Tiếng cười ở cuộc sống bình thường
Đại Nam quốc âm tự vị của HùynhTịnh Của (1895) cũng định nghĩa “cười là để tỏ niềm vui, hay chê bai” như tự điển Pháp, nhưng còn thêm “cười để có ý gì”. Có lẽ vì “các ý gì” ấy mà Từ điển tiếng Việt (1991) gần đây, đã ghi thêm 47 chữ “cười”, mỗi chữ ghép với một trạng-từ (adverbe) hay túc-từ (complément) để trình bày cái dụng hay nguyên nhân của tiếng cười. Chẳng hạn như:
-
Vui một cách hồn nhiên thì cười rộ, cười ha hả, cười hì hì,
-
không bằng lòng thì cười nhạt,
-
hờn dỗi thì cười mát,
-
hằn học thì cười gằn,
-
che dấu ngượng nghịu thì cười gượng,
-
khinh miệt thì cười khà,
-
mỉa mai thì cười khẩy,
-
tự ép uổng để làm vừa lòng kẻ khác thì cười ruồi,
-
xí xóa một lỗi lầm thì cười trừ,
-
chê bai trong lòng thì cười thầm,
-
cười một cách vô duyên là cười nham nhở, vân vân …
Vì sao dân ta có “thói gì cũng cười” như thế? Phải chăng vì tiếng cười lệ thuộc vào sắc thái văn hóa, cũng như vào hoàn cảnh lịch sử của dân Việt chúng ta. Suốt bao nhiêu thế kỷ dưới các thời đô hộ, dân ta bị ngoại bang đàn áp một cách tàn bạo, bị quan lại, cường hào trong nước ức hiếp, tù đày, nếu gặp phải những trường hợp ứng xử gay cấn, khó khăn, một câu trả lời sơ suất có thể bị nguy hại, có khi còn bị thiệt mạng nữa là khác. Cho nên thay vì dùng lời nói để đối đáp, thì dân ta thường chỉ buông ra một tiếng cười, để che đậy mọi tình ý thầm kín của mình, khiến cho đối phương không thể vin vào đâu để bắt bẻ, buộc tội được.
-
Vạ ở miệng ra, bệnh qua miệng vào…
-
Thứ nhất là tội miệng mà…
-
Khôn thì ngậm miệng, khoẻ thì cắp tay.
Đi sâu vào cá tính sẽ làm trì hoản hiệu lực của hí kịch, vì lẽ phần sâu kín bên trong có thể cản ngăn sự phát sinh ra tiếng cười. Muốn chọc cười thi phải hạn chế sự quan sát, để chỉ nhìn vào phạm trù trung bình của tâm hồn mà thôi. Đi sâu hơn nữa vào “bên trong” đối tượng, hí kịch sẽ hóa thành bi kịch, tiếng cười hóa ra tiếng khóc.
Nhân vật trong các màn hí kịch trước hết là người đang đối thoại với ta. Câu khôi hài chọc cười là những câu trả lời trực tiếp cho một trong những người cùng hạng. Có thể đương sự vắng mặt, nhưng đối thoại với một người vắng mặt ở đây, là coi như người ấy đã nói, nên tác giả mới trả lời. Phần nhiều là trả lời chung cho cả một hạng người hay cho tất cả mọi người, bằng cách dẫn ra một lời nói thông thường, một dư luận, một lễ tục, một thành kiến, một câu thơ văn có sẵn, để lật ngược lại mà chế diễu, chọc cười.
Chẳng hạn như ở đoạn “Thúc Sinh gặp lại Kiều bị bán vào nhà Hoạn Thư” trong Đoạn Trường Tân Thanh của Nguyễn Du, độc giả có thể nhận thấy “ranh giới giữa tiếng cười và tiếng khóc thật mong manh”, như Beaumarchais đã từng cảnh giác: (5)
Trong lúc Thúc Sinh đi vắng, Hoạn Thư cho người đến đốt nhà, bắt cóc Kiều, đem một xác chết vô chủ ném vào lửa, rồi đem Kiều về “bán” cho Hoạn Thư làm nô tỳ. Thúc Sinh tưởng Kiều đã chết thật, buồn rầu quay về nhà vợ cả là Hoạn Thư. Thúc Sinh vừa bước vào nhà, Hoạn Thư bảo Kiều ra chào. Thúc Sinh và Kiều biết ngay là bị mắc mưu Hoạn Thư nhưng kẹt ở cương vị chủ và tôi đòi, nên không dám nhìn nhau. Thúc Sinh xúc động khóc. Hoạn Thư hỏi mới đi về, vì sao mà khóc?
Sinh rằng: Hiếu phục vừa xong,
Suy lòng trắc Dĩ, đau lòng chung thiên.
Khen rằng: Hiếu tử đã nên! (câu 1831-1862)
Khóc vì gái, mà nói dối là khóc vì thương nhớ mẹ đã qua đời. Qua lời chế diễu, mỉa mai của Hoạn Thư về “đạo lý trong chữ hiếu”, cái bi kịch nơi lòng Thúc Sinh đã chuyển thành một màn hài kịch đối với người đọc Hướng quan sát nhằm vào một đặc tính chung của “hạng người sợ vợ”: vì quá sợ (vợ) nên đem cái chết thiêng liêng của mẹ mình ra “đỡ đòn” cho một cô gái giang hồ. Ngày xưa, chúng tôi đã từng thấy các cụ, khi đọc đến mấy câu nầy, liền vỗ đùi, phá lên cười … nhưng tiếng cười bỗng nghẹn lại, khi các cụ đọc tiếp đến các câu đi sâu vào tâm tình của chàng Thúc hay của nàng Kiều:
… Sinh càng như dại, như ngây,
Giọt dài giọt ngắn, chén đầy, chén vơi.
Ngảnh đi, chợt nói, chợt cười,
Cáo say, chàng đã tính bài rút lui. (câu 1839-1842)
… Bốn dây như khóc như than,
Khiến người trên tiệc cũng tan nát lòng!
Cùng trong một tiếng tơ đồng,
Người ngoài cười nụ, người trong khóc thầm! (1853-56)
Khi Trần Tế Xương mượn lời chúc năm mới:
Bắt chước ai ta chúc mấy lời,
Chúc cho khắp hết cả trên đời
Vua, quan, sĩ, thứ, người muôn thuở
Sao được cho ra cái giống người!
Hoặc: … Nào có ra chi lũ hát tuồng,
Cũng hò, cũng hét, cũng y uông!
Dẫu rằng dối được đàn con trẻ,
Cái mặt bôi vôi nghĩ cũng buồn!
Xưa bên Đông có phường chèo trọ,
Đang nửa đêm với vợ chuyện trò:
“Rằng ta thường làm quan to,
“Sao người coi chẳng ra trò trống chi?”
Vợ giận lắm mắng đi, mắng lại:
“Tuổi đã già sao dại như di? (mọi rợ)
“Nửa đêm ai chẳng biết chi,
“Người ta biết đến, thiếp thì hổ thay!
“— đời chỉ có hai điều sợ:
“Sống chết người quyền ở trong tay,
“Thế mà chàng đã chẳng hay,
“Còn ai sợ đến thứ nầy nữa chăng?
“Vả chàng cũng lằng nhằng túng kiết,
“Cuộc sinh nhai chèo hát qua thì.
“Vua chèo còn chẳng ra gì,
“Quan chèo bôi nhọ khác chi thằng hề!”
-Xuân tóc đỏ (trong Số đỏ của Nguyễn Trọng Phụng): hạng người xu thời, dùng mánh khoé lừa bịp mà làm giàu, được nổi danh thi sĩ, rồi được liệt vào hàng anh hùng cứu quốc.
-Lý Toét, Xã Xệ, Bang Bạnh: hạng lý hương hủ lậu, ngờ nghệch, vân vân…
Mặt khác, chủ đích của cái cười là chế diễu và “sửa đổi”, do đó cũng cần làm sao cho hiệu lực của cái cười bao gồm càng nhiều đối tượng, càng có nhiều “tiếng dội” (écho, để dùng lại một từ của Henri Bergson trong Le rire) vang rộng trong xã hội, phổ biến khắp nơi trong quần chúng.
Những tiếng cười, cũng như những bức hí họa, là những sáng tạo nghệ thuật nhằm giải trí một cách vô tư, đem lại sự vui vẻ thoải mái cho con người, song tiếng cười (hí kịch) lại không giống các môn nghệ thuật khác, là có hậu ý chế diễu để sửa đổi hoặc trừng trị con người trong xã hội, cho nên hài hước ở đây là một loại nghệ thuật phần nào thiên về nhân sinh, tức là đứng giữa nghệ thuật thuần túy và đời sống xã hội và thường xuyên biến đổi theo những xung động của xã hội.
Nhìn chung, tiếng cười trong chính nghĩa không phải chỉ là khí giới của kẻ yếu để đương đầu với đối phương lớn mạnh hơn mình, mà còn là một trợ lực, một vũ khí văn hóa có khi mạnh hơn mọi sức mạnh vật chất.
Tiếng cười buồn dí dỏm
Nhà văn trào phúng phần nhiều chỉ thấy những lố lăng trong người khác xung quanh mình, chớ ít khi tìm ra được những lố lăng trong chính con người của họ. Vì chúng ta thường không chịu thoát ra khỏi ý thức của bản thân, để đứng vào địa vị khách quan mà quay lại nhìn mình. Nhưng khi kẻ bị cười không phải là một tha nhân, mà lại là chính tác giả tự cười mình, thì tiếng cười lại có tính cách dí dỏm, mà đặc điểm là bi, hài lẫn lộn theo cấu trúc thông thường của tiến trình sân khấu kịch trường. Tiếng cười dí dỏm của dân Việt không giống tiếng cười của các dân tộc khác ở chỗ đã hướng nhiều vào chính mình, tức là tự trào, tự cười mình. Tiếng cười tự trào ấy nhẹ nhàng, mà mỉa mai châm chọc, ngụ ý vừa tự phê phán, vừa tự biện minh chửa thẹn hoặc tự hào.
Trong con người trí tuệ của nhà văn hài hước dí dỏm, có một phần nhà thơ, với ít nhiều tình cảm không kém đậm đà.
Có thể nói tiếng cười dí dỏm xuất hiện như những màn hí kịch, một cách kín đáo, với một thoáng buồn phớt qua, đến nỗi khi khán giả vừa nhận diện được thì màn kịch cũng vừa hạ xuống.
Một số tác giả vào buổi giao thời ở cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, đã dùng thơ văn để tự cười mình. Trong bài Tự trào, Nguyễn Khuyến có mấy câu:
Cũng chẳng giàu mà cũng chẳng sang,
Chẳng gầy, chẳng béo, chỉ làng nhàng.
Cờ đương dở cuộc, không còn nước,
Bạc chửa thâu canh, đã chạy làng.
Mở miệng nói ra, gàn bát sách,
Mềm môi chén mãi, tít cung thang.
Nghĩ mình lại gớm cho mình nhỉ,
Thế cũng bia xanh, cũng bảng vàng.
Câu 3, 4 ngụ ý về quốc sự: Đánh nhau với quân Pháp đang dở dang (dở cuộc, chửa thâu canh) mà đã bị lâm vào thế bí, chịu đầu hàng (không còn nước, đã chạy làng). Câu 5, 6 chỉ về tác giả: Suốt ngày chỉ ăn nói gàn dở, rượu chè say sưa (mấy chữ “bát sách”, “thang” là tên của 2 con bài tổ tôm; một tiểu xảo để chọc cười). Hai câu chót, tác giả tự cười mình không xứng với học vị tam nguyên, tên ghi bảng vàng bia đá. Tiếng cười ở đây dí dỏm, mà phảng phất tâm sự buồn tủi của một hiển Nho, một đại thần, về cái bất lực của mình trước nạn nước mất, nhà tan:
Sách vở ích gì cho buổi ấy,
Áo xiêm nghĩ lại thẹn thân già!…
… Ơn vua chưa chút đền công
Cúi trông thẹn đất, ngẩng trông thẹn trời !
Về sau, Trần Tế Xương đã tự cười về thân phận của mình:
phố hàng Nâu có phổng sành,
Mặt thì lơ láo, mắt thì nhanh.
Vuốt râu nịnh vợ :” Con bu nó”,
Quắc mắt khinh đời : “Cái bộ anh!”
Bài bạc kiệu cờ, cao nhất xứ,
Rượu chè, trai gái, đủ tam khoanh.
Thế mà vẫn nghĩ rằng ta giỏi,
Cứ việc rong chơi chẳng học hành.
Vùng đất Sơn Tây nẩy một ông,
Tuổi chửa bao nhiêu văn rất hùng.
Sông Đà, núi Tản ai hun đúc?
Bút Thánh, câu Thần sớm vải vung.
Chữ chữ nôm nôm, nào kém cạnh,
Khuyên khuyên điểm điểm, có hay không?
Bởi ông hay quá, ông không đỗ,
Không đỗ ông càng tốt bộ ngông.
Một bất công lớn nhất ở chế độ phụ quyền là tục đa thê: “Trai năm thê bảy thiếp, gái chính chuyên một chồng”. Nhưng ở thời Nho giáo phong kiến, nếu có người đàn bà nào lên tiếng trực tiếp chỉ trích, chống đối, thì không thể nào khỏi bị ghép vào tội “dâm loạn”. Cho nên họ chỉ có thể mượn những lời nửa đùa nửa thật để tự chế diễu: đem cái tội mà người ta gán cho mình, thậm xưng lên, phóng đại ra một cách quá đáng, để chọc cười, theo lối nói lẫy, cho đã nư, đã tức. Đồng thời cũng để gián tiếp châm biếm, chống đối cái lạm quyền phi lý, cái quan niệm hẹp hòi, lố lăng về hai chữ “tiết trinh” của bọn đàn ông:
Chữ trinh đáng giá nghìn vàng,
Từ anh chồng cũ đến chàng là năm.
Còn như yêu vụng dấu thầm,
Họp chợ trên bụng đến trăm con người.
… Hai tay cầm hai quả hồng,
Quả chát phần chồng, quả ngọt phần trai.
Đêm nằm vuốt bụng thở dài,
Thương chồng thì ít, thương trai thì nhiều.
Và cũng để tự chế diễu cái tính lẳng lơ hoa nguyệt mà khi người chồng hay ghen bóng, ghen gió đem vu khống cho mình:
…Anh đánh thì tôi chịu đòn,
Tánh tôi hoa nguyệt mười con chưa chừa.
Anh đánh thì tôi xin thưa,
Tánh tôi hoa nguyệt chẳng chừa được đâu !
Phụ nữ ngày xưa còn dùng cách tự chế diễu để tố cáo, chống đối tục lệ bất nhân buộc người đàn bà chồng chết phải thủ tiết, không được làm lại cuộc đời của mình theo ý muốn:
Hỡi thằng cu lớn, cu bé, cu tí, cu tị, cu tỉ, cu ti,
Con dậy, con ăn, con ngủ, con bú với bà,
Để mẹ đi xuất giá kiếm thêm một và đứa em
Kể từ ngày bố con gục đi, bố con thác đi, bố con chết đi,
Lòng mẹ đây nó vẫn còn thèm,
Mẹ xem quẻ bói nói, nó vẫn còn có đàn em ở trong bụng nầy.
Con ra, con gọi chú con vào đây.
Để mẹ trao trả cái cơ nghiệp nầy, mẹ mới bước đi.
Mẹ nào có dám tiếc gì!
Và cuối cùng, khi thông cảm được với tâm trạng đau khổ, với nguyện vọng tha thiết và lời kêu van não nuột của góa phụ, tiếng cười hẳn có thể biến thành tiếng khóc chăng!
Ngày sau con tế ba bò,
Sao bằng lúc sống con cho lấy chồng! (6)
Sống trong suốt bao nhiêu thế kỷ bị đô hộ áp bức, nên trong tiếng cười của con người Việt Nam đã lẫn lộn bao tình tự vui buồn, bi hài hổn tạp, đến nỗi ông cha chúng đã từng than lên:
Khi vui muốn khóc, buồn tanh lại cười.
Tiếng cười trong đời sống dân Việt
Võ Thu Tịnh
CHÚ THÍCH
(1)- Le rire est le propre de l’homme (Rabelais)
(2)- Lê Văn Siêu, Văn minh Việt Nam, Saigon 1955, tb HK, tr. 92.
(3)- Xem bài số 7, Triết lý dân tộc Việt Nam, trên đây.
(4)- Henri Bergson, Le rire, P.ỤF., Paris 1990, tr. 128-130 (Le rire est avant tout une correction. Fait pour humilier. La société se venge par lui des libertés qu’on a prises avec elle.[…] A ces impertinences, la société réplique par le rire quiest une impertinence plus forte encore).
(5)- Beaumarchais: Le frontière est fragile entre la comédie et la tragédie.
(6)- Trích từ bài số 3, Tình nghĩa vợ chồng, trên đây.
(7)- Theo Lâm Ngữ Đường, The importance of living, đoạn dẫn nhập.