Tướng Giáp sinh năm 1911, năm nay 99 tuổi. Ông đã vượt xa tuổi cổ lai hy và sẽ đạt tuổi một trăm trong vòng một năm nữa, hay đã đạt rồi tùy theo cách tính tuổi ta hay tuổi tây, một tuổi rất hiếm người có thể đạt được. Gia dĩ từ lâu ông đã quan tâm đến, nếu không nói là theo, đạo Phật. Trong số các nhà sư ông tiếp xúc có cả Thiền Sư Thich Nhất Hạnh. Vì vậy khi lựa chọn đề tài này tôi không thấy ngại là viết về một người còn sống mà lại nói về cái chết sắp tới của người ấy, nhất là khi người ấy là một nhân vật quan trọng được nhiều người ngưỡng mộ nhưng cũng không thiếu người thù hận. Không những thế, qua biến cố bâu-xít 2009, ông đã đứng về phía dân tộc và đất nước Việt Nam lên tiếng trở lại, dù cho tiếng nói của ông chẳng được những người kế vị ông và các đồng chí còn sót lại của thời các thập niên bốn mươi, năm mươi của thế kỷ trước của ông lắng nghe và lưu tâm cứu xét. Con chim trước khi chết tiếng kêu bi thương, người ta trước khi chết lời nói lành.
Tướng Giáp đã nói lên lời nói lành cho tương lai của nhiều thế hệ sắp tới, nói riêng, và cho sự tồn vong của cả đất nước và dân tộc Việt Nam, nói chung, dù đó là theo quan điểm của một người Cộng Sản cố hữu của ông. Điều đáng tiếc là cái nhìn về sự tồn vong của đất nước và của dân tộc Việt Nam trước hiểm hoạ đến từ phương Bắc này đã tới với ông quá muộn màng. Lẽ ra ông phải nhận ngay ra nó từ đầu thập niên năm mươi khi ông còn chỉ huy chiến dịch Đông Bắc trong cuộc Chiến Tranh Đông Dương Lần Thứ Nhất (1946-1954) và trong những năm kế tiếp. Phải chăng ở thời đó ông chỉ có tầm nhìn ngắn hạn, nhất thời thay vì tầm nhìn chiến lược lâu dài. Lý do là vì bản chất con người của ông là Cộng Sản quốc tế y hệt như con người của lãnh tụ của ông là ông Hồ Chí Minh. Phản ứng của ông khi ông tranh luận gay gắt với Tướng Trung Cộng Trần Canh chỉ là phản ứng chốc lát của một thanh niên Việt Nam tuy cũng là Cộng Sản nhưng vẫn còn yêu nước nhưng nhất thời và đơn lẻ? Nó đã không tồn tại được trước tham vọng quá lớn về một võ nghiệp huy hoàng với giấc mơ trở thành một Napoléon của Á Châu mà ông đã từng ấp ủ từ ngày còn đi học và đi dạy. Mào đầu dài dòng nhưng những gì tôi vừa viết ra không phải là mục tiêu chính của bài này.
Mục tiêu chính của tôi là nhân dịp này nhận định rõ hơn về vai trò và sự đóng góp vô cùng quan trọng của Võ Nguyên Giáp trong lịch sử Việt Nam thời giữa thế kỷ trước, đặc biệt là vào sự thiết lập và củng cố chính quyền Cộng Sản Việt Nam trong những năm đầu của chính quyền này cũng như vai trò của ông trong việc diệt trừ các đảng phái đối lập và việc đưa đất nước và dân tộc Việt Nam đến cuộc chiến tranh kéo dài cả ba chục năm trời với hàng triệu người thương vong. Tưởng cũng cần phải biết là Đại Tướng Giáp hiện là Chủ Tịch Danh Dự của Hội Khoa Học Lịch Sử Việt Nam nên việc làm sáng tỏ những gì cần phải làm sáng tỏ về một giai đoạn của lịch sử nước nhà khi ông còn có thể làm sáng tỏ được phải là điều một người như ông phải mong đợi và phải coi là có trách nhiệm phải làm. Rào trước đón sau hơi nhiều, bây giờ người viết xin được vô đề với một chú thích thêm là vì đây là một bài báo mang thời gian tính nhằm vào quảng đại độc giả nên người viết không kèm theo những cước chú vì thiết nghĩ nhất thời không cần thiết. Người viết sẽ liệt kê đầy đủ khi có dịp viết lại.
Phải nói ngay là trong bài này người viết sẽ không đề cập tới sự nghiệp quân sự của Võ Nguyên Giáp như một danh tướng của Cộng Sản Việt Nam mà còn là của thế giới, một đề tài đã được quá nhiều người, Việt Nam cũng như ngoại quốc, viết rồi; đồng thời chính ông cũng đã viết dù là tự tay hay qua các thuộc cấp. Sự nghiệp quân sự này đã che lấp những công lao khác mà ông đã đóng góp cho Đảng Cộng Sản Việt Nam trong những năm bốn mươi của lich sử đảng này. Bài này do đó sẽ chú trọng vào những năm đầu của thời kỳ cầm quyền của ông với tư cách là Bộ Trưởng Bộ Nội Vụ trong Chánh Phủ Lâm Thời của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa của Hồ Chí Minh và sau đó là Chủ Tịch Quân Sự Ủy Viên Hội trong Chính Phủ Liên Hiệp Quốc Gia với Hồ Chí Minh làm Chủ Tịch và Nguyễn Hải Thần làm Phó Chủ Tịch sau đó là Bộ Trưởng Bộ Quốc Phòng trong Chính Phủ Cải Tổ tháng 11 năm 1946. Đây là khoảng thời gian ít được người ta chú ý nhưng vô cùng quan trọng vì nó tương xứng với thời kỳ đầu của chế độ Cộng Sản ở Việt Nam trước và sau khi Việt Minh cướp được chính quyền. Trong thời gian này Võ Nguyên Giáp đã đóng vai trò then chốt trong nhiều sinh hoạt khác nhau, từ chính trị, hành chánh đến an ninh, quân sự và luôn cả ngoại giao nữa. Không có ông Việt Minh khó có thể giữ được chính quyền sau ngày 19 tháng 8 năm 1945 và không có ông chưa chắc cuộc chiến Đông Dương Lần Thứ Nhất đã xảy ra.
Những cuộn dây thừng của các đội viên tự vệ
Trước hết là thời gian trước khi Việt Minh cướp chính quyền, theo ngôn ngữ của người Việt Quốc Gia, hay trước ngày khởi nghĩa, theo ngôn ngữ của người Cộng Sản. Võ Nguyên Giáp là người đã xây dựng nên những đội tự vệ ở các xã miền núi hay những đội võ trang tuyên truyền đầu tiên của Việt Minh sau đó. Câu hỏi được đặt ra là tại sao lại võ trang? võ trang để chống Nhật hay chống Pháp hay võ trang để khủng bố tinh thần của những người Việt Nam, đối tượng chính của công tác tuyên truyền, để bắt buộc họ phải theo Việt Minh, nếu không thì sẽ bị bắt trói và “beng đầu”? Mục tiêu thứ ba đã được nhiêu người coi là chính vì chuyện dọa dẫm, ám sát, bắt cóc, thủ tiêu… đã xảy ra rất nhiều và đã được Bác Sĩ Nguyễn Xuân Chữ, người được coi là đã thay thế Khâm Sai Phan Kế Toại ngày Việt Minh cướp chính quyền ở Hà Nội, nói tới như là một trong những nguyên nhân của sự thành công của Việt Minh trong biến cố 19 tháng 8 năm 1945. Nó cũng được Nguyễn Tường Bách kể lại trong hồi ký của ông này qua lời của đe dọa mà Dương Đức Hiền thuộc Đảng Đân Chủ nói với ông Bách và nhà văn Khái Hưng. Điều này phù hợp với những gì Tướng Giáp viết trong hồi ký của ông, trong đó ông nói tới “những cuộn dây thừng” mà mỗi đội viên tự vệ bắt buộc phải có để “bắt Việt gian”. Phải chăng chính sách khủng bố ở Việt Nam bằng cách gán cho nạn nhân hai tiếng Việt gian và sau này là phản động, đã bắt đầu ngay từ những năm này và Võ Nguyên Giáp là người đầu tiên thực hiện theo những kinh nghiệm của Nga hay của Tàu qua những cuốn sách nhỏ in li-tô mà tác giả hay dịch giả là Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng và Võ Nguyên Giáp? Điều nên nhớ là sau này, trong những năm đầu của Việt Nam Cộng Hòa ở miền Nam, thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm, chủ trương thủ tiêu, ám sát lại được những người Cộng Sản tiếp tục thực hiện hướng vào những người đứng đầu các xã ấp với hơn 800 viên chức bị sát hại trong năm 1957, sau đó chỉ riêng trong năm 1961 con số này đã tăng lên tới trên 4.000. Sau nông thôn là các thành thị và ngay ở thủ đô Saigon và Tết Mậu Thân ở Huế. “Sát nhất nhân vạn nhân cụ” tới một mức nào đó đã được Việt Minh áp dụng để cướp chính quyền năm 1945 vì nó đã làm tê liệt rồi tan rã guồng máy hành chánh và an ninh của chánh phủ Bảo Đại-Trần Trọng Kim ở khắp nơi trong nước, đồng thời giúp cho Việt Minh dùng đám đông học hành kém cỏi và tính tình nông nổi để diệt trừ đối lập.
Một gia thế và một quá trình học vấn thiếu minh bạch
Cũng thuộc giai đoạn khởi đầu cho sự nghiệp của Tướng Giáp này, gia thế của ông cũng như những chi tiết liên hệ tới ông hồi ông còn đi học, kể cả việc ông học luật ở Hà Nội, đối với một người bình thường là những gì thân yêu luôn luôn được họ tưởng nhớ hay nhắc đến, đã bị ông ít khi hay hầu như tránh né không đề cập tới. Một thí dụ điển hình là ông đã học tới đâu ở trường luật. Các tác giả viết về ông đã nói khác nhau. Người nói ông đã đậu tiến sĩ kinh tế, người nói ông đậu cử nhân luật năm 1937, rồi tiến sĩ năm 1938, người nói ông chưa học xong cử nhân, người nói ông mới học xong năm thứ hai, sau đó thi chứng chỉ luật hành chánh để sửa soạn ra làm tri huyện nhưng bị rớt và vì mộng làm quan của ông không thành nên ông đã dứt khoát, quyết định từ bỏ tất cả theo Cộng Sản qua đại diện của đảng này là Hoàng Văn Thụ để cùng với Phạm Văn Đồng sang Tàu vào năm 1940, mở đầu một giai đoạn mới trong đời mình. Cũng nên để ý là trong thời gian ở Hà Nội này, Võ Nguyên Giáp chưa có một nghề chuyên môn và một việc làm nhất định. Việc dạy ở trường Thăng Long của ông chỉ là tạm thời và bán thời gian. Ông đã phải nương nhờ rất nhiều vào Đặng Thai Mai, kể cả ở nhà ông này để sống qua ngày. Phải chăng vì vậy nhiều người đã dùng thành ngữ “cầu bơ, cầu bất” để nói về ông lúc đó. Trong hoàn cảnh như vậy, chuyện ông học luật rồi lựa thi luật hành chánh để ra làm tri huyện có lý do của nó và nếu ông đậu thì cuộc đời của ông đã đổi khác và lịch sử Việt Nam cũng đã có thể đổi khác. Người ta sẽ có một ông Huyện Giáp vô danh của đầu thập niên 1940 thay vì một Bộ Trưởng Nội Vụ Võ Nguyên Giáp trong Chính Phủ Lâm Thời Hồ Chí Minh hay một Đại Tướng Võ Nguyên Giáp về sau này, y hệt trường hợp của Hồ Chí Minh khi ông này làm đơn xin vô học trường Thuộc Địa của Pháp non ba chục năm trước, năm 1911. Điều nên biết thêm là, theo một vài tác giả, Sinh Viên Võ Nguyên Giáp thích môn kinh tế học và không thích luật hành chánh. Sau này các thày dạy hay giám khảo về kinh tế học của ông như Grégoire Khérian, Gaeton Pirou… đều cho biết là ông rất xuất sắc về môn này. Tuy nhiên, khác với nhiều người khác, đặc biệt là Hồ Chí Minh, Võ Nguyên Giáp, luôn luôn ăn mặc chỉnh tề, lúc nào cũng sơ-mi trắng, cổ thắt ca-vát, mình mặc veston và quần mầu nhạt, đầu đội mũ dạ, chân đi giầy…như một công chức cao cấp, kể cả khi ở chiến khu, lúc gặp các sĩ quan Mỹ của cơ quan OSS, bên cạnh Hồ Chí Minh mặc quần soọc, áo sơ-mi nhầu nát, chân di dép có quai. Lối ăn mặc này đã được những người ngoại quốc gặp ông chú ý và miêu tả và đã được ông giữ rất lâu về sau này, ít ra là cho đến khi ông được phong quân hàm đại tướng. Sau bộ đồ Tây là bộ quân phục đại tướng, buổi đầu là kaki màu cứt ngựa của bộ đội và cuối cùng là lễ phục màu trắng, thật trắng là thẳng nếp với đầy đủ phù hiệu và huy chương mỗi khi xuất hiện hay in trên bìa sách, kể cả khi chỉ là để được phỏng vấn. Phải chăng lối ăn mặc này, cộng thêm với những căn bản giáo dục đại học và cuộc sống trí thức, tiểu tư sản bên cạnh sự thành công quá lớn của ông đã khiến cho ông bị những thành phần lãnh đạo khác không ưa và đã cản bước tiến của ông trong vai trò lãnh đạo Đảng Cộng Sản Việt Nam, dù cho ông là người có khả năng nhất và ngay từ đầu đã đóng góp nhiều nhất cho đảng này. Phải chăng cũng vì vậy mà ông đã ít khi, nếu không nói là không bao giờ đề cập tới thời còn đi học của ông, chưa kể tới mối liên hệ giữa ông và Louis Marty, trùm mật thám Pháp, người đã đỡ đầu và ông giúp ông hoàn tất bằng tú tài I, rồi vô Trung Học Albert Sarraut để lấy nốt bằng tú tài II Tây, thay vì trường bảo hộ và tú tài bản xứ, và vào trường Luật như đda số các thanh niên Việt Nam khác.
Xây dựng, củng cố chính quyền Việt Minh và diệt trừ đối lập
Sau ngày 19 tháng 8 năm 1945, Võ Nguyên Giáp được cử làm Bộ Trưởng Bộ Nội Vụ trong Chính Phủ Lâm Thời do Việt Minh thành lập với Hồ Chí Minh làm chủ tịch kiêm bộ trưởng ngoại giao. Ở địa vị này ông đã giúp chính quyền mới củng cố được vị thế của mình từ trung ương đế địa phương bằng cách qui tất cả về một mối, vào lúc từ Hồ Chí Minh đến các bộ trưởng và các nhà lãnh đạo Cộng Sản khác mới chân ướt chân ráo về Hà Nội sau khi cướp được chính quyền trong tình trạng tất cả đều “chưa quen với kỹ thuật hành chánh”, theo nhận định của chính Hồ Chí Minh. Võ Nguyên Giáp, với kiến thức của một giáo sư sử-địa mà ông học được từ các cuộc cách mạng khác nhau trên thế giới trước đó, nhất là Cách Mạng Pháp, về luật hành chánh mà ông học được ở trường luật để ra làm tri huyện, với trí thông minh, lòng cương quyết và nhiệt thành đến độ tàn bạo của ông, đã hoàn thành được trách nhiệm của mình, một trách nhiệm không phải chỉ là của một bộ trưởng bộ nội vụ mà là của một phó thủ tướng đặc nhiệm nhiều bộ khác nhau, chưa kể vai trò ngoại giao với người Mỹ, nguời Pháp và luôn cả các tướng Tàu, một cách toàn hảo. Dưới sự điều động của ông và của hai cộng sự viên thân cận nhất của ông là Hoàng Minh Giám và Hoàng Hữu Nam, hệ thống hành chánh thời quân chủ cũ với các tổng đốc, tuần phủ, bố chánh, án sát, tri phủ, tri huyện, chánh phó tổng, lý trưởng, xã trưởng… đã chính thức bị bãi bỏ, thay thế bằng các ủy ban hành chánh, ủy ban nhân dân, sau đó uỷ ban hành chánh, kháng chiến với các chủ tịch, các tỉnh ủy, huyện ủy, xã ủy vân..vân…Biến cố 19 tháng 8 hay Việt Minh Cướp Chính Quyền, mà nhiều người thận trọng không muốn gọi là cách mạng sau ngày 2 tháng 9 đã chấm dứt và một cuộc cách mạng đã thực sự bắt đầu qua sự bãi bỏ và thay thế trong tổ chức và trong mọi sinh hoạt thuộc phạm vi hành chánh này. Tất cả đã không còn đảo ngược được nữa, kể cả về sau trong các vùng Quốc Gia dưới thời Quốc Trưởng Bảo Đại hay ở miền Nam dưới chế độ Cộng Hòa. Hệ thống quan lại với guồng máy vận hành và lối sống của thời quân chủ của nó – mà nhiều người đã sai lầm gọi là thời phong kiến cho phù hợp với luận thuyết về lịch sử của chủ nghĩa Mácxít – đã hoàn toàn trở thành của quá khứ. Tuy nhiên, sự thay thế hệ thống hành chánh cũ bằng một hệ thống hành chánh mới qua tổ chức kể trên chưa đủ. Nó cần phải có một nguồn nhân sự mới có đủ khả năng về kiến thức, về tư cách và đạo đức đi kèm. Nguồn nhân sự này hoàn toàn không có hay không đủ nhất là ở cấp cơ bản để thay thế cho các tri phủ, tri huyện và các tổng lý thời xưa ở các địa phương. Lợi dụng lúc hỗn quân, hỗn quan người ta đã tìm cách để trả tư thù, sách nhiễu của cải, tiền bạc, cướp vợ, cướp con của nhau, vu nhau là Việt gian để giết hại bằng cách này hay cách khác… đã xảy ra rất nhiều đến độ Hồ Chí Minh, trong Thư gửi cho Ủy Ban Nhân Dân các Kỳ, Tỉnh, Huyện và Làng đề ngày 17 tháng 10 năm 1945 phải nêu ra sáu điều sai phạm trầm trọng mà các cán bộ Việt Minh đã phạm phải nhằm sửa sai. Đó là trái phép, cậy thế, hủ hóa, tư túng, chia rẽ và kiêu ngạo trong đó trái phép được ghi lên đầu và được chỉ rõ là “vì tư thù, tư oán mà bắt bớ và tịch thu tài sản của dân làn cho dân oán than”. Câu hỏi được đặt ra là có bao nhiêu người đã bị hàm oan và chết oan trong thời gian mấy tháng sau ngày 19 tháng 8 và trong thời gian chiến tranh sau này ngoài những nhân vật tên tuổi như Phạm Quỳnh, cha con Ngô Đình Khôi, Tạ Thu Thâu, Giáo Chủ Huỳnh Phú Sổ của Phật Giáo Hòa Hảo…? Chỉ cần trưóc đó nạn nhân đã từng làm việc cho Tây, cho Nhật, làm quan lại hay tổng lý cho Chánh Phủ Nam Triều và có người tố cáo là đủ để bị bắt và bị mang đi mất tích hay bị giết một cách dễ dàng. Còn hủ hóa thì ngay từ thời gian này người ta đã nhái bài Tiến Quân Ca của Việt Minh, lúc đó đã trở thành quốc ca của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà bằng những câu như:
Đoàn quân Việt Minh đi xe nhà phất phới, dắt họ hàng, làng nước ra làm quan. Cùng chung sức phá két xây nhà mới. Đứng vùng lên may vá cho thật sang. Từ bao lâu ta nuốt cơn thèm…
Lẽ tất nhiên sau một cuộc cách mạng rất khó cho những người mới lên cầm quyền làm chủ được hoàn toàn tình hình an ninh ở trong nước. Hoàn cảnh của người Cộng Sản Việt Nam từ sau ngày 19 tháng 8 ăm 1945 và kéo dài cho đến ít ra là ngày 19 tháng 12 năm 1946 còn khó khăn gấp bội vì ngoài những khó khăn về kinh tế, tài chánh… họ còn phải đối phó các đảng phái Quốc Gia đối lập, với các đồng minh, đặc biệt là sự hiện diện của trên 180.000 quân đội Tàu của Tưởng Giới Thạch với chủ trương ủng hộ Việt Nam Quốc Dân Đảng và Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội chống lại Việt Minh, đang cầm quyền và quân Pháp theo chân quân Anh trở lại xứ Nam Kỳ và sau đó tiến ra Bắc. Vô cùng phức tạp nhưng vấn đề không phải chỉ đơn giản có thế vì dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản, chủ trương của Việt Minh không phải chỉ là để chia sẻ hay cướp chính quyền mà là để xây dựng một xã hội khác mà họ cho là tốt đẹp hơn dù cho mười người chết chín như lời của đại diện Việt Minh nói với Thủ Tướng Trần Trọng Kim trong một cuộc gặp gỡ không lâu trước ngày 19 tháng 8. Cũng vậy việc sử dụng những thành phần vô học và để cho họ mặc tình thao túng, chém giết…Võ Nguyên Giáp qua vai trò Bộ Trưởng Bộ Nội Vụ lúc đầu và Chủ Tịch Quân Sự Ủy Viên Hội rồi sau Bộ Trưởng Bộ Quốc Phòng về sau đã đóng vai trò then chốt trong việc tiêu diệt các thành phần đối lập, những “thù trong, giặc ngoài” và giữ vững chế độ. Từ rất sớm, Bộ Trưởng Nội Vụ Võ Nguyên Giáp, trước khi các lãnh tụ Việt Nam Quốc Dân Đảng và Việt Nam Cách Mạng Đồng Minh Hội từ Trung Quốc trở về và một cách hoàn toàn hợp pháp với tất những phương tiện do người Pháp để lại, đã cho bắt rất đông những đảng viên Quốc Dân Đảng từ trước vẫn hoạt động ở trong nước. Những người này đa số là những giáo viên tiểu học, những thừa phái, lục sự, những nhân sĩ địa phương, những tổng lý …, những người có ảnh hưởng lớn ở các địa phương, nói cách khác là nguy hiểm vì có thực lực và trực tiếp đe dọa sự tồn vong của chế độ mới, giam ở các ty liêm phóng ở các tỉnh hay thủ tiêu họ. Chiến dịch này nhằm triệt hạ các hạ tầng cơ sở của các đảng khác và những người không bị giết đã bị giam giữ cho mãi đến khi có chính phủ liên hiệp mới được thả… Ngay tại Hà Nội và giữa Đại Học Xá Đông Dương, Chủ Tịch Sinh Viên Đại Học này là Phan Thanh Hòa cũng đã bị bắt cùng với một sinh viên khác là Đặng Vũ Trứ mang đi mất tích với tin đồn là sau đó hai ông đã bị đưa sang một căn nhà ở Gia Lâm và bị thảy lựu đạn giết chết. Câu hỏi được đặt ra là làm sao Võ Nguyên Giáp và các cộng sự viên của ông vừa mới chân ướt, chân ráo từ chiến khu về lại có thể biết được các đảng viên Việt Quốc ở các địa phương để bắt giam họ ở các ty liêm phóng ở các tỉnh (chứ không phải ở cấp làng xã) hay thủ tiêu họ ngay lập tức được? Sự kiện này có liên hệ gì tới mối giao hảo giữa ông và Louis Marty và mật thám Pháp trước đó hay không? Những câu hỏi được đặt ra nhưng chỉ có ông là người có thể giải đáp được.
Công tác diệt trừ đối lập này đã đạt tới cao điểm của nó vào tháng 7 năm 1946, sau khi quân đội Trung Hoa Quốc Gia của Tưởng Giới Thạch rút khỏi Việt Nam và trong thời gian Hồ Chí Minh sang Pháp. Tất cả các trụ sở chính của Việt Nam Quốc Dân Đảng ở Hà Nội đã bị công an bao vây, lục soát, đặc biệt là trụ sở ở đường Ôn Như Hầu. Tại những nơi đó tất cả các đảng viên của đảng này đã bị bắt và mang đi mất tích. Tên tuổi của nhiều người sau này đã được ghi rõ. Riêng ở trụ sở Ôn Như Hầu, Võ Nguyên Giáp không những đã đích thân có mặt mà còn đưa cả Xử Lý Thường Vụ chủ tịch kiêm Bộ Trưởng Bộ Nội Vụ Huỳnh Thúc Kháng đến chứng kiến. Câu hỏi được đặt ra là vào thời điểm này Chính Phủ Liên Hiệp vẫn còn và Võ Nguyên Giáp không còn là bộ trưởng bộ nội vụ nữa, vậy với tư cách gì ông đã đến hiện trường rồi lại còn mang theo cả Huỳnh Thúc Kháng nữa? Sự kiện này, kèm theo với nhiều dữ kiện khác như thời điểm xảy ra biến cố, với sự vắng mặt của Hồ Chí Minh, với lệnh thi hành đến từ Thường Vụ Đảng Cộng Sản thay vì từ Bộ Nội Vụ mà chính Huỳnh Thúc Kháng, Bộ Trưởng bộ này mãi đến khi được Võ Nguyên Giáp dẫn đến hiện trường sau khi mọi chuyện đã xảy ra mới được biết…, với những gì sau đó được trưng bày cho dân chúng vào xem cũng như những lời buộc tội… cho người ta thấy những gì Tướng Giáp ghi trong hồi ký của ông có nhiều điều không ổn nếu không nói là quá sơ đẳng so với trình độ học vấn của ông, chưa cần tới những bằng chứng được phía người Việt Quốc Gia đưa ra để bác bỏ hay hai công điện của Lãnh Sự Mỹ James L. O’Sullivan gửi Bộ Ngoại Giao Mỹ đề ngày 01 và 26 tháng 7 năm 1946, tức chỉ hơn mười ngày sau đó về sự kiện quân đội của ông Giáp càn quét các căn cứ của Việt Nam Quốc Dân Đảng ở miền đỉnh châu thổ Sông Hồng, đặc biệt vùng Việt Trì và tất nhiên Hà Nội. Con số những nạn nhân của đợt càn quét này được ước lượng lên tới 15 ngàn người.
Võ Nguyên Giáp: Nhà Ngoại Giao
Trong chính phủ lâm thời của Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh là Chủ Tịch và kiêm nhiệm Bộ Ngoại Giao, Võ Nguyên Giáp là Bộ Trưởng Bộ Nội Vụ. Nhưng trong những ngày đầu Tướng Giáp đã làm luôn công việc ngoại giao. Ông đã đóng vai trò chính yếu trong việc đón tiếp các nhân vật quan trọng của các nước trong đó có Archimedes Patti của phái bộ OSS Mỹ ở Trung Quốc, Jean Sainteny và Đại Tướng Leclerc của Pháp…với tư cách là một bộ trưởng trong chính phủ và đại diện cho Chủ Tịch Hồ Chí Minh trước khi những nhân vật này chính thức được Hồ Chí Minh tiếp kiến, thay vì các công chức cao cấp khác của Bộ Ngoại Giao dưới quyền trực tiếp của họ Hồ ở bộ này theo thủ tục thông thường. Sau này trong việc điều đình với người Pháp ở Hải Phòng, Hà Nội hay Đà Lạt, ông cũng đóng vai trò chủ chốt với sự trợ giúp của Hoàng Minh Giám và Hoàng Hữu Nam . Điều này dễ hiểu vì ngoài hai người bạn thiết này của ông, những người làm ở Bộ Ngoại Giao thời đó đều có gốc là những công chức cao cấp thời Pháp, giỏi tiếng Pháp hay có thể cả tiếng Anh, quen tiếp xúc với người Pháp nhưng không được tin cậy và không phải là đảng viên Cộng Sản còn những đảng viên cao cấp khác của đảng này như Trường Chinh, Trần Huy Liệu, ngay cả Phạm Văn Đồng…không hội đủ những điều kiện cần thiết mà Võ Nguyên Giáp có. Tướng Giáp trong những cuộc gặp gỡ này đã tỏ ra rất thong thạo tiếng Pháp, tự tin và có khả năng thuyết phục được các đối phương của mình. Điển hình là cuộc tiếp xúc đầu tiên với Sainteny có sự hiện diện của Patti và được Patti kể lại. Riêng về cách trình diễn bề ngoài, cách ăn mặc với cái mũ phớt đặc biệt của ông đã gây ấn tượng cho đối thủ của ông không ít bên cạnh một bộ mặt ít khi mỉm cười của ông. Cũng trong buổi gặp Sainteny này, theo Patti, Võ Nguyên Giáp đã đến bằng một công xa đen bóng, có vệ sĩ mặc quân phục đeo tiểu liên Sten xuống mở cửa và một vệ sĩ khác nghiêm chào. Chiếc công xa này được biết là của Toàn Quyền Đông Dương cũ. Câu hỏi được đặt ra là với những khả năng và kinh nghiệm mới đạt được thêm như vậy, Võ Nguyên Giáp đã không lãnh hay không được cử hướng dẫn phái đoàn Việt Nam đi dự Hội Nghị Fontainebleau thay vì Phạm Văn Đồng, người cho đến thời điểm đó này vẫn còn là một nhân vật vô danh đối với các giới chức ngoại quốc ở Hà Nội thời bấy giờ và chưa có chút kinh nghiệm đàm phán nào, còn về khả năng cá nhân thì thua xa Tướng Giáp?
Võ Nguyên Giáp: Người đã gây ra Chiến Tranh Việt-Pháp?
Câu hỏi này được đặt ra vì trong những ngày tháng cuối cùng trước khi Chiến Tranh Việt-Pháp bùng nổ, Hồ Chí Mính đi Pháp, không có mặt ở nhà. Sau đó khi về nước ông lại bị đau (?) theo lời Sainteny, nằm một chỗ. Võ Nguyên Giáp đã đóng vai trò chính yếu, quyết định tất cả, Huỳnh Thúc Kháng, Quyền Chủ Tịch, chỉ là để ký giấy tờ. Trong việc giao thiệp với người Pháp, tướng Giáp, với Hoàng Minh Giám và Hoàng Hữu Nam phụ giúp đã làm và quyết định mọi việc. Đây là một dịp rất tốt để ông từng bước thực hiện giấc mơ làm một Nã Phá Luân của Á Châu và cũng là lý do tại sao ông đã chọn ở lại Việt Nam thay vì đi Pháp phó hội. Những gì ông thực hiện gồm có diệt trừ đối lập, đặc biệt là Việt Nam Quốc Dân Đảng mà tôi đã nói ở trên, phát triển quân đội và các lực lượng tự vệ, củng cố, xây dựng và phát triển tổ chức của Việt Minh ở những vùng từ trước chưa kiểm soát được, đặc biệt là ở Nam Kỳ, tuyên truyền tố cáo người Pháp gây chiến đdể xách động quần chúng và sửa soạn chiến tranh bằng cách cho đục tường nhà nọ thông với nhà kia, đặt chướng ngại vật trên các đường chính để ngăn quân Pháp…Những hành động này cho người ta thấy là sự vi phạm các thoả hiệp đã ký không phải chỉ đơn phương đến từ phía người Pháp.
Riêng ở Hà Nội, Sainteny với những con số được liệt kê, đã phản đối những hành động của tự vệ hướng vào các thường dân Pháp khiến cho họ và luôn cả quân nhân Pháp luôn luôn bị đe dọa và cô lập mà chính quyền Việt Nam không những mặc kệ mà còn khuyến khích. Riêng ở xứ Nam Kỳ, mặc dầu cho tới thời điểm này vẫn còn là thuộc địa của người Pháp và đương nhiên là vẫn do người Pháp quản trị và chịu trách nhiệm, sự vi phạm cũng xảy ra một cách trầm trọng. Theo chính Tướng Giáp, ở đây “lực lượng vũ trang của ta (Việt Minh) phát triển rất nhanh”và “ngày 13 tháng Chín, Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa ban hành sắc lệnh số 182 cải tổ Ủy ban kháng chiến miền Nam Việt Nam để lãnh đạo cuộc kháng chiến tại Nam bộ. Hơn một tuần sau, ngày 22 tháng Chín, Ủy ban kháng chiến lâm thời miền Nam Việt Nam tuyên bố thành lập và là chính quyền hợp pháp duy nhất tại miền Nam Việt Nam.” Những quyết định này xuất xứ từ Hà Nội với những nhân vật cầm đầu, điển hình là Tướng Nguyễn Bình, gốc từ Hà Nội hay từ miền Trung mới vào không thể nói là không vi phạm chủ quyền của người Pháp ở Nam Kỳ nhưng Tướng Giáp vẫn làm. Đó là một chiến thuật mà sau này người Cộng Sản luôn luôn áp dụng, chiến thuật giành dân chiếm đất và vừa đánh vừa đàm, không cần phải chờ mọi chuyện được ngã ngũ.
Ngoài những lý do chính trị, Hồ Chí Minh khi đưa Bảo Đại từ Huế ra Hà Nội làm Cố vấn Tối Cao rất có thể là để phòng ngừa vị vua cũ này có thể bị những phần tử quá khích ở địa phương làm bậy. Cũng vậy, lời nhắn của họ Hồ gửi cho Bảo Đại mả ông này nhận được ở phi trường lúc sắp sửa lên phi cơ từ Trung Hoa về nước, biết đâu cũng có một mục đích tương tự và lần này những phần tử quá khích không còn là địa phương nữa mà ở ngay Hà Nội và Hồ Chí Minh là người hiểu rõ hơn ai hết. Điều quan trọng là sự thực nằm ở đâu,Hồ Chí Minh ngay từ cuối năm 1946 này có còn có đủ uy thế như người ta thương nghĩ hay không hay đã bắt đầu ở thế yếu và đã bị nhưũng phụ tá trẻ của ông lấn át và kết thúc bặng những gì người ta sau này đã kể. Câu hỏi được đặt ra nhnưg hiện tại chúng ta không biết được câu trả lời và nhiều phần không bao giờ biết được. Tướng Giáp có thực sự kính trọng và quí mến “Bác Hồ” và luôn luôn làm theo lời “Bác” hay không? Hai người có thực sự có chung một mục tiêu với nhau hay không? Đó là những câu hỏi cần được đặt ra.
Khi Hồ Chí Minh về tới Hà Nội và Sainteny muốn gặp nhưng được cho biết họ Hồ bị bịnh. Sainteny phải chờ, đến khi được đến thăm thì thấy Hồ Chí Minh nằm trên giường có Hoàng Minh Giám và Hoàng Hữu Nam túc trực bên cạnh. Hai người này đã không bị Hồ Chí Minh yêu cầu ra khỏi phòng như thường lệ và câu chuyện chỉ là bình thường giữa hai người bạn cũ. Tại sao vậy? Có phải là họ Hồ đã bị phe của Giáp bao vây không cho nói những gì họ không muốn ông nói ? Nếu như vậy thì có phải Hồ Chí Minh lúc đó không muốn hay chưa muốn chiến tranh trong khi Võ Nguyên Giáp và phe nhóm của ông đang ở một tình thế vô cùng thuận lợi có thể giúp ông đạt được mong ước của mình, bỏ qua sẽ không bao giờ có được. Cũng cần phải nói thêm là trong thời gian này Sainteny có nhận được một văn thư của Hồ Chí Minh gửi Quốc Hội và Chính Phủ Pháp đề ngày 11 tháng 12 tức 8 ngày trước ngày nổ sung, nhưng không mang chữ ký của họ Hồ. Thư bị Sainteny trả lại và phải nhiều ngày sau mới có chữ ký. Tại sao lại có chuyện lạ như vậy? Không lẽ một văn thư của Chủ Tịch Chính Phủ lại có thể được gửi đi một cách cẩu thả như vậy sao? Sainteny cho là có một cái gì bí mật bao quanh tình trạng “vị Chủ Tịch của nưóc Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa.” Nghi ngờ cũng phải vì Sainteny là người biết rõ những nỗ lực cuối cùng của Hồ Chí Minh khi ông này lưu lại Paris và làm tất cả để ký cho được Tạm ƯỚc 14 tháng 9, không lẽ để không làm gì. Cũng theo Sainteny, phe chủ chiến của Việt Nam đã phải hành động gấp vì Chính Phủ mới của Pháp do Léon Blum làm Thủ Tướng đã quyết định cử Marius Moutet lúc đó đã là Bộ Trưởng Pháp Quốc Hải Ngoại sang Đông Dương và tin này đã làm tình hình biến chuyển mạnh hơn. Lý do là phe chủ chiến e ngại một cuộc điều đình mới sẽ được thực hiện nên phải ra tay trước.Tất nhiên đây chỉ là một giả thuyết nhưng nếu nhìn qua tham vọng cá nhân của Võ Nguyên Giáp đây phải là một yếu tố người ta cần phải xét tới, cũng như khi người ta xét tới mối liên hệ riêng tư giữa Hồ Chí Minh và Bảo Đại.
Đại Tướng Võ Nguyên Giáp có thể biết và trả lời một phần. Với tư cách là Chủ Tịch Danh Dự của Hội Khoa Học Lịch Sử Việt Nam, đồng thời ở tuối 100 của ông, ông có thể nói ra cho mọi người được biết. Tiếc rằng mọi chuyện đã quá trễ. Sức khoẻ của ông vào lúc tôi viết xong bài này, theo tôi được biết, chắc chắn không cho phép. Một đồng nghiệp trong Hội Sử Học, đồng thời cũng là một sử gia đã viết nhiều tác phẩm, Giáo Sư Trần Văn Giàu, cũng đã nhiều lần được người ta trực tiếp hay gợi ý về những gì ông đã làm ở Miền Nam, nhất là về sự mất tích Giáo Chủ Huỳnh Phú Sổ của Đạo Hòa Hảo, nhưng Giáo Sư Giàu đã từ chối lấy cớ mọi chuyện đã qua rồi, theo như một giáo sư đại học Việt Nam ở Pháp có dịp gặp ông. Thật vô cùng đáng tiếc! Nó cũng đáng tiếc như câu trả lời của Tướng Giáp cho một câu hỏi của một phóng viên một đài truyền hình Mỹ năm 1995, hai mươi năm sau khi Cuộc Chiến Ba Mươi Năm đã chấm dứt, mà bây giờ người ta vẫn có thể phối kiểm được, là qua hai cuộc chiến vừa qua có từ 3 triệu rưởi đến 4 triệu người chết, ông (Tướng Giáp) có hối tiếc hay không? Tướng Giáp vẫn trong bộ quân phục cố hữu đã trả lời bằng tiếng Pháp là “Không chút nào! Tôi không hối tiếc chút nào!” Quả là đáng tiếc! Nó đáng tiếc như những năm cuối cùng của cuộc đời của ông vậy!
Phạm Cao Dương