missa Solemnis là một sáng tác tôn giáo linh động nhất với tầm quan trọng ngang hàng với bản giao hưởng số 9. Bản giao hưởng số 9, Choral Symphony, ca ngợi lý tưởng về tinh thần huynh đệ nhân loại (human brotherhood) nơi đó, mọi người đều là anh em và phần hợp ca là âm hưởng của tác phẩm Ode of Joy của Schiller. Trong các concerto, Beethoven đã phối hợp tính điêu luyện (virtuosity) với kiến trúc giao hưởng, và nghệ thuật âm nhạc của Beethoven đã tập trung vào đàn dương cầm khiến cho 32 Sônát (sonata) của ông được coi là Bộ Kinh Tân Ước của các nhạc sĩ dương cầm, trong khi Bộ Kinh Cựu Ước là tập nhạc The Well-Tempered Clavier của J. S. Bach.
Các nhạc phẩm của Beethoven trong giai đoạn 2 với các bí ẩn về âm sắc đã hấp dẫn và đã gây được các ảnh hưởng rất đáng kể tới các nhà soạn nhạc lãng mạn (romantic) của đầu thế kỷ 19, trong khi đó người đương thời chưa hiểu nổi các nhạc phẩm thuộc giai đoạn 3 của ông, một phần vì chúng rất khó trình diễn, lại đòi hỏi các phẩm chất mới của âm thanh, từ loại đàn dây tới đàn dương cầm. Tuy nhiên, các nhạc phẩm thời kỳ cuối của Beethoven đã tạo nên những tác động mạnh mẽ tới các nhạc sĩ của đầu thế kỷ 20, đặc biệt là Arnold Schoenberg và Béla Bartók.
Ludwig van Beethoven đã viết 9 bản giao hưởng so với 10 bản giao hưởng của Haydn và 40 của Mozart, nhưng nhạc bản của Beethoven dài hơn và rất khó trình diễn. Âm nhạc của Beethoven là cảm xúc trực tiếp chảy ra từ cá tính của người nhạc sĩ, vừa phong phú, vừa dữ dội, đôi khi lại hòa với sự buồn bã hay dịu dàng.
Ludwig van Beethoven là một trong các nhà sáng tác âm nhạc lớn nhất trong Lịch Sử, là nhân vật đã gây được ảnh hưởng rất sâu đậm về âm nhạc, đã mở đường cho các nhạc sĩ về sau dùng âm nhạc để tự do diễn tả các cảm xúc nội tâm.
© Phạm Văn Tuấn © www.Vietthuc.org