Một Tách Café Cho Hai Người
“Hạnh phúc là một tách café và nhạc Trịnh Công Sơn”
“Hạnh phúc là một tách café và nhạc Trịnh Công Sơn…”
Đấy là một trong những định nghĩa về “hạnh phúc”, đọc được trong một tuyển tập những bài nhận định về âm nhạc Trịnh Công Sơn (TCS), ấn hành ở trong nước. Tôi không rõ người viết câu ấy đã căn cứ vào đâu để đưa ra định nghĩa này. Thực trạng đời sống và sinh hoạt văn hóa văn nghệ ở trong nước chắc? Bao nhiêu là quán xá lớn, nhỏ ở ngoài đường, trên phố thường xuyên “chơi” nhạc TCS để thu hút khách và để những người khách bước vào đó tìm kiếm chút hạnh phúc.
Café một mình, café hai mình
Hạnh phúc như thế kể ra cũng đơn giản. Chỉ là chuyện ngồi quán, mắt nhìn từng giọt café lặng lẽ nhỏ từng giọt, từng giọt, trong lúc tai lắng nghe tiếng nhạc vỗ về, để suy gẫm chuyện đời, cõi sống cõi chết, phận người phận mình, hay chỉ để ngậm ngùi tiếc thương về một cuộc tình đã mất, một người tình đã xa, và để thấy…
đời mình là những quán không
đời mình là những chuyến xe…,
hoặc
tôi là ai mà còn trần gian thế?
tôi là ai mà yêu quá đời này?…,
hoặc
tình ngỡ đã phôi pha / nhưng tình vẫn còn đầy
người ngỡ đã đi xa / nhưng người vẫn quanh đây…
Chỉ cần một tách café và một chút nhạc TCS là… “cũng đủ lãng quên đời” (1). Thế nhưng, café đâu có bắt buộc phải “đi” với nhạc họ Trịnh. Người ta vẫn có thể nói khác đi một chút:
“Hạnh phúc là một tách café và nhạc…” (của ai đó mình yêu thích), hoặc
“Hạnh phúc là một tách café và tiếng hát…” (của ai đó mình yêu thích), hoặc
“Hạnh phúc là một tách café và khói thuốc”, hoặc
“Hạnh phúc là một tách café và bạn bè”, hoặc
“Hạnh phúc là một tách café và người mình yêu”… v.v và v.v.
Tương tự “rượu ngon” phải có “bạn hiền”, café ngon phải đi với cái gì “ngon” nữa thì mới ngon. Cần phải “café và…” cái gì đó nữa, chứ “café một mình” thì chưa đủ… hạnh phúc.
“Một tách” (café) thì cũng được vậy nhưng phải có “hai mình” thì mới ngon. Kinh nghiệm này có được từ một quán café ở đường Cao Thắng, Saigon, trước năm 1975. Café Chiêu. Quán này không có cô chủ quán (hay cô cashier) xinh đẹp nhưng café khá ngon và cách bày biện bàn ghế, tranh ảnh, cây cảnh… với những mầu sắc tối, đậm, hài hòa (màu nâu và café sẫm là những “gam” màu chính), tạo cảm giác ấm cúng, trầm lặng. Đến quán café này là phải đến vào buổi tối, phải ngồi ở vuông sân nhỏ ở ngoài vườn, trong bóng tối mờ mờ tỏa ra từ những ngọn đèn màu vàng đục, nghe nhạc trôi đi chầm chậm, nghe đêm trôi đi chầm chậm…
“Thưa anh chị dùng gì?”
“Café sữa nóng. Một tách.”
“Thưa chị dùng gì?”
“Vừa nói xong. Một café sữa nóng.”
“Thưa… vậy là hai café sữa nóng?”
“Không. Một café sữa nóng.”
Cô bé thoáng chút bối rối, nhưng rồi quay đi, không hỏi han gì nữa. Lát sau, mang ra một tách café, đặt nhẹ lên mặt bàn.
“Anh thử xem, vừa chưa?” Những ngón tay xinh xắn khuấy nhẹ chiếc thìa nhỏ.
“Em thử đi. Em vừa là… anh vừa.”
“Không. Anh thử đi.”
“Không. Thử thách nhau làm gì. Khỏi cần thử cũng biết là ngon.”
Vậy đó, chúng tôi nói với nhau bằng những “ngôn ngữ của tình yêu”. Rồi chúng tôi chia nhau tách café, như chia nhau những thời khắc của hạnh phúc, những thời khắc của tình yêu. Chúng tôi nhấm nháp từng ngụm nhỏ café, như nhấm nháp từng ngụm nhỏ hạnh phúc, từng ngụm nhỏ tình yêu. Chúng tôi nhắp dè sẻn từng ngụm café, gần như chỉ chạm môi, như sợ tình yêu sẽ cạn bớt, hạnh phúc sẽ vơi đi.
Một tách café cho hai người. Được quá đi chứ, sao không? Tình yêu là chia sẻ mà. Và khi chúng tôi tìm môi nhau “trong bóng tối mờ mờ tỏa ra từ những ngọn đèn màu vàng đục” ấy, chúng tôi lại san sẻ một lần nữa chút vị café sữa nóng trên những đầu lưỡi. Khi café bắt đầu nguội, chúng tôi gọi một tách khác, và cứ thế… Những lần sau đó, chủ quán biết ý, tự động đặt lên mặt bàn một tách café sữa nóng và lặng lẽ rút lui.
Ngồi bên nhau, có lúc chúng tôi nói đủ thứ chuyện, có lúc chúng tôi thật im lặng. Âm nhạc trôi bềnh bồng lẫn trong hương ngọc lan mơ hồ thoảng trong đêm.
Đêm thơm như một dòng sữa… (2)
Và không gian, thời gian như đọng lại.
Một thời để yêu, một thời để ngồi quán
Lâu lắm mới nghe lại bài hát cũ ấy, giọng hát cũ ấy. Nghe mà nhớ quán café ấy vô cùng.
Cô bạn ấy đã lấy một người khác (trong lúc tôi còn ở trong tù). Chắc cô chẳng còn phút giây nào nhớ đến tôi, cũng như không nhớ nổi những cái tên của những quán café mà cô từng cùng ai đó bước vào. Nhiều năm sau đó tôi có dịp về lại Saigon nhưng không muốn đi ngang con đường ấy. Tôi mong sao con đường ấy đã thay tên (như nhiều con đường đã thay những cái tên lạ hoắc sau ngày thành phố ấy thay tên). Tôi mong sao quán café ấy không còn đấy nữa, như nhiều quán café đã biến mất sau cuộc đổi đời ấy, như cô gái ấy đã biến mất khỏi đời tôi, không để lại dấu vết gì. Nghe nói con đường ấy vẫn còn tên cũ, nghe nói quán café ấy vẫn còn tên cũ, vẫn còn ở nơi đấy (và đã “nâng cấp” lên hai, ba tầng gì đó). Tôi không có ý định tìm về chốn cũ, để ngồi nhìn những chiếc ghế trống, và để gọi “một tách café cho… một người”.
Đi tìm lại quán café cũ là tìm về dòng sông đời mình, là tìm lại chút hơi hướm hạnh phúc của những đời người đã cũ, nói văn vẻ là tìm lại những “dấu chân kỷ niệm”, tìm lại bóng hình nào đã đi qua đời mình. Tìm, nhưng không mong gì gặp lại.
“Không hiểu là người ta biết uống café trước khi hay là sau khi biết yêu?” câu hỏi bâng khuâng triết lý ấy đọc được trong một bài “tản mạn” về những quán café quen tên, từ trong nước ra tới ngoài nước. (3) Câu hỏi không dễ trả lời, riêng tôi chỉ biết chắc một điều, tách café ngon nhất phải là tách café của những kẻ đang yêu. Cứ thử yêu đi thì biết, cứ thử nhâm nhi cái chất lỏng sanh sánh, đen đen ấy để thấy vị đăng đắng hay ngòn ngọt của café cũng đâu có khác gì vị đắng hay vị ngọt của tình yêu.
Hầu như ai cũng có một quán café để nhớ, để quên, và để kể lại cho người khác nghe. Nói về những quán café là nói về “một trời kỷ niệm”, là nói về những năm tháng tươi đẹp nhất của một đời người. Ôi, những quán café đã xa như dĩ vãng, những quán café của những ngày vui mơ hồ, những quán café của “một thời để yêu, một thời để… ngồi quán”.
Quán café, một nơi chốn yên bình, một không gian êm đềm. Được ngồi ở quán café mình yêu thích, một nơi sang trọng hay một chỗ tồi tàn, là hạnh phúc thu nhỏ. Những quán café cũng làm thân ái những tình bạn. Ngồi với nhau ở quán café là ngồi giữa những tình bạn ấm áp và dễ chịu.
Café cũng đưa con người lại gần với nhau hơn. Thường thì ít ai (nỡ) từ chối một tách café.
“Café chưa? / Café chứ? / Café nhé?”
“Tuyệt! Cám ơn.”
Những chuyện trò bên tách café thường không phải là vấn đề gì trọng đại, và cũng không có chủ đề chủ điểm gì nhất định. Không có những đề tài lớn lao, to tát được mang ra thảo luận, mổ xẻ trên mặt bàn café. Chỉ là chuyện tâm tình vụn vặt, chuyện thời tiết thời sự, chuyện văn hóa văn nghệ, chuyện mới chuyện cũ, chuyện xưa chuyện nay, chuyện vui chuyện buồn, chuyện lan man, chuyện phất phơ, không đầu không đuôi… Đôi lúc cũng có những bàn cãi, tranh luận sôi nổi, nhưng không gay gắt, hầu hết chỉ là những câu chuyện phiếm, những cuộc tán gẫu, mạn đàm, nói như người Mỹ, chỉ là “a small talk” hoặc “a chat over a cup of coffee”.
Người Mỹ vẫn nói “coffee chat”, “coffee talk”, “coffee time”, “coffee break”…, nhưng ít nghe nói “coffee drop”, và nhất là không gọi giọt café bằng cái tên rất thơ, rất văn nghệ là “giọt buồn”, “giọt đắng”, “giọt sầu”… như người Việt mình (cứ làm như uống café là uống “thú đau thương” vậy), và cũng chẳng có cái thú ngồi nhìn ngắm những giọt buồn, giọt đắng ấy lặng lẽ nhỏ từng giọt, từng giọt xuống tận đáy cốc (hay đáy tim) để mà… “tôi chợt nhìn ra tôi”.
Mỗi quán café có một số khách quen thuộc, khi đã “chịu” quán café nào rồi thì người ta chỉ muốn bước vào quán ấy, chứ không phải quán xá nào khác. Quán café trở thành một nơi gặp gỡ, một chốn hẹn hò lý tưởng. Bạn bè rủ rê nhau, chỉ nói “Ra quán café” là mọi người đều biết rõ điểm hẹn ở đâu. Tất cả, chỉ là thói quen. Từ cái tên quán, từ cô chủ quán (hay cô nàng cashier ngồi làm kiểng), từ những bàn ghế, từ một chỗ ngồi, một góc nhìn, một bức tượng, một bức tranh, một bình hoa hay một bài nhạc quen thuộc.
Những quán café thì lúc nào cũng thiếu, lúc nào cũng đủ ở một thành phố như Saigon. Một quán café là lạ mới khai trương vẫn luôn được khách hàng chiếu cố. Người ta luôn muốn “thử” một quán café mới xem có gì “đặc biệt”. Thử và so sánh với những quán khác.
“Café thế nào? Có ngon không?”
Thường là phải ngon thôi, nếu không phải café ngon thì cũng là cái gì đó ngon, như là khung cảnh, âm nhạc, những câu chuyện, những bạn bè… ngon.
“Thích quán café này chứ?”
“Tại sao hỏi? Thích thì sao, không thích thì sao?”
“Tại vì… ‘Hãy nói cho tôi biết bạn thích quán café nào, tôi sẽ nói cho bạn biết bạn là người như thế nào’.”
Thì ra là vậy… Ôi café, nói mãi chẳng hết chuyện. Không phải tự nhiên mà “cà-phê liền với cà-kê (dê ngỗng) một vần”.
Thế nhưng, tại sao lại café mà không phải là thứ gì khác? Café thì có gì là ghê gớm, quan trọng lắm đâu. Nghĩ cho cùng, café (và thuốc lá) chỉ là sản phẩm của con người chứ đâu có làm nên con người. Không giống như cơm ăn, áo mặc, nhà ở, café (và thuốc lá) chỉ là nhu cầu giả tạo. Ghiền, chỉ là một thói quen khó bỏ.
Liệu người ta có thể nào sống mà không cần đến những quán café vớ vẩn? Liệu café có thực sự mang lại chút hương vị cho cuộc sống, có làm đẹp thêm cho cuộc sống? Liệu thực sự có cái gọi là “văn hóa café” với lại “triết lý café”, hay chỉ là bày vẽ ra cho có chuyện, hay chỉ là một kiểu “tạo dáng” cho ra vẻ “văn nghệ sĩ”?
Đâu đến nỗi như thế! Không có café thì đâu có… chết ai!
Đúng là “đâu có chết ai” thật; thế nhưng, không có café thì kể cũng… buồn. Thử tưởng tượng, một sớm mai nào thức dậy, tìm mãi không ra một quán café trên mặt đất này…
“Một tách café cho hai người”, làm sao mà tìm lại được, vì làm sao mà tắm lại được hai lần một dòng nước sông.
Lê Hữu
(1) “Tự tình dưới hoa”, thơ Đinh Hùng
(2) “Dạ lai hương”, nhạc Phạm Duy
(3) “Cà phê Givral, cà phê Seattle”, tùy bút Nguyễn Công Khanh