Lịch sử Việt Nam đầu thế kỷ 20 vẫn còn nhiều bí ẩn do sự bưng bít, tuyên truyền một chiều, thần thánh hóa sự kiện để tô hồng chuốt lục đánh bóng công trạng của đảng Cộng sản Việt Nam. Cả một guồng máy tuyên truyền đồng loạt nhai đi nhai lại để nhồi nhét vào tâm thức người dân để họ tin rằng đó là sự thật về cuộc cách mạng mùa Thu 19-8-1945. “Nào là cuộc ‘tổng khởi nghĩa giành chính quyền’ được ‘chuẩn bị công phu’, ‘diễn ra nhịp nhàng trên cả nước’ và đã ‘thành công rực rỡ’, đưa Việt Nam ‘bước vào một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội’. Nào là “cuộc cách mạng Mùa Thu ‘là thắng lợi của chủ nghĩa Mác – Lênin được vận dụng một cách sáng tạo vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể của cách mạng Việt Nam, là thắng lợi của tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối cách mạng đúng đắn và đầy sáng tạo’ của Đảng Cộng sản Việt Nam”.
Để phục hồi sự thật lịch sử, trả lại những gì của lịch sử cho lịch sử, chúng ta phải tìm hiểu những sự kiện lịch sử đã xảy ra trong bối cảnh lịch sử Việt Nam vào thời điểm đó. Cuối thế kỷ thứ 19, thực dân Pháp xâm chiếm Việt Nam và chính thức thống trị dân tộc Việt ngày ký kết hiệp ước Patenôtre 6-6-1884 nhưng đến đầu thế kỷ 20, thế giới mới biết đến Việt Nam nhiều hơn với “Tiếng Bom Sa Điện” của anh hùng Phạm Hồng Thái ném bom toan giết viên Toàn Quyền Pháp Merlin tại khu Tô giới Liệt Cường Sa Điện bên bờ sông Châu Giang ở Trung Quốc tối 20-6-1924. Cảnh sát Tô Giới đuổi theo gấp nên Phạm Hồng Thái nhảy xuống sông Châu Giang tự vận và được nhân dân vùng này vớt lên và chôn cất trong nghĩa trang Hoàng Hoa Cương nơi chôn cất 72 Liệt sĩ hy sinh trong cuộc cách mạng dân chủ do Tôn Dật Tiên lãnh đạo.
Sau tiếng bom Sa Điện, tháng 7 năm 1925, nhà cách mạng Phan Bội Châu bị thực dân Pháp bắt tại Trung Quốc. Ngày 23-11-1925, tòa án thực dân Pháp kết án nhà cách mạng Phan Bội Châu chung thân khổ sai khiến cả nước xôn xao bàn tán[1]. Một phong trào rầm rộ trên toàn quốc và cả chính giới tại nước Pháp cũng đòi ân xá ngay cho nhà cách mạng. Do áp lực mạnh mẽ của công luận, Toàn Quyền Pháp phải ký giấy ân xá và trả tự do cho nhà cách mạng ngày 24-12-1925 và đưa về quản thúc tại Bến Ngự Huế. Ngọn lửa cách mạng chống Pháp lại bùng lên với cuộc Tổng khởi nghĩa Yên Bái với 13 anh hùng Quốc Dân Đảng bước lên ‘Đoạn Đầu Đài’. Ngày 10-5-1941, đảng Cộng sản Đông Dương thành lập tổ chức Việt Nam Đồng Minh Hội để cán bộ CS núp dưới danh nghĩa này hoạt động lợi dụng lòng yêu nước của nhân dân Việt Nam kháng chiến chống Pháp để bành trướng chủ nghĩa Cộng Sản ở Đông Dương. Tháng 9 năm 1940, Phục Quốc Quân thuộc tổ chức Việt Nam Phục Quốc Đồng minh Hội do Trần Trung Lập, Đoàn Kiểm Điểm lãnh đạo khởi nghĩa tại Lạng Sơn. Đoàn Kiểm Điểm tử trận, Trần Trung Lập bị bắt và bị thực dân Pháp xử tử hình. Thực dân Pháp vừa đàn áp xong cuộc khởi nghĩa của Phục Quốc Quân thuộc Việt Nam Quang Phục Hội tháng 9 năm 1940 ở Lạng Sơn thì tháng 9 năm 1941, quân Nhật vượt biên giới vào Đông Dương. Tình hình Việt Nam bước qua một khúc quanh lịch sử khi quân Nhật có mặt ở Đông Dương.
Tháng 10 năm 1944, Miền Bắc vỡ đê, vụ lúa tháng 10 bị ngập lụt gây thiệt hại lớn cho nông dân. Chính quyền bảo hộ Pháp áp dụng chính sách thu mua bóc lột sức lao động của nông dân với giá rẻ mạt, giá 25 đồng 1 tấn so với giá thị trường 200 đồng để nộp cho quân phiệt Nhật. Tại một số nơi, quân phiệt Nhật bắt nông dân nhổ lúa để trồng cây đay (bố) để cung cấp cho nhu cầu chiến tranh của chúng, trong khi đó Việt Minh lại phát động phong trào đồng loạt cướp kho lúa khắp nơi đem cất giấu… Tất cả đã đưa tới một hậu quả nặng nề là nạn đói kinh hoàng ngày 1-3-1945 năm Ất Dậu khiến gần 2 triệu người bị chết đói trên 10 triệu dân miền Bắc, chiếm gần 1/5 dân số Bắc Việt Nam.
Thế kỷ XIX, sự phát triển của chủ nghĩa tư bản thúc đẩy các cường quốc phương Tây phải đua nhau đem quân đi xâm chiếm thuộc địa để cung cấp tài nguyên phục vụ cho mẫu quốc. Chế độ thực dân với những hình thức bóc lột tài nguyên của các nước thuộc địa đem về làm giàu cho mẫu quốc đã tạo ra những chế độ thống trị dã man các nước nhược tiểu. Chính những bóc lột thậm tệ của giai cấp tư bản với những bất công xã hội nên trào lưu xã hội chủ nghĩa nở rộ như một sự cứu rỗi nhân loại. Trong tình huống đó, chủ nghĩa Cộng sản của karl Marx và Engel được đón nhận nồng nhiệt tại các nước đang phát triển nơi mà giới công nhân đang bị giới tư bản bóc lộ đã nung nấu tinh thần đấu tranh “Giai cấp” tạo điều kiện thuận lợi để chủ nghĩa Cộng sản phát triển khắp nơi như một loài cỏ dại.
Với sức mạnh quân sự áp đảo, Thực dân Pháp đã buộc triều đình nhà Nguyễn phải ký kết hiệp ước Patenôtre 1884 chính thức đặt Việt Nam dưới sự thống trị của nước Pháp. Sau cuộc thế chiến lần thứ nhất 1914-1918, thế giới mới biết đến Việt Nam nhiều hơn với “Tiếng Bom Sa Điện” của anh hùng Phạm Hồng Thái ném bom toan giết viên Toàn Quyền Pháp Merlin tại khu Tô giới Liệt Cường Sa Điện bên bờ sông Châu Giang ở Trung Quốc tối 20-6-1924. Cảnh sát Tô Giới đuổi theo gấp nên Phạm Hồng Thái nhảy xuống sông Châu Giang tự vận và được nhân dân vùng này vớt lên và chôn cất trong nghĩa trang Hoàng Hoa Cương nơi chôn cất 72 Liệt sĩ hy sinh trong cuộc cách mạng dân chủ do Tôn Dật Tiên lãnh đạo.
Sau tiếng bom Sa Điện, tháng 7 năm 1925, nhà cách mạng Phan Bội Châu bị thực dân Pháp bắt tại Trung Quốc. Ngày 23-11-1925, tòa án thực dân Pháp kết án nhà cách mạng Phan Bội Châu chung thân khổ sai khiến cả nước xôn xao bàn tán. Một phong trào rầm rộ trên toàn quốc và cả chính giới tại nước Pháp cũng đòi ân xá ngay cho nhà cách mạng. Do áp lực mạnh mẽ của công luận, Toàn Quyền Pháp phải ký giấy ân xá và trả tự do cho nhà cách mạng ngày 24-12-1925 và đưa về quản thúc tại Bến Ngự Huế.
Ngọn lửa cách mạng chống Pháp lại bùng lên với cuộc Tổng khởi nghĩa Yên Bái với 13 anh hùng Quốc Dân Đảng bước lên ‘Đoạn Đầu Đài’. Cuộc khởi nghĩa tuy thất bại nhưng tạo ra một âm vang lớn phấn kích lòng yêu nước của đồng bào Việt Nam khắp nơi. Trong thời điểm đó, đảng cộng sản Đông Dương đã ra đời với chiêu bài yêu nước, giải phóng dân tộc kết hợp với giải phóng thân phận nghèo khó của công nhân và nông dân nên đã gây dựng phong trào tại một số nơi… Nhân ngày quốc tế lao động 1 tháng 5 năm 1930, đảng bộ Cộng Sản Nghệ An phát động công nhân biểu tình tại nhà máy diêm quẹt Bến Thủy. Cuộc biểu tình đầu tiên được công nhân thợ thuyền tích cực hưởng ứng vì cán bộ CS tuyên truyền là: “chống lại giai cấp chủ nhân bóc lột, chống lại chủ đất, lấy của nhà giàu chia cho người nghèo” nên cộng sản tổ chức liên tiếp 4 cuộc biểu tình cướp chính quyền địa phương lập ra các “Sô Viết” để điều hành, phát động cuộc tranh đấu với địa chủ để phân chia ruộng đất, phân chia thóc lúa. Cuộc biểu tình ngày 12-9-1930 với hàng ngàn người tham dự, thực dân Pháp đã đem máy bay đến ném bom và cho lệnh lính Lê Dương xảsúng bắn vào đoàn người biểu tình. Cuộc đàn áp khốc liệt khiến phong trào “Sô Viết Nghệ Tĩnh” tan rã, Cộng sản phải rút vào hoạt động bí mật.
Thời kỳ này, thế giới lại bước vào cuộc Thế chiến lần thứ hai với sự tham dự của quân phiệt Nhật tại châu Á. Khi thực dân Pháp vừa đàn áp xong cuộc khởi nghĩa của Phục Quốc Quân thuộc Việt Nam Quang Phục Hội tháng 9 năm 1940 ở Lạng Sơn thì tháng 9 năm 1941, quân Nhật vượt biên giới vào Đông Dương. Tình hình Việt Nam bước qua một khúc quanh lịch sử khi quân Nhật có mặt ở Đông Dương.
Tháng 10 năm 1944, Miền Bắc vỡ đê, vụ lúa tháng 10 bị ngập lụt gây thiệt hại lớn cho nông dân. Trong khi đó, chính quyền bảo hộ Pháp áp dụng chính sách thu mua bóc lột sức lao động của nông dân với giá rẻ mạt, giá 25 đồng 1 tấn so với giá thị trường 200 đồng để nộp cho quân phiệt Nhật. Tại một số nơi, quân phiệt Nhật lại bắt nông dân nhổ lúa để trồng cây đay (bố) để cung cấp cho nhu cầu chiến tranh của chúng, ngoài ra Việt Minh lại phát động phong trào đồng loạt cướp kho lúa khắp nơi đem cất giấu… Tất cả đã đưa tới một hậu quả nặng nề là nạn đói kinh hoàng ngày 1-3-1945 năm Ất Dậu khiến gần 2 triệu người bị chết đói trên 10 triệu dân miền Bắc, chiếm gần 1/5 dân số Bắc Việt Nam.
Lúc 18 giờ ngày 9-3-1945, Đại sứ Nhật Matsumoto gửi tối hậu thư cho Decoux, toàn quyền Pháp ở Đông Dương (Việt, Miên, Lào) phải giao nộp chính quyền, đặt tất cả quân đội và công sở Pháp dưới quyền Tổng Tư Lệnh quân đội Nhật. Pháp từ chối. Đúng 20 giờ, quân Nhật nổ súng tại Hà Nội, Sài Gòn và khắp Đông Dương. Chỉ trong 1 đêm, quân Nhật làm chủ tình thế. Toàn quyền Decoux và các quan chức cao cấp của Pháp đều bị Nhật bắt giữ.
Ngày 11-3-1945, Hoàng Đế Bảo Đại triệu tập Cơ Mật Viện triều Nguyễn họp khẩn cấp và ra tuyên bố “Huỷ bỏ Hiệp ước 1884 và Khôi phục chủ quyền cuả Việt Nam”. Ngày 12-3-1945, Cao Miên tuyên bố độc lập và ngày 15-4-1945, Lào tuyên bố độc lập.
Ngày 17-4-1945, Vua Bảo Đại cử Trần Trọng Kim thành lập chính phủ và cử Phan Kế Toại làm Khâm Sai Bắc bộ, Nguyễn văn Sâm làm Khâm Sai Nam bộ và Trần văn Lai làm Đốc Lý Hà Nội. Ngày 8-5-1945, Chính phủ Trần Trọng Kim tuyên bố chương trình Hưng Quốc, lá cờ “Quẻ Ly” được chọn làm quốc kỳ và bài “Đăng Đàn” của triều đình nhà Nguyễn được chọn làm quốc ca. “Chính phủ Trần Trọng Kim ra đời trong những điều kiện khó khăn về chính trị, an ninh và kinh tế như vậy. Trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng Nội các, bên cạnh công tác khẩn cấp cứu trợ nạn đói ở miền Bắc đã làm ngót hai triệu người thiệt mạng, chính phủ Trần Trọng Kim đã ấn định một chương trình sáu điểm:
1. Chuyển giao tất cả các cơ sở hành chính cho các viên chức Việt Nam.
2. Thâu hồi đất Nam Kỳ và các nhượng địa đã dành cho Pháp.
3. Ân xá toàn thể các phạm nhân chính trị.
4. Cho phép thành lập các đảng phái chính trị.
5. Miễn thuế cho công chức, thợ thuyền và dân nghèo.
6. Thiết lập các Ủy ban tư vấn quốc gia để soạn thảo Hiến pháp và nghiên cứu cải tổ chính trị, hành chính và giáo dục. Chỉ trong thời gian bốn tháng (từ 17 – 4 đến 16 – 8), chính phủ Kim đã thực hiện được gần hết chương trình Cứu đói: Bộ Tiếp tế do bác sĩ Nguyễn Hữu Thi cầm đầu nỗ lực điều động việc vận tải thóc từ Nam ra Bắc. Lúc này, Pháp đã mất khả năng ngăn cấm việc tiếp tế gạo và, nhờ sự can thiệp của chính phủ Kim, giới quân phiệt Nhật cũng không còn thi hành chính sách độc đoán về sản xuất nông phẩm… Khoảng tháng 6-1945, khi Thủ tướng Kim gặp Tổng tư lệnh Tsuchihashi để yêu cầu Nhật dứt khoát trả lại ba tỉnh Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng và toàn bộ đất Nam Kỳ cho Việt Nam.
Ngày 6-8-1945, Hoa Kỳ thả trái bom nguyên tử đầu tiên xuống Hiroshima và ngày 9-8-1945, trái bom nguyên tử thứ hai thả xuống thành phố Nagasaki. Ngày 10-8-1945, Nhật Hoàng họp nội các và tuyên bố đầu hàng vô điều kiện. Ngày 13-8-1945, được quốc tế Cộng Sản thông báo, đảng Cộng Sản Đông Dương họp khẩn tại Tuyên Quang quyết định tổng khởi nghĩa, cướp khí giới quân Nhật, chiếm chính quyền trước khi quân đồng minh tới.
Nhân cơ hội, Tổng hội Giáo giới tổ chức biểu tình ủng hộ chính phủ Trần Trọng Kim và nền độc lập của Việt Nam ngày 17-8-1945 với cờ quốc gia thì một số cán bộ Việt Minh bất ngờ trương cờ đỏ sao vàng và tuyên bố “Chính quyền đã về tay nhân dân” rồi hô khẩu hiệu “Ủng hộ Việt Minh”. Đám đông quần chúng từ lâu mong mỏi nền độc lập nên say sưa nhiệt tình ủng hộ cuộc “Cướp Chính Quyền” của một chính quyền đã từ chức. Diễn tiến cuộc cướp diễn đàn, tung cờ, hô khẩu hiệu ủng hộ Việt Minh hết sức bất ngờ, chớp nhoáng nên đám đông như một phản ứng tự nhiên hô khẩu hiệu mà chẳng biết Việt Minh là cái gì, chỉ nghĩ rằng là một phong trào yêu nước. Sách sử báo chí của đảng CS ca tụng cuộc “Cướp Chính quyền” nhu một cuộc cách mạng gọi là Cách Mạng Mùa Thu. Cả một guồng máy tuyên truyền đồng loạt nhai đi nhai lại để nhồi nhét vào tâm thức người dân để họ tin rằng đó là sự thật về cuộc cách mạng mùa Thu 19-8-1945.”.
Ngày 2-9-1945, Hồ Chí Minh đọc tuyên ngôn Độc Lập khai sinh nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Đứng trên phương diện Quốc Tế Công Pháp thì Việt Nam đã chính thức độc lập khi Hoàng Đế Bảo Đại triệu tập Cơ Mật Viện Triều Nguyễn và công bố hủy bỏ hiệp ước Patenôtre 1884 và tuyên bố nền Độc lập của Việt Nam của một chính quyền hợp pháp kế thừa chính thống của một quốc gia Việt Nam. Điều đáng tiếc là tuyên bố Độc Lập và khai sinh chính quyền quốc gia Việt Nam với chính phủ Trần Trọng Kim bị ảnh hưởng ít nhiều là ảnh hưởng của chế độ Quân Phiệt Nhật nên không được quốc tế ủng hộ. Trong khi đó, bản tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh dù có viện dẫn phần đầu của Bản Tuyên Ngôn Độc Lập của người Mỹ và một câu trong Bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền và Dân Quyền của Cách Mạng Pháp chỉ để mong Hoa Kỳ công nhận trước khi quân đồng minh vào Việt Nam. Chính vì vậy, khác với các bản tuyên ngôn độc lập của các quốc gia tuyên xưng nhân quyền, dân quyền thì bản tuyên ngôn 2-9-1945 không phải là một tuyên ngôn nhân quyền mà chỉ nhằm mục đích cướp thời cơ, khai sinh nước VNDCCH đặt quốc tế trước sự kiện đã rồi để mong Hoa Kỳ và các nước công nhận… Thế nhưng không một nước nào công nhận cái gọi là Nhà Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa.
Năm 1949, Sau khi Mao Trạch Đông chiếm được toàn bộ lãnh thổ TQ đến ngày 18-1-1950, nhà nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa công nhận Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và ngày 31-1-1950, Liên Bang Sô Viết công nhận nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa là nhà nước Công Nông đầu tiên ở Đông Nam Á. Trước hiểm họa làn sóng đỏ sẽ tràn xuống Đông Nam Á,ngày 7-2-1950, Hoa Kỳ, Anh và các nước công nhận chính phủ Quốc Gia Bảo Đại để “Be Bờ”, ngăn chặn làn sóng đỏ xuống phương Nam. Cuộc chiến Việt Nam đã trở thành cuộc chiến tranh ý thức hệ giữa một bên là chủ nghĩa CS xâm lược và một bên là thế giới tự do ngăn chặn làn sóng đỏ của chủ nghĩa CS. Hoa Kỳ đã liên tục làm áp lực buộc chính phủ Pháp phải trao trả độc lập cho quốc gia Việt Nam
Lịch sử đã chứng minh rằng, Cộng sản Việt Nam đã núp dưới danh nghĩa kháng chiến, lợi dụng lòng yêu nước của người dân Việt Nam để nhuộm đỏ cả Đông Dương, bành trướng chủ nghĩa Cộng sản mở đường xuống Đông Nam Á. Chính Hồ Chí Minh đã không giấu giếm sự thật khi gặp Salisbury tai Hà Nội năm 1965: “Những ngày tuyệt diệu rồi đây sẽ đến khi tất cả các đồng chí đã đến bên nhau. Tất cả mọi người đang nỗ lực tranh đấu để đem đến sự thành công của Miền Bắc Việt Nam, đó chính là sự thành công của những người Nga, những người Tàu, và những chế độ tại Đông Âu. Tất cả đều muốn làm cho Miền Bắc Việt Nam trở thành một mẫu mực, một nơi triển lãm thu hút muôn người, và một mẫu mực lý tưởng của chủ nghĩa Cộng sản có thể đưa đến cho các dân tộc tại Á Châu và đặc biệt nhất là vùng Đông Nam Á”. Đây là bằng chứng quá rõ ràng cho mọi người thấy Hồ Chí Minh đã không bao giờ thực tâm tranh đấu vì Độc Lập, Tự Do, Hạnh Phúc cho dân tộc Việt Nam mà sử dụng cả dân tộc Việt Nam như một công cụ để phục vụ tham vọng bành trướng của Đế Quốc Cộng Sản Nga Sô. Sau khi chiếm được cả miền Nam, chính Lê Duẫn, tổng bí thư của đảng CSVN đã xác nhận một lần nữa: “Chúng ta đánh cho Mỹ cút ngụy nhào” là đánh cho Liên Sô, đánh cho Trung Quốc và ngày nay, yêu nước là yêu xã hội chủ nghĩa”. Bộ mặt thật của CS đã phơi bầy trước lịch sử. Cuộc kháng chiến của dân tộc đã bị lợi dụng, Hồ Chí Minh và đảng Cộng sản Việt Nam đã hy sinh hàng triệu người VN vô tội để bành trướng chủ nghĩa CS, nhuộm đỏ cả Đông Dương.
Sự thật lịch sử đã được phục hồi sau mấy thập niên bị Cộng sản bưng bít. Trước đây, chúng ta bị bộ máy tuyên truyền của Cộng sản lừa dối rằng lực lượng đồng minh Hoa Kỳ, Úc Đại Lợi, Tân Tây Lan, Phi Luật Tân, Thái Lan và Đại Hàn đến Việt Nam để“Xâm lược” một nước nhỏ bé là Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và nhân dân miền Nam Việt Nam. Thế nhưng, sau hơn 30 năm, chúng ta mới biết cả Liên Sô, Trung Cộng lẫn Bắc Triều Tiên đều tham chiến ở Việt Nam. Việt Nam trở thành chiến trường giữa 2 khối Cộng Sản và thế giới tự do. Sự thật lịch sử này được một phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc phát biểu như sau:“Trong giai đoạn giúp Việt Nam chống Mỹ, nhân dân Trung Quốc đã vì Việt Nam mà đóng góp không biết bao nhiêu tài lực, nhân lực, vật lực, pháo binh, công binh, nhân viên đường sắt, nhân viên thư tín, hải quân, không quân, hậu cần vận tải … 16 sư đoàn, hơn 300.000 lính Hồng quân Trung Quốc ở Việt Nam trong hơn 3 năm 9 tháng đấu tranh. Tác chiến đối không 2153 lần, bắn rơi 1707 máy bay Mỹ, bắt sống 42 phi công Mỹ, viện trợ Việt Nam xây dựng Hải Phòng, Hòn Gai, các thành phố duyên hải và xây dựng hệ thống phòng ngự ở tam giác châu thổ sông Hồng, tu sửa và xây dựng các tuyến đường huyết mạch, sân bay, tuyến đường sắt đông tây, mở đường trên biển chuyên chở vũ khí vào miền Nam và chi viện cho đường mòn Hồ Chí Minh. Từ năm 1950 đến năm 1978, Trung Quốc đã viện trợ cho Việt Nam hơn 200 tỷ mỹ kim, trong đó 93% là viện trợ không hoàn lại, đó là chưa kể xương máu mà 1446 chiến sỹ đã hy sinh, 4200 người trọng thương… những hy sinh đó tuyệt đối không thể tính được bằng tiền”. Đây chính là lý do tại sao tập đoàn Việt gian CS phải dâng đất-nhường biển, bán nước từng phần cho đế quốc mới Trung Cộng.
Gần đây, chúng ta mới biết được là các đơn vị phòng không Liên Sô và phi công Bắc Hàn cũng tham dự cuộc chiến tranh Việt Nam. Cựu Trung Tướng Yevgeni Antonov, nguyên trưởng đoàn cố vấn quân sự của Liên Sô tại Việt Nam tiết lộ rằng Liên Bang Sô Viết đã gởi một trung đoàn phòng không với đầy đủ vũ khí và trang bị sang Việt Nam tham chiến và 13 người lính phòng không Liên Xô đã chết trên chiến trường miền Bắc. Trung đoàn phòng không Liên Sô đã bắn rơi những chiếc máy bay Mỹ đầu tiên trên bầu trời Hà Nội, kể cả chiếc chiến đấu cơ A-4 Skyhawk của Thượng Nghị Sĩ John McCain. Theo tiết lộ của cựu Trung tướng Liên Sô Yevgeni Antonov, chỉ huy lực lượng phòng không Liên Sô tại Việt Nam từ 1969 đến 1970 thì Việt Nam là một phòng thí nghiệm cho vũ khí Liên Sô để chuẩn bị cho việc máy bay Mỹ và NATO oanh tạc vào nội địa Liên Sô trong trường hợp có chiến tranh giữa hai khối sau này.
Sự thật lịch sử đã chứng minh rằng chính Hồ Chí Minh, cán bộ của Cộng sản Quốc tế đã đưa dân tộc vào cuộc chiến tranh ý hệ, hy sinh xương máu của hàng triệu người dân lành vô tội để bành trướng chủ nghĩa Cộng sản xuống toàn cõi Đông Dương.
Sinh lực của dân tộc bị tiêu hao trầm trọng, hàng triệu người dân vô tội hy sinh, đất nước nghèo nàn tan hoang đổ nát, lòng người ly tán. Cái gọi là thống nhất đất nước chỉ là sự xâm lăng của bạo lực và hận thù khiến dân tộc Việt Nam ly tán, hàng triệu người phải bỏ nước ra đi tìm tự do.
Cộng sản Việt Nam đã phơi bầy bản chất độc tài dã man trả thù, hành hạ đày đọa quân dân cán chánh Việt Nam Cộng Hòa trong các trại tù gọi là “Cải tạo” cùng với biện pháp đổi tiền, đánh tư bản mại sản, bắt đi kinh tế mới để tước đoạt tài sản của nhân dân… Cộng sản Việt Nam tuyên truyền rằng đã “Thống nhất được đất nước” nhưng thực tế đã chứng minh rằng cái gọi là giải phóng miền Nam đã để lại trong lòng dân tộc một sự phân ly ngăn cách không gì có thể hàn gắn được.
Từ tháng 8-1945 đến 1-1946, Hồ Chí Minh đã gửi 8 bức thư cho TT Harry S Truman và bộ Ngoại giao Hoa Kỳ kêu gọi Hoa Kỳ công nhận và giúp ngăn quân đội Pháp trở lại Đông Dương. Thế nhưng, toán OSS cơ quan tình báo chiến lược của Hoa Kỳ ở Đông Dương do Thiếu tá Thomas More và Đại úy Patty sống cùng với Hồ Chí Minh trong hang Pắc Pó đã báo cáo sự thật về con người Hồ Chí Minh về Hoa Thịnh Đốn. Hồ Chí Minh tên thật là Nguyễn Ái Quốc, cán bộ của Đệ tam quốc tế CS nên vẫn sinh hoạt đảng, hát quốc tế ca, học tập chủ nghĩa Mác Lê cho các đảng viên Cộng Sản. Chính vì vậy, Hoa Kỳ đã không công nhận chính phủ Việt Nam dân Chủ Cộng Hòa của Hồ Chí Minh. Nếu là bất cứ người Việt Nam nào thì vận mệnh đất nước Việt Nam đã thay đổi ngay từ lúc đó, nếu không độc lập ngay thì cũng hưởng qui chế chế độ Ủy trị của Liên Hiệp Quốc. Sau thế chiến lần thứ hai, với sự ra đời của Liên Hiệp Quốc và nhất là chủ trương giải thực của Tổng Thống Hoa Kỳ Roosevelt đã mở đầu cho phong trào dân tộc tự quyết của các quốc gia Đông Nam Á. Indonesia tuyên bố độc lập ngày 17 tháng 8 năm 1945, Hoa Kỳ trao trả độc lập cho Philippines năm 1946, Burma giành lại độc lập từ tay người Anh năm 1948 và Pháp chính thức rút khỏi Đông Dương sau hiệp định Genève 20-7-1954. Người Anh đã trao lại độc lập cho Malaya năm 1957 và sau đó là Singapore, Sabbah và Sarawak năm 1963 trong khuôn khổ Liên bang Malaysia.
Ngày 6-3-1946, Hồ Chí Minh ký kết hiệp ước sơ bộ với Pháp cho phép quân Pháp đổ bộ vào Bắc bộ thay thế quân đội Trung Hoa Dân Quốc. Thủ đoạn nham hiểm của họ Hồ nhằm loại bỏ Quốc Dân Đảng Trung Hoa hậu thuẫn cho Việt Nam Quốc Dân Đảng từ trước đến nay. Ngày 6-7-1946, khai mạc hội nghị giữa Pháp và VN tại Fontainbleau. Phái đoàn VN do Phạm văn Đồng cầm đầu. Sau 2 tháng, hội nghị bế tắc chỉ đưa ra một “Thỏa Ước Tạm Thời” không bao giờ được thi hành nên chiến tranh giữa Pháp và Việt Minh bùng nổ từ Hà Nội ngày 19-12-1946.
Ngày 8-3-1949: Bảo Đại ký hiệp định Élysées với Tổng Thống Pháp Vincent Auriol trong đó, tuyên bố thành lập quốc gia Việt Nam do Bảo Đại làm Quốc Trưởng. Quốc gia Việt Nam là một quốc gia thành viên trong Liên Hiệp Pháp. Ngày 24-4-1949, Quốc Trưởng Bảo Đại về nước. Ngày 1-7-1949, thành lập chính phủ Bảo Đại. Các chính phủ kế tiếp do Thủ tướng chính phủ Nguyễn Phan Long (21-1-1950), chính phủ Trần văn Hữu (6-5-1950), chính phủ Nguyễn văn Tâm (6-6-1952), chính phủ Bửu Lộc (11-1-1954) và chính phủ Ngô Đình Diệm (7-7-1954).
Ngày 1-10-1949, sau khi chiếm Bắc Kinh và phần lớn lục địa Trung Quốc, Mao Trạch Đông tuyên bố thành lập nhà nước Cộng Hòa Nhân dân Trung Quốc. Ngày 2-10-1949, Liên Sô công nhân Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc. Ngay sau khi Mao Trạch Đông chiếm được Trung Hoa lục địa năm 1949 đã công khai tuyên bố: “Tất cả các lãnh thổ và hải đảo thuộc khu vực ảnh hưởng của Trung Quốc đã bị phe Đế Quốc chiếm đoạt từ giữa thế kỷ 19 đến sau Cách Mạng 1911, như Ngoại Mông, Triều Tiên, An Nam (Việt Nam), Hồng Kông, Macao cùng những đảo tại Thái Bình Dương như Sakhalin, Đài Loan, Bành Hồ sẽ phải được giao hoàn cho Trung Quốc”. Tháng 8 năm 1965, Mao Trạch Đông tuyên bố trắng trợn ý đồ xâm chiếm Việt Nam như sau:“Chúng ta phải giành cho được Đông Nam châu Á, bao gồm cả Miên, Nam Việt Nam, Thái Lan, Miến Điện, Malaysia và Singapore. Việt Nam là bàn đạp tiến xuống phía Nam, chúng ta phải chiếm cho bằng được …”. [2]
Ngày 18-1-1950, nhà nước Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc chính thức thừa nhận nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Hồ Chí Minh lãnh đạo. Ngày 31-1-1950, Liên bang Sô Viết thừa nhận Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa. Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Hồ Chí Minh lãnh đạo đã chính thức đứng vào hàng ngũ các nước cộng sản nên Trung Quốc bắt đầu công khai viện trợ vũ khí tối tân cho Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa. Hồi ký của La Quý Ba nguyên cố vấn và Đại sứ Trung Quốc tại Việt Nam từ 1945-1954 đã viết: “Tháng 1, 1950, Hồ Chí Minh đích thân bí mật đến Bắc Kinh, yêu cầu Trung Ương Đảng Cộng Sản Trung Quốc viện trợ Việt Nam chống Pháp. Trung ương đảng ta theo yêu cầu của Hồ chí Minh và Trung ương Đảng Đông Dương, đã báo cáo và được Mao Chủ Tịch đồng ý, quyết định cử tôi bí mật sang Việt Nam, làm đại diện liên lạc giữa Trung ương đảng Cộng Sản Trung Quốc và Trung Ương Đảng Cộng sản Đông Dương…”.
Ngày 7-2-1950, Hoa Kỳ, Anh quốc thừa nhận quốc gia Việt Nam do Quốc Trưởng Bảo Đại lãnh đạo để ngăn chặn sự bành trướng của chủ nghĩa Cộng Sản xuống Đông Nam Á. Kể từ thời điểm này, cuộc chiến Việt Nam không còn là cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc mà đã trở thành cuộc chiến tranh ý thức hệ giữa 2 hệ thống tư tưởng: Chủ nghĩa Cộng Sản và chủ nghĩa Tư Bản của thế giới tự do.
Nhìn lại lịch sử chúng ta thấy rằng cái gọi là “Tuyên Ngôn Độc Lập 2-9-1945” và khai sinh cái gọi là “Nhà Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa”, trên thực tế chỉ là một cuộc “Cướp Chính Quyền” đúng nghĩa của nó. Luận điệu tuyên truyền cho rằng “là cuộc cách mạng Mùa Thu ‘là thắng lợi của chủ nghĩa Mác – Lênin được vận dụng một cách sáng tạo vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể của cách mạng Việt Nam, là thắng lợi của tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối cách mạng đúng đắn và đầy sáng tạo’ của Đảng Cộng sản Việt Nam” là hoàn toàn láo khoét. Cái gọi là “Độc Lập-Tự Do-Hạnh Phúc” chỉ là bánh vẽ, là chiêu bài mê hoặc quần chúng. Thực tế lịch sử đã chứng minh rằng đảng Cộng sản Việt Nam không hề được quần chúng ủng hộ vì nếu được nhân dân ủng hộ thì tại sao đảng ngày 16-3-1951, đảng CSVN phải đổi tên là Đảng lao Động Việt Nam, tổ chức trá hình của đảng Cộng Sản Đông Dương do Trường Chinh làm Tổng Bí Thư để kêu gọi công nhân và nhân dân chống Pháp. Sau khi xâm chiếm miền Nam, ngày 25-4-1976 Cộng hòa Lâm Thời Miền Nam Việt Nam tổ chức bầu cử quốc hội. Ngày 2-7-1976, Quốc hội tuyên bố thống nhất Việt Nam, đặt tên nước là Cộng Hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, cờ và Hiến pháp là cờ và Hiến pháp của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Cái gọi là “Mặt trận Dân tộc Giải phóng” và “Chính quyền Lâm thời Miền Nam Việt Nam” bị giải tán. Ngày 14 đến 20-12-1976, Đại hội Đảng Lao Động họp lần đầu quyết định lấy lại tên là đảng Cộng sản Việt Nam, Lê Duẫn dược bầu là Tổng Bí Thư. Bộ mặt thật của cộng sản đã phơi bầy trước lịch sử sau hơn 25 năm núp dưới danh nghĩa đảng Lao Động, lợi dụng lòng yêu nước của toàn dân để bành trướng chủ nghĩa cộng sản xâm chiến miền Nam, nhuộm đỏ cả Việt, Miên, Lào.
Sự thật lịch sử chứng minh rằng, tập đoàn Việt gian CS đã cướp công kháng chiến biến kháng chiến thành thỏa hiệp với thực dân Pháp để chia đôi đất nước, cướp công giải phóng của cái gọi là MTDTGPMN để nhuộm đỏ toàn cõi VN, mở đường xuống Đông Nam Á cho đế quốc mới Trung Cộng. Lời tuyên bố của Lê Duẫn “Chúng ta đánh đế quốc Mỹ là đánh cho Liên Sô, đánh cho Trung Quốc” và mới đây, lời phát biểu của Nguyễn Phú Trọng, TBT đảng CS Việt Nam tại Trung tâm Nghiên Cứu Chiến Lược và Quốc tế HK rằng “Cuộc chiến Việt Nam không phải là để chống lại đất nước Hoa Kỳ, lại càng không phải là chống lại nhân dân Hoa Kỳ”. Tất cả đã phơi bầy một sự thật phũ phàng là tập đoàn Việt gian CS đã lợi dụng lòng yêu nước của toàn dân để phục vụ cho phong trào CS quốc tế để nhuộm đỏ Việt Miên Lào và đau đớn tủi nhục vô cùng khi tập đoàn Việt gian CS bất nhân hại dân bán nước đã hy sinh hàng chục triệu người Việt Nam vô tội, thi hành lệnh của quan thày Trung Quốc tiêu hao sinh lực dân tộc Việt để ngày nay đế quốc mới Trung Cộng dễ dàng thao túng thống trị dân tộc Việt. Chính vì thế, tập đoàn Việt gian CS chính là “Tội Đồ của Dân Tộc”: Trời không dung, Đất chẳng tha. Thần Người đều căm hận. Chắc chắn tập đoàn Việt gian CS bất nhân hại dân bán nước sẽ phải cúi đầu chịu tội trước Phiên Tòa Lịch Sử trong “Ngày Toàn Dân Phán Xét” nay mai.
Phạm Trần Anh
[1] Các tài liệu cũng như chứng cứ sau này cho biết chính Lý Thụy tức Hồ Chí Minh và Lâm Đức Thụ chủ mưu việc này để mưu dùng bàn tay của thực dân Pháp giết chết một lãnh tụ quốc gia đối thủ của cộng sản, đồng thời nhận được một món tiền lớn để cả 2 cùng cưới 2 chị em người Tàu. Sau ngày “Cách mạng tháng Tám”, Lâm Đức Thụ về Việt Nam bị Hồ Chí Minh chỉ thị mật cho Việt Minh giết chết để bịt miệng tại Thái Bình.
[2] Bạch thư của nhà nước CHXHCNVN “Sự thật về quan hệ Việt Nam Trung Quốc 30 năm qua. Cách Mạng Trung Quốc và Đảng Cộng Sản Trung Quốc xuất bản ở Bắc Kinh năm 1954).