Kính xin quý cô chú bác anh chị em giúp Hội Phụ nữ Nhân quyền Việt Nam phổ biến Đơn đề nghị Giám đốc thẩm đối với vụ án Hội đồng Công luật Công án Bia Sơn.
Đây là vụ án tôn giáo liên quan đến một giáo phái có đông tin đồ và hơn 20 người đã bị kết án nặng nề.
Xin quý thân hữu phổ biến thư và đơn dưới đây như cách để giúp những người trong tù được an toàn hơn trong bối cảnh công luận chưa có nhiều hiểu biết về vụ án này.
Xin chân thành cám ơn.
Kính
Huỳnh Thục Vy
Dưới đây là thư và đơn từ bà Võ Thị Thanh Thuý, vợ ông Phan Văn Thu:
Kính Thưa Quý Độc Giả:
Đã hơn ba năm kể từ ngày xảy ra vụ án Ân Đàn Đại Đạo, một vụ án tôn giáo lớn nhất trong gần 30 năm qua (Theo một chuyên viên nhân quyền). Hôm nay, đã đến lúc chúng tôi_ những người mang nỗi hàm oan thống khổ, những người bị lao tù mất cả quyền con người, xa gia đình, thiếu vắng tình yêu thương, những người đã chịu đựng lời thóa mạ, sỉ vả, chịu sự khinh bỉ và xa lánh của xã hội vì bị ghép cho tội danh “âm mưu lật đổ chính quyền nhân dân”, chúng tôi sẽ lên tiếng để phơi bày tất cả sự thật về vụ án có tên Hội Đồng Công Luật Công Án Bia Sơn.
Đã một thời gian dài trôi qua, chính quyền Việt Nam và dư luận thế giới nói chung gần như đã đưa vụ án này vào quên lãng. Trong khi đó, 25 người trong vụ án đa số tuổi đã trên 50, có 10 người trên 60 tuổi và sức khoẻ rất yếu, thân lại mang nhiều bệnh, họ đang phải sống từng ngày trong cảnh tù đày. Người thân thì vò võ dõi mắt ngóng trông tin. Trong số đó có người có cả chồng và con đang thụ án, bản thân thì đang mắc bệnh ung thư giai đoạn cuối, bà cũng đang từng ngày mong chồng con trở về để gặp mặt lần sau cùng, đó là niềm an ủi cuối đời của bà. Hơn thế nữa, đang có hàng trăm Phật tử không lúc nào quên “Ân Đàn Đại Đạo” đang lâm nạn và luôn mong mỏi một ngày đạo Ân Đàn được rửa sạch nỗi hàm oan để họ lại trở về tu chính, học tập kinh sách, tu dưỡng đạo đức góp phần xây dựng gia đình và xã hội an lành, hạnh phúc.
Xin nhắc lại về vụ án “Hội Đồng Công Luật Công Án Bia Sơn”. Ngày 5/2/2012, Công an tỉnh Phú Yên đã bất ngờ tấn công, bao vây toàn bộ khu du lịch sinh thái Đá Bia (Khu vực Đèo Cả, Xã Hòa Xuân Nam, Huyện Đông Hòa, Tỉnh Phú Yên) sau đó bắt người và đóng cửa khu du lịch này. Tính cho đến nay, Tỉnh Phú Yên đã bắt giam tổng cộng 25 người trong vụ án Bia Sơn với mức án tổng cộng là một án tù chung thân, 309 năm tù giam và 110 năm quản chế. 22 người trong số này chính quyền buộc tội là âm mưu lật đổ chính quyền nhân dân theo điều 79 BLHS, 3 người còn lại bị án tù với ‘tội danh “Tàng trữ, sử dụng, mua bán trái phép vật liệu nổ”.
Ân Đàn Đại Đạo là một tổ chức tôn giáo được ông Phan Văn Thu thành lập năm 1969. Đạo Ân Đàn đã từng có 14 ngôi chùa và hàng chục nghìn Phật tử.
Công bằng là một quy luật chung được tạo hóa ban cho tất cả muôn loài trên trái đất. Luật pháp của mỗi quốc gia cũng được lập ra dựa trên sự công bằng này để đảm bảo quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc của con người. Chúng tôi tin chắc chắn một điều rằng công bằng cũng sẽ được trả lại cho “Ân Đàn Đại Đạo” và đạo của chúng tôi sẽ được ra đời theo đúng với Hiến pháp và pháp luật của Việt Nam đã ban hành.
Thưa quý bạn đọc, đầu tháng 6, chúng tôi sẽ mang tất cả hồ sơ Giám Đốc Thẩm của 25 người trong vụ án này để trình lên Tòa án Nhân dân tối cao. Để đảm bảo quyền lợi công dân, để thực hiện đúng quyền con người, chúng tôi mong sẽ nhận được sự ủng hộ và giúp đỡ của tất cả các bạn!
Xin chân thành cảm ơn!
Sau đây là nội dung đơn Giám Đốc Thẩm của bà Võ Thị Thanh Thúy viết cho chồng là ông Phan Văn Thu.
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc Lập – Tự Do – Hạnh Phúc
Ngày 25 tháng 05 năm 2015
ĐƠN ĐỀ NGHỊ XEM XÉT THEO THỦ TỤC GIÁM ĐỐC THẨM
ĐỐI VỚI BẢN ÁN HÌNH SỰ SƠ THẨM – ĐÃ CÓ HIỆU LỰC PHÁP LUẬT – SỐ 04/2013/HSST NGÀY 04/02/2013 CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH PHÚ YÊN (“BAST số 04/2013/HSST”)
Kính gởi: CHÁNH ÁN
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
Tôi là: Võ Thị Thanh Thúy, sinh năm 1967. Hiện đang ngụ tại địa chỉ 646 Trần Phú, thị xã An Nhơn, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định.
Tôi là vợ của Ông Phan Văn Thu (Trần Công), người bị BAST số 04/2013/HSST kết án tù chung thân về tội danh “Hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân” theo Điều 79 Bộ luật Hình sự. Hiện Ông Phan Văn Thu đang bị giam tại Trại giam: Phân trại 2, An Phước, An Thái, Phú Giáo, Bình Dương.
Trân trọng thông báo đến Lãnh đạo Tòa án Nhân dân Tối cao những vi phạm pháp luật trong BAST số 04/2013/HSST và kiến nghị Quí lãnh đạo có kháng nghị theo trình tự thủ tục Giám đốc thẩm đối với BAST số 04/2013/HSST nêu trên. Cụ thể nội dung trình bày sau:
I. Nội dung vụ án:
1. Theo trang 21 BAST số 04/2013/HSST, Ông Phan Văn Thu – bị xác định “Tháng 9/1975 đã cầm đầu, thành lập tổ chức phản động “Ân Đàn Đại Đạo” bị bắt đưa tập trung cải tạo tại trại A30 đến tháng 5/1983 được ra trại và bị quản thúc tập trung tại khu kinh tế Mai Liên – xã Hòa Phú, Tây Hòa, Phú Yên; năm 1984, trốn khỏi nơi quản thúc”. Và lần này, BAST số 04/2013/HSST cho rằng, Ông Thu tiếp tục là người chủ mưu, cầm đầu chỉ huy, thành lập Tổ chức Hội đồng Công luật Công án Bia Sơn, tiền thân là “Ân Đàn Đại Đạo” trước năm 1975, “Ân Đàn Bửu Tự” năm 1980, “Hồng Ân Đại Đạo” năm 1985; tác giả của “chủ thuyết Công Bản”, “Cương lĩnh Công luật Đại hóa”, tuyên truyền lôi kéo, làm lễ kết nạp nhiều người khác tham gia tổ chức. Thông qua thuyết giảng “Cửu Kinh Minh Triết”, “55 điều trợ luật” (trong đó có mục Tứ Bi Đề thể hiện 4 bước gồm: Cộng ác khổ, quân minh tập, linh giải diệt, thành chánh quốc để HĐCLCABS thực hiện các hoạt động chống phá Nhà nước Việt Nam (theo trang 18 và 19 BAST số 04/2013/HSST)), tuyên truyền sấm trạng…
2. Từ năm 2004 đến ngày bị bắt, BAST số 04/2013/HSST cho rằng, Ông Thu thực hiện chỉ đạo xây dựng bộ khung tổ chức gồm nhiều ban, phát triển cả 2 cấp từ Trung ương (12 ban) đến địa phương (26 pháp hội), các ban đều có chương trình hành động thông qua các cương lĩnh, điều lệ hoạt động; Soạn thảo, in ấn, phát hành nhiều tài liệu có nội dung tuyên truyền chống chế độ Cộng Sản; Tuyên truyền, vận động lôi kéo, đặt bí danh cho nhiều người từ Thừa Thiên Huế đến một số tỉnh Nam Bộ, có 14 Việt Kiều Mỹ, Úc tham gia; Quyên góp được nhiều tiền của và đưa vào xây dựng căn cứ phục vụ hoạt động của tổ chức chính trị phản động… Ông Thu chỉ đạo toàn bộ hoạt động của tổ chức; dự kiến Quốc kỳ, Quốc ca, Quốc huy, con dấu, Quốc khánh của Nhà nước “Đại Nam Kinh Châu”, có quân tướng là 72 vị thánh hiền do Ông Thu lãnh đạo theo chế độ Quân chủ lập hiến trên cơ sở chủ thuyết Công Bản. Có trụ sở hoạt động là Tổ Đình_Khu du lịch sinh thái Đá Bia sau này mở rộng đến khu di tích tàu không số Vũng Rô, Đại Lãnh, Khánh Hòa. Ngoài ra, trong quá trình phát triển của tổ chức, Ông Thu còn kêu gọi các cá nhân, bào tộc đóng góp công sức, tiền của để xây dựng khu căn cứ Bia Sơn.
3. Ngày 04/02/2013 Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên xét xử và tuyên Ông Phan Văn Thu phạm tội “Hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân” với mức hình phạt là “Tù chung thân”.
4. Tôi được biết, Ông Thu không được tạo điều kiện làm đơn kháng cáo đối với BAST số 04/2013/HSST theo trình tự thủ tục luật định.
II. Ý kiến của tôi:
Sau khi đọc BAST số 04/2013/HSST và cáo trạng, tôi phát hiện BAST số 04/2013/HSST “điều tra, xét hỏi tại phiên tòa phiến diện, không đầy đủ”; “ kết luận trong bản án không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án”; “có sự vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong khi điều tra, truy tố hoặc xét xử”, đây là những căn cứ qui định tại Điều 273 BLTTHS “để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm”. Cụ thể:
1. BAST điều tra, xét hỏi tại phiên tòa phiến diện, không đầy đủ:
a) Trang 2 Cáo trạng và trang 11 của BAST số 04/2013/HSST đã xác định: “Năm 1969, Phan Văn Thu thành lập tổ chức tôn giáo lấy tên là Ân Đàn Đại Đạo…”. Thế nhưng do việc điều tra phiến diện, hoặc không đầy đủ mà trang 21 BAST số 04/2013/HSST lại cho rằng: “Tháng 9/1975, Thu đã cầm đầu, thành lậptổ chức phản động “Ân Đàn Đại Đạo”…
b) Cũng vậy, trang 21 BAST số 04/2013/HSST kết luận: “Thu là người chủ mưu …thành lập tổ chức “HĐCLCABS” (tức Hội đồng Công luật Công án Bia Sơn), tiền thân là “Ân Đàn Đại Đạo” trước năm 1975…”. Như vậy, HĐCLCABS được thành lập từ “tiền thân” là “tổ chức tôn giáo” Ân Đàn Đại Đạo, nhưng tại trang 10 Cáo trạng kết luận “tổ chức chính trị có tên gọi HĐCLCABS”!
c) Cáo trạng và BAST số 04/2013/HSST đều kết luận Ông Thu “trốn khỏi nơi quản thúc” vào năm 1983. Kết luận này chứng tỏ việc điều tra xét hỏi của tòa án là phiến diện hoặc không đầy đủ. Bởi vì, pháp luật Việt Nam không có hình phạt, biện pháp xử lý nào là “quản thúc”. Tại Miền Bắc, ngày 25/6/1961, Ủy ban thường vụ Quốc hội nước VNDCCH đã ra Nghị quyết số 49-NQ/TVQH về việc giáo dục cải tạo những phần tử có hành động nguy hại cho xã hội; và ngày 9/8/1961, Hội đồng chính phủ cũng có Thông tư số 121/CP về việc giáo dục cải tạo những phần tử có hành động nguy hại cho xã hội để hướng dẫn Nghị quyết số 49-NQ/TVQH nêu trên, điểm 5 khoản 2 Điều 1 Mục I Thông tư này nêu rõ đối tượng tập trung cải tạo có: “Những tên đã bị quản chế nhưng ngoan cố không chịu tuân theo kỷ luật quản chế”. Sau 1975, tại Miền Nam, ngày 15/3/1976, Chính phủ CMLTCHMNVN có Sắc luật số 02-SL/76 về việc bắt, giam những phần tử cần tập trung cải tạo. Và đến ngày 30/10/1982, Hội đồng nhà nước có Nghị quyết số 241/NQ-HĐNN 7 quyết nghị: “ Bãi bỏ những quy định của Sắc luật số 02-SL/76 ngày 15-3-1976 về thẩm quyền và thủ tục bắt, giam những phần tử cần tập trung cải tạo. Áp dụng thống nhất trong cả nước Nghị quyết số 49 NQ/TVQH ngày 20-6-1961 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về việc tập trung giáo dục cải tạo những phần tử có hành động nguy hại cho xã hội”. Và đến sau này, Bộ luật hình sự năm 1985 (khoản 2 Điều 21 và Điều 30) và BLHS 2000 (khoản 2 Điều 28 và Điều 38) chỉ qui định “hình phạt bổ sung” là “quản chế”. Như vậy, không có hình phạt “quản thúc”, kết luận ông Thu “trốn khỏi nơi quản thúc” là phiến diện.
d) Để làm “xấu” đi tình trạng pháp lý của ông Phan Văn Thu, trang 11 Cáo trạng và trang 2 BAST số 04/2013/HSST nêu: “Nhân thân: từ tháng6/1975 đến tháng 2/1983 bị bắt tập trung cải tạo tại Trại cải tạo A 30…”.Điều này mâu thuẫn với trang 11 BAST số 04/2013/HSST nêu rõ: “…ngày 06/5/1976 Thu trốn trại …ngày 26/8/1978 bị bắt lại và tiếp tục tập trung cải tạo”; và không đúng với kết luận tại trang 21 BAST số 04/2013/HSST “Tháng 9/1975 …bị bắt đưa tập trung cải tạo tại Trại A 30 đến tháng 5/1983…”. Những mâu thuẫn về ngày tháng này chứng tỏ việc điều tra xét hỏi tại phiên tòa phiến diện hoặc không đầy đủ.
e) Tại trang 12 BAST số 04/2013/HSST cho rằng: “… thủ tục mở Chi nhánh Công ty TNHH Hoàng Long tại Phú Yên và lập dự án đầu tư xây dựng khu du lịch sinh thái Đá Bia, được Sở Kế hoạch – Đầu tư tỉnh Phú Yên cấp giấy chứng nhận đăng ký vào ngày 30/11/2004; ngày 03/02/2005, UBND tỉnh Phú Yên có thông báo số 95/TB-UBND cho phép lập thủ tục đầu tư xây dựng khu du lịch sinh thái Đá Bia”. Và sau đó, BAST số 04/2013/HSST kết luận: “Tất cả các hạng mục công trình xây dựng trong khu du lịch sinh thái Đá Bia đều không có thiết kế, không được cơ quan có thẩm quyền cấp giấy phép xây dựng theo quy định”. Căn cứ trang 33 BAST số 04/2013/HSST xác định công trình xây dựng …tại khu du lịch sinh thái Quỳnh Long …gồm: 146 hạng mục công trình. Tuy nhiên, căn cứ Luật Xây dựng 2003 và 2014; các văn bản pháp luật hướng dẫn kèm theo, không phải tất cả “các hạng mục công trình xây dựng” đều đòi buộc phải “có thiết kế và giấy phép xây dựng”. Tòa án đã điều tra phiến diện, xét hỏi không đầy đủ dẫn đến kết luận không “xác định được tính chất, mức độ” vụ việc.
f) Tại trang 9 Cáo trạng và trang 18, 19 BAST số 04/2013/HSST có đề cập đến tài liệu 55 Điều trợ luật trong đó có nói đến Tứ bi đề là 4 bước để HĐCLCABS thực hiện các hoạt động chống phá nhà nước. Tuy nhiên, theo tài liệu 55 Điều trợ luật do Ông Phan Văn Thu thuyết giảng và được học trò biên soạn lại, bản in năm 2011, tại trang 18,19 và 20 thì nội dung của Tứ bi đề hoàn toàn khác với nội dung mà Cáo trạng và BAST số 04/2013/HSST đã đề cập. Cụ thể như sau: Giai đoạn cộng ác khổ, bản Cáo trạng và BAST số 04/2013/HSST cho rằng đây là giai đoạn ông Phan Văn Thu cùng đồng phạm tập trung xuyên tạc, nói xấu, vu khống chế độ. Trong khi bản in năm 2011, trang 18 tài liệu 55 Điều trợ luật có viết rõ: “Trong thế giới loài người bất cứ một thời kỳ vua chúa nào mà có hôn quân hay một thể chế, một chế độ, một tà thuyết nào ác nhất thì Đức Phật đều dùng danh từ là cộng ác khổ. Tức là thể chế đó đưa ra những điều làm cho nhân loại đau khổ thì đó là cộng ác, mà nguyên tắc cộng ác là phải khổ. Vì nếu một người làm ác thì đã khổ rồi mà mười người dẫn đến trăm người, triệu người đều làm ác thì sẽ khổ cả một xã hội”. Qua đây có thể thấy những từ ngữ ông Thu dạy chỉ thuần đạo nên không thể “nói xấu”, “vu khống” ai.
g) Cáo trạng trang 5 và BAST số 04/2013/HSST trang 15 có cáo buộc rằng Ông Thu xây dựng tổ chức phát triển cả 2 cấp từ Trung ương (12 ban) đến địa phương (26 pháp hội và 4 nhóm chưa đặt tên với 293 đối tượng tham gia) là hoàn toàn không có căn cứ. Từ ngày thành lập đạo Ân Đàn Đại Đạo năm 1969 đến trước giải phóng 1975, ông Phan Văn Thu cùng đệ tử đã xây dựng được 12 bửu tự (chùa) ở một số tỉnh thành. Cụ thể: Tự 1: Đông Cung Bảo Đạo xây tại cửa sông Đà Rằng, P.6, Tuy Hòa, Phú Yên. Tự 2: Nhị Nhật Lệnh xây dựng tại Bình Hòa, P.5, Phú Yên… Tự 9: Thiên Ngọc xây tại Phú An Nam, TP. Nha Trang, Khánh Hòa… Tự 12: Thiên Kim Đồng Ấn xây tại Khu vực Đá Đen, Đèo Cả, Phú Yên. Như vậy tiền thân của các pháp hội là các bửu tự. Đó là nơi các phật tử tập trung về để thực hiện tự do tín ngưỡng tôn giáo. Còn 12 ban, đó là các ban được đặt ra theo cơ cấu tổ chức của công ty kinh doanh du lịch sinh thái, được thành lập và hoạt động hợp pháp. Cụ thể như Cáo trạng và BAST số 04/2013/HSST có nói đến ban đối nội, ban đối ngoại, ban kế hoạch… thì các ban này chịu trách nhiệm về các hoạt động kinh doanh của công ty du lịch sinh thái như: Quản lý dự án, hợp đồng kinh tế, xây dựng kế hoạch… Đối với các ban như ban tổ chức, ban pháp tế, ban nghi lễ… mà bản Cáo trạng và BAST 04/2013/HSST đề cập đến thì các ban này được thành lập để hỗ trợ hoạt động hoằng pháp. Như vậy Bản Cáo trạng và BAST 04/2013/HSST cho rằng các ban này được thành lập để phục vụ cho việc chống phá Nhà nước là hoàn toàn không có căn cứ.
h) Để phù hợp với cáo buộc biến tổ chức tôn giáo Ân Đàn Đại Đạo thành một tổ chức âm mưu lật đổ chính quyền, Cáo trạng và BAST số 04/2013/HSST đã chính trị hóa “chủ thuyết Công Bản”, “Cương lĩnh Công luật Đại hóa”, “Cửu Kinh Minh Triết”_ vốn dĩ chỉ là những bài học mang tính chất giáo lý của một tôn giáo. Chủ Thuyết Công bản được ông Phan Văn Thu giải thích trong tài liệu của mình với nội dung như sau: “Công là công bằng, bản là gốc. Vậy công bản là gốc của sự công bằng. Nếu vũ trụ này không có cái gốc của sự công bằng thì vũ trụ sẽ sụp đổ”. Còn “Cương lĩnh Công Luật đại hóa” thì đề cập đến vấn đề nhân sinh quan, vũ trụ quan; sự dung hợp giữa chủ thuyết duy tâm và duy vật; nói đến tính quy luật, định luật chung của vũ trụ. “Về cương lĩnh Công Luật đại hóa, thứ nhất là căn cứ hệ thống Thống hóa đã thiết lập quyền duy ngã đại thể. Thứ hai là căn cứ Công luật, qui luật, định luật và không sai chạy một ly của tính công luật vũ trụ để thực hiện Công Luật đại hóa. Thứ ba là căn cứ trên chu trình vận luật sự chuyển hóa và hình thành của nguyên và phân nguyên. Thứ tư là căn cứ trên sự tiến hóa nhất định đối với loài người trên hành tinh chúng ta, cùng các hành tinh khác. Thứ năm là căn cứ sự thăng hoa và thành tựu giá trị duy ngã của các phẩm bậc mà có những cương lĩnh thống nhất này” (trích “Cương lĩnh công luật đại hóa” trang 5 bản in năm 2011 do ông Thu thuyết giảng). Theo Bản Kết luận điều tra số 406/ANĐT thì “bộ Cửu Kinh Minh triết có 9 quyển gồm 592 trang do Phan Văn Thu dựa trên một số giáo lý phật giáo, một số sấm ký, tài liệu mê tín dị đoan, truyền thuyết thần thoại được thuyết giảng từ 4/2006 đến tháng 11/2011, Lê Duy Lộc ghi âm soạn thảo biên tập hoàn chỉnh in thành 9 tập tựa đề: 1- Thống Thức Chân Quang Kinh, 2- Trung Tâm Vạn Năng Kinh, 3- Oai Âm Dương Vạn Tỏa Kinh, 4- Vận Luật Tuần Hoàn Chu Kinh, 5- Duy Ngã Vạn Pháp Kinh, 6- Tâm Vật Hội Tụ Kinh, 7- Đại Thừa tạng Kinh, 8- Trung Thừa Tạng Kinh, 9- Tiểu thừa Tạng Kinh”. Dựa trên chính kết luận này, bộ Cửu Kinh Minh Triết đích thực là một tài liệu kinh điển, nội dung (giả định Kết luận điều tra đúng) cũng chỉ: “Dựa trên một số giáo lý Phật giáo, một số sấm ký, tài liệu mê tính dị đoan, truyền thuyết thần thoại” không đề cập đến vấn đề chính trị, không có nội dung “tuyên truyền”, “lật đổ”. Như vậy, Cáo trạng và BAST số 04/2013/HSST kết luận đây là tài liệu để chống phá nhà nước là hoàn toàn vô căn cứ.
i) Cáo trạng và BAST số 04/2013/HSST cho rằng Ông Phan Văn Thu dự kiến Quốc kỳ, Quốc ca, Quốc huy, con dấu, Quốc khánh của Nhà nước “Đại Nam Kinh Châu”, có quân tướng là 72 vị thánh hiền do Ông Thu lãnh đạo, có trụ sở hoạt động là Tổ Đình_Khu du lịch sinh thái Đá Bia sau này mở rộng đến khu di tích tàu không số Vũng Rô, Đại Lãnh, Khánh Hòa. Điều này hoàn toàn không có căn cứ. Ngày thành lập đạo Ân Đàn Đại Đạo 15/9/1969, theo lời ông Thu điều tra viên đã ép cho đó là ngày Quốc khánh. Còn cụm danh từ “Đại Nam Kinh Châu” và “72 tướng lĩnh” là những từ được ông Thu trích giảng từ sấm Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Trước phiên tòa xét xử, tất cả 22 người đều cương quyết phủ nhận việc Ân Đàn Đại Đạo có dự kiến này.
2. Cơ quan tiến hành tố tụng cấp sơ thẩm đã có sự vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng:
a) Về xác định “thời gian” gọi là “hành vi phạm tội” của ông Thu: BAST số 04/2013/HSST đã không xác định được để chứng minh theo qui định BLTTHS. Cáo trạng (trang 1) và BAST số 04/2013/HSST (trang 11) bắt đầu “từ năm 1969” khi ông Phan Văn Thu “thành lập tổ chức Tôn giáo lấy tên là Ân Đàn Đại Đạo”. Trang 5 Cáo trạng và trang 11 BAST số 04/2013/HSST xác định thời gian là “từ năm 2004 đến đầu năm 2012”; hoặc “từ năm 2004 đến ngày bị bắt” (ngày 6/2/2012). Nhưng tại trang 10 Cáo trạng kết luận: “trong khoảng thời gian từ năm 2003 – tháng 2/2012”. Còn BAST số 04/2013/HSST thì kết luận tại trang 11 là “từ năm 2004”. Đáng chú ý là BAST số 04/2013/HSST đã sử dụng khoảng thời gian mơ hồ cho vụ án này tại trang 21 là “Lần phạm tội này”. Lần phạm tội này là tính từ lần nào? Có tính lần phạm tội trước? Thời gian tính của các “lần phạm tội” là như thế nào ?… Không xác định được “thời gian” “hành vi phạm tội xẩy ra” (nếu có) là vi phạm nghiêm trọng khoản 1 Điều 63 Bộ luật Tố tụng Hình sự qui định “những vấn đề phải chứng minh trong vụ án hình sự”. Vi phạm nghiêm trọng về Điều 7 BLHS về “Hiệu lực của BLHS về thời gian”; vi phạm nghiêm trọng chương IV Phần chung BLHS về “Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự. Miễn trách nhiệm hình sự”.
b) BAST kết luận rất nhiều tài liệu, qui chế, cương lĩnh, diễn văn …nội dung chủ yếu xuyên tạc chủ trương chính sách đường lối của Đảng và Nhà nước; lồng ghép nội dung chống Đảng Cộng Sản; tuyên truyền chống chế độ…trong khi không có bất cứ Kết luận giám định của cơ quan chức năng có thẩm quyền nào là vi phạm trình tự “thu thập chứng cứ” qui định tại Điều 65 BLTTHS.
c) Điều tra viên đã tiến hành hỏi cung ông Phan Văn Thu trong tình trạng Ông Thu bị tai biến, sức khỏe hoàn toàn không đảm bảo sự minh mẫn để trả lời các câu hỏi của điều tra viên. Điều này là vi phạm pháp luật Tố tụng hình sự, không đảm bảo trung thực, khách quan. Ông Thu đã trình bày trước tòa trong ngày xử án (ngày 28/01/2013) rằng ông đã bị dẫn đi lấy lời khai trong khi tinh thần hỗn loạn vì bất ngờ trước sự việc mình bị bắt. Ông Thu phải được hai công an xốc nách dẫn đến chỗ lấy cung. Ngày 5/2/2012, Ông Phan Văn Thu bị công an giao thông tỉnh Phú Yên chặn đường rồi bắt giam trong khi đang trên xe cùng với gia đình từ Bình Định về lại khu du lịch sinh Đá Bia, Phú Yên với lý do xe của ông Thu có dấu hiện gây tai nạn trên đường đi. Trước đó, Ông Thu bị một số căn bệnh và đang được điều trị: Bệnh tiểu đường, bệnh về tim mạch, bệnh thấp khớp… đây cũng là yếu tố tác động trực tiếp đến sức khỏe và tinh thần của Ông Thu trong quá trình lấy lời khai.
d) Cáo trạng đã bỏ trống phần về “Hồ sơ vụ án gồm có trang, được đánh số từ 01 đến…” (trang 20) là vi phạm về “đánh số bút lục” tại Thông tư liên tịch số 05/2005/TTLT-BCA-VKSNDTC-BQP. Theo đó: “Trong quá trình khởi tố, điều tra, tài liệu của Cơ quan điều tra hoặc do Viện Kiểm sát thu thập đều phải đưa vào hồ sơ vụ án theo đúng trình tự tố tụng khởi tố, điều tra vụ án. Sau khi kết thúc điều tra, các tài liệu trong hồ sơ vụ án do Cơ quan điều tra thống nhất đánh số thứ tự (bút lục) một lần (không được tẩy xoá, đánh đi đánh lại nhiều lần) và lập bảng thống kê đầy đủ các tài liệu có trong hồ sơ vụ án từ 01 cho đến hết. Sau khi đã nhận hồ sơ vụ án, những tài liệu do Viện Kiểm sát thu thập ở giai đoạn truy tố phải được đưa vào hồ sơ vụ án và đánh số thứ tự tiếp theo số tài liệu trong hồ sơ do Cơ quan điều tra chuyển sang không được thay đổi thứ tự bút lục trong hồ sơ vụ án”.
3. Kết luận trong BAST số 04/2013/HSST không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án:
Chính việc “điều tra, xét hỏi” của các cơ quan tiến hành tố tụng trong vụ án phiến diện, không khách quan, không đầy đủ, nhiều suy diễn theo hướng buộc tội. Và những vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng dẫn đến những kết luận trong BAST số 04/2013/HSST không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án:
Từ chỗ là “tổ chức tôn giáo” với hệ thống tổ chức, kinh sách, giáo lý, truyền đạo thuần túy tôn giáo đã bị kết luận là “tổ chức chính trị”, “tổ chức phản động” nhằm “hoạt động lật đổ chính quyền nhân dân” với “những tài liệu tuyên truyền chống chế độ cộng sản”, “tuyên truyền lôi kéo…”. Từ “pháp danh” (theo truyền thống Đạo Phật) bị kết án là “bí danh”. Phương châm “Tiền sinh thái, hậu tổ đình” được hiểu là hoạt động du lịch sinh thái để có tài sản xây dựng tổ đình (trụ sở tổ chức tôn giáo) sau này, bị kết án thành “núp bóng hoạt động du lịch sinh thái để xây dựng căn cứ địa”…
Tại Văn bản viết ngày 20/10/2014 gửi các cơ quan chức năng qua các phương tiện truyền thông, tôi đã trình bày rõ: “Tại phiên tòa sơ thẩm, tòa đã không đưa ra được bất kỳ một bằng chứng xác thực nào mà chỉ kết tội bằng những lời nói suông và những bằng chứng ngụy tạo. Trước tòa, chồng tôi có cho biết trong quá trình lấy lời khai, điều tra viên đã chọn ra 2 trong số những bài thánh ca do chồng tôi sáng tác rồi buộc ông phải chọn một bài làm quốc ca. Họ lấy hòn đá họa hình con rùa trong khu du lịch sinh thái rồi ép cho đó là biểu tượng quốc huy của chúng tôi. Chúng tôi không có cờ, họ lại lấy hình tượng viên dung kỳ của đạo Phật rồi ép cho đó là quốc kỳ. Viên đá nhỏ có hình giống chữ Hán mà ban giám đốc nhặt được sau một trận lở đất ở khu sinh thái, điều tra viên đã cho đó là con dấu. Đó là tất cả bằng chứng của tòa đưa ra để buộc chồng tôi cùng đệ tử của ông vào tội danh âm mưu lật đổ chính quyền. Trước tòa, cả 22 người đều phủ nhận việc họ có quốc huy, quốc kỳ, quốc ca và con dấu để chuẩn bị cho một nhà nước mới. Thế nhưng tòa vẫn giữ lại chi tiết này trong kết luận điều tra. Chưa dừng lại đó, ngày 17/07/2014, công an tỉnh Phú Yên đã bắt giam thêm 3 người trong tổ làm đá của công ty. Như vậy, tính cho đến nay, công an đã bắt tổng cộng 25 người trong khu du lịch sinh thái Đá Bia, tức trong Hội đồng Công Luật Công án Bia Sơn. Ôi! Thật là trớ trêu và cay đắng làm sao”.
KIẾN NGHỊ:
Qua toàn bộ nội dung trình bày trên, để đảm bảo sự thật khách quan, đảm bảo tôn trọng pháp luật, đảm bảo không oan sai, kính đề nghị Quý lãnh đạo xem xét giải quyết: Có kháng nghị theo trình tự thủ tục Giám đốc thẩm đối với Bản án sơ thẩm số 04/2013/HSST ngày 4/2/2013 của TAND tỉnh Phú Yên để xét xử lại vụ án theo thủ tục Giám đốc thẩm.
Trân trọng cảm ơn!
Đính kèm:
– Bản án sơ thẩm số 04/2013/HSST ngày 04/02/2013
– CMND, hộ khẩu
– Một số tài liệu ông Phan Văn Thu thuyết giảng bị Tòa án cho là tài liệu với nội dung âm mưu lật đổ chính quyền: Cương lĩnh công luật đại hóa, 55 điều trợ luật, Cửu Kinh Minh Triết
– Một số Hình ảnh với nội dung sinh hoạt tôn giáo của Ân Đàn Đại Đạo trước và sau năm 1975
– Danh sách chữ ký của những người ủng hộ kêu gọi sự xem xét công bằng từ phía Nhà nước cho những người đang thụ án.
Bình Định, ngày 25tháng 05năm 2015
Người làm đơn
Võ Thị Thanh Thúy