Trên thế giới hiện nay có loại giải thưởng danh tiếng nhất: Giải Thưởng Nobel. Ông Alfred Nobel đã đặt ra các giải thưởng này để khuyến khích mọi người mang lại Hòa Bình và Hạnh Phúc cho Nhân Loại. Trong đời ông, ông Nobel đã từng bị dày vò vì sự tàn phá của chất nổ dùng không đúng cách và nhiều lần hối hận về các phát minh của mình.
1. Cuộc đời của Alfred Nobel
Alfred Nobel là con thứ ba trong bốn người con của ông Emmanuel Nobel. Alfred ra đời vào ngày 21 tháng 8 năm 1833 tại Stockholm, nước Thụy Điển. Ngay từ thuở nhỏ, Alfred được mẹ chăm sóc từng bước vì thể chất mỏng manh. Cha của Alfred là một kỹ sư tài giỏi, đã truyền lại cho con trí thông minh, tính cần cù và lòng quả cảm.
Năm Alfred chào đời cũng là năm ông Emmanuel bị phá sản, gia đình Nobel thường phải dọn nhà nhiều lần vì không có khả năng trả tiền thuê nhà. Mấy năm sau, khi ông Emmanuel đang thí nghiệm về vài hóa chất kỳ lạ thì một tiếng nổ lớn phát ra, khiến cho các cửa sổ của căn nhà kế bên bị vỡ tung. Gia đình Nobel vì vậy được lệnh phải rời khỏi thành phố Stockholm. Trong khi ông Emmanuel đang lo sợ bị các chủ nợ đưa ra tòa thì một thám tử người Nga tới gặp ông. Nhân viên này nghe đồn ông Emmanuel đã làm ra được một thứ thủy lôi nên mời nhà phát minh tới Saint Petersburg để trình bày trước Sa Hoàng Nicholas I. Ông Emmanuel liền mang sáng chế của mình sang nước Nga. Sau cuộc biểu diễn, chính quyền Nga bằng lòng xuất tiền cho ông lập ra một cơ xưởng tại Saint Petersburg nhưng với điều kiện các phát minh đều thuộc về nước Nga.
Ông Emmanuel tới nước Nga khi Alfred mới lên 4 tuổi. Trái với các anh em trong nhà, Alfred rất yếu đuối. Cậu bị yếu xương sống, lại mắc thêm chứng nhức đầu và đau dạ dày. Năm lên 8 tuổi, Alfred theo học tại một trường tư ở Stockholm trong một năm rồi ông Emmanuel cho người về đón cả nhà dọn sang nước Nga. Tại thành phố Saint Petersburg, ông Emmanuel đã thuê thầy giáo dạy các con tại nhà về các môn văn chương, sinh ngữ và toán học. Trong số các con, ông thương yêu Ludwig vì cho rằng người con thứ hai này thông minh nhất.
Khi Alfred 16 tuổi, ông Emmanuel nghe nói một người đồng hương với ông là John Ericsson đã di cư sang New York và đã thành công về một thứ động cơ nhiệt. Thêm vào đấy, danh tiếng của Ericsson về chiếc tầu thủy Monitor đã khiến cho ông Emmanuel quyết định gửi một đứa con qua Hoa Kỳ theo học về động cơ dùng cho tầu biển. Vì không thể sống xa Ludwig, ông Emmanuel đã cho Alfred đi học cơ khí tại xưởng máy của Ericsson. Nhưng Alfred đã không sống tại New York được lâu bởi vì bản tính hay gắt gỏng và lệch lạc của ông Ericsson trong khi Alfred lại là con người kém kiên nhẫn.
Sau khi làm xong tờ báo cáo về chiếc động cơ mà cha đã quan tâm, Alfred trở về Pháp. Tại thành phố Paris, Alfred đã yêu tha thiết một thiếu nữ nhưng cô này chết yểu. Quá chán nản, Alfred quay về cơ xưởng của cha để làm việc cho quên tất cả nỗi buồn phiền.
Khi gần 20 tuổi, Alfred Nobel đã nói và viết được nhiều thứ tiếng: Pháp, Anh, Nga rồi mấy năm sau, lại thông thạo thêm các tiếng Đức và Ý. Do thể chất còn yếu đuối, Alfred phải nằm hàng giờ mà đọc sách nhưng chính nhờ thế mà cậu xuất sắc hơn các bạn. Chính tại nước Nga hồi 20 tuổi, Alfred Nobel đã bị ám ảnh bởi một thứ chất nổ ghê gớm. Một hôm, trước một số sinh viên trong phòng thí nghiệm của Đại Học Đường Saint Petersburg, Giáo Sư Sinin để một chất hơi đặc, không màu lên trên một cái đe rồi lấy búa đập: một tiếng nổ phát ra. Đập vào chỗ khác lại có tiếng nổ khác và Giáo Sư chứng tỏ rằng tiếng nổ sinh ra tại nơi đập. Giáo Sư Sinin bảo các sinh viên: chất nổ trông giống như dầu sà lát này tên gọi là Nitroglycérine. Vào năm 1846, Giáo Sư Ascanio Sobrero người Ý, đã phát minh ra nó nhưng ông ta bỏ dở công trình vì xét ra quá nguy hiểm.
Cuộc chiến tranh giữa các nước Nga và Anh Pháp bùng nổ. Alfred cùng ba anh em là Robert, Ludwig và Emil giúp cha trong việc chế tạo máy móc và khí giới. Xưởng cơ khí của ông Emmanuel vào thời kỳ này rất phát đạt, hàng ngàn thợ làm việc quần quật ngày đêm mà không sản xuất đủ khí giới tung ra các mặt trận. Alfred say mê nghề nghiệp, không lúc nào rời cơ xưởng. Chàng thường ăn và ngủ ngay tại nơi làm việc. Trận chiến tranh Crimea (1853-56) đã đến lúc kịch liệt rồi pháo đài Sebastopol đang bị công phá càng làm tăng thêm số đơn đặt mua võ khí. Khi tấn công hải cảng Kronstadt, hạm đội Anh đã đụng phải thủ lôi của ông Nobel và đành phải rút lui. Các sáng kiến của ông Emmanuel đã khiến cho ông được Sa Hoàng gắn huy chương và lại được trao tặng một chiếc đồng hồ vàng. Gia đình Nobel vì vậy càng thêm giàu có, sang trọng.
Lúc chiến tranh chấm dứt, chính quyền Nga không mua võ khí nữa làm cho gia đình Nobel lâm vào tình trạng khủng hoảng vì ông Emmanuel đã bỏ rất nhiều tiền vốn vào một cơ xưởng mới. Người nâng đỡ nhà phát minh là Sa Hoàng Nicholas I đã từ trần trong khi Sa Hoàng Alexander lại hủy bỏ các giao kèo chế tạo súng trường. Thêm vào đó, các người chung vốn hùa nhau đòi lại tiền làm cho gia đình Nobel thêm bối rối. Alfred được cha giao việc đi vay mượn tại châu Âu.
Sau rất nhiều lần thất bại, năm 1861 Alfred vào yết kiến Vua Napoléon Đệ Tam vì vào thời bấy giờ, vị vua này đang nổi danh là người hảo tâm. Alfred được trợ giúp 100 ngàn quan nhưng rồi sang năm sau, ông Emmanuel vẫn phải nhượng lại cơ xưởng của mình cho các chủ nợ, rời khỏi nước Nga, cùng vợ và người con út trở về Stockholm. Alfred lưu lại Nga với hai người anh lớn.
Khi về tới Thụy Điển, ông Emmanuel lại bắt tay vào việc tìm kiếm chất nổ mới để khai phá hầm mỏ và đã tìm ra hai chất mạnh gấp đôi thuốc súng: một chất là hỗn hợp của thuốc súng với acít chlorhydric còn chất kia là thuốc súng trộn với dầu nổ. Khi được thư của cha cho biết việc này, Alfred vội vàng về Heleneborg, lòng đầy tin tưởng. Tới nơi, Alfred thử lại thì bị thất vọng. Chất thứ nhất làm không xuể còn nitroglycerine trộn với thuốc súng thì chỉ nổ khi mới pha, hai giờ sau sức nổ giảm đi rồi để lâu nữa thì chỉ cháy bùng như thuốc súng vậy. Có khi một lọ đựng chất nitroglycerine rơi xuống đất mà không phát nổ, lại có khi khẽ đụng vào lọ đã làm cho chất đó bùng nổ.
Alfred Nobel đã làm rất nhiều thí nghiệm với chất nitroglycerine. Ông đổ chất này vào ống thủy tinh rồi đậy nút, cho vào một ống thiếc đựng thuốc súng, châm lửa rồi quăng vào nước. Một tiếng nổ lớn phát ra, làm bắn vọt nước lên cao chứng tỏ rằng nitroglycerine và thuốc súng đã nổ. Ông làm lại thí nghiệm rất nhiều lần, với các chất pha trộn khác nhau rồi nghĩ ra cách làm hạt nổ bằng fulminat thủy ngân. Ngày nay, phát minh này vẫn còn là căn bản cho việc dùng nitroglycerine và dynamite.
Vào tháng 8 năm 1863, Alfred Nobel được giấy phép chế tạo chất nổ bằng thuốc súng theo phương pháp mới song lúc nào ông cũng lưu tâm đến việc làm nổ nitroglycerine nguyên chất. Không lúc nào ông ngừng thí nghiệm. Ông chinh phục dần dần được chất nổ này. Việc sản xuất chất nổ gia tăng đã mang lại cho ông các mối lợi lớn. Thụy Điển và Phần Lan là hai nước đầu tiên dùng chất nổ của Alfred Nobel để khai phá hầm mỏ. Các nước Anh và Pháp gửi giấy mời nhà phát minh sang biểu diễn còn các chủ nhân của những hầm mỏ tại nước Bỉ và xứ Bohême gửi rất nhiều đơn đặt mua chất nổ. Nhưng chất nổ của Nobel không phải là không mang lại các tai họa.
Ngày 3 tháng 7 năm 1864, xưởng của Alfred Nobel tại Heleneborg-sur-Soder phát nổ, làm cho 4 người chết: Emil, người em ông, một thợ máy, một người làm công và một bà giúp việc vặt. Sau cuộc điều tra, Alfred bị cấm không được chế tạo chất nổ tại nơi này.
Tuy bị đóng cửa xưởng chế tạo nhưng Alfred vẫn cố gắng. Ông cùng hai người khác lập ra một xưởng mới với tiền vốn là 125 ngàn đồng kronors. Vì bị cấm làm xưởng trong khu vực Stockholm, Nobel đặt xưởng chế tạo trên một chiếc bè nổi giữa hồ. Ông vừa là hóa học gia, nhà sản xuất, vừa là kế toán viên. Ông Nobel làm việc không ngừng vì lúc nào cũng muốn chứng minh rằng dầu nổ của ông không nguy hiểm. Lúc đầu, tiền vốn cạn hết, rồi tiền mua quyền khai thác của nước Na Uy đã khiến cho ông trả hết nợ.
Việc dùng nitroglycerine bắt đầu thịnh hành. Chính quyền Thụy Điển đã xử dụng chất nổ này vào việc đào một đường hầm tại Stockholm. Trong vòng một năm, các nước Na Uy, Thụy Điển, Phần Lan, Đức, Đan Mạch đã có những xưởng chế tạo nitroglycerine. Các kết quả mang lại thực là rực rỡ.
Nhưng từ ngày 11 tháng 12 năm 1865, các thảm họa bắt đầu xẩy ra liên tiếp. Vào ngày hôm đó, con tầu Mosel đậu tại hải cảng Bremerhaven phát nổ làm 184 người bị thương, 28 người chết. Gây ra thảm họa này là tên William. Tên này cũng bị thương nặng nên trước khi chết, y có thú nhận rằng y làm cho tầu phát nổ vì đã bảo hiểm hàng hóa trên tầu. Y đã dùng một quả bom chứa chất nitroglycerine và quả bom này đã nổ trước kỳ hạn. Tên lưu manh này đã dùng phát minh của Alfred Nobel vào việc phá hoại.
Lại một buổi sáng khác, xưởng chế tạo của ông Nobel tại Na Uy nổ tan thành bụi. Một tuần lễ sau tại Silesie, một nhân viên hỏa xa chặt một khúc nitroglycerine đông đặc: người ta tìm thấy chân nạn nhân bị bắn đi quá một cây số sau tiếng nổ. Vào hai tháng 3 và 4 năm 1866, tại Sydney có 80 người chết vì chất nitroglycerine, 120 người chết trong một kho hàng tại San Francisco và các căn nhà kế cận bị sụp đổ, rồi 70 thùng nitroglycerine nổ tung trên một con tầu biển bỏ neo trong Kênh Đào Panama làm 224 người tử thương, bến tầu và các kho chứa hàng đều bị phá hủy, các con tầu đậu gần đó bị tổn hại rất nhiều, người ta tính rằng thiệt hại lên tới hơn một triệu đô la. Nhưng thế vẫn chưa hết: xưởng Keummel tại Berlin nổ vào tháng 5, một xưởng khác tại Na Uy nổ ít lâu sau và số người chết phải kể hàng trăm một.
Vài tháng trước đây, châu Âu đang hân hoan đón mừng chất nổ nitroglycerine thì ngày nay, cùng cương quyết cấm hẳn chất này. Nước Bỉ và Pháp đặt chất nổ đó ra ngoài vòng pháp luật còn tại hai nước Mỹ và Anh, nếu ai chứa chất nổ đó sẽ bị treo cổ. Rất nhiều nước đặt ra luật lệ cấm hẳn việc dùng chất đó và các con tầu biển từ chối chuyên chở. Tại Turin, Giáo Sư Sobrero, người đã phát minh ra chất nổ này nguyền rủa sự khám phá của mình.
Vào mùa xuân năm 1866, Alfred Nobel tới thành phố New York. Vì báo chí nơi đây không ngớt đăng tin các tai nạn xẩy ra nên người ta đã tiếp đón ông như một bệnh dịch. Ai nấy đều lẩn trốn ông Nobel, các khách sạn không chịu chứa trọ ông vì trong hành lý của ông bị nghi ngờ có hai thùng nitroglycerine.
Trở về Hambourg vào tháng 7 năm 1866, Alfred Nobel quyết định làm đặc chất nitroglycerine trong một thời hạn ngắn nhất. Với các cộng sự viên, ông Nobel đã dùng hàng trăm chất khác nhau để trộn với dầu nổ: than, cát, gạch… và cả xi-măng. Nhiều chất không chịu hòa hợp với nitroglycerine, có chất lại trở nên quá nhão.
2. Chế tạo ra chất nổ Dynamite
Một sự bất ngờ đã xẩy ra: tại miền bắc của nước Đức có một thứ đất sét tên gọi là Kieselguhr. Tình cờ một hôm, một người thợ của Nobel lấy chất đất sét này để kê các bình đựng nitroglycerine và cũng do tình cờ, một trong các bình đó bị vỡ, để dầu chảy ra ngoài. Alfred Nobel nhận thấy thứ đất này hút nitroglycerine như giấy thấm hút mực vậy. Ông bèn nghĩ đến việc trộn thứ đất sét này với dầu nổ: cứ ba thể tích dầu nổ thì một thể tích đất sét. Quả nhiên, sau khi trộn xong, nhiệt độ và sự xô mạnh không làm cho hỗn hợp phát nổ. Chất mới này mềm dẻo như mastic, có thể đóng thành thỏi mà gửi đi không nguy hiểm.
Như vậy trong tháng 12 năm 1867, Alfred Nobel đã đánh dấu một ngày lịch sử trong việc chế tạo chất nổ. Ông đã cẩn thận làm lại hàng trăm thí nghiệm khác nhau trước khi tung chất nổ mới này ra thương trường. Ông đặt tên cho chất mới này bằng hai danh hiệu: Dynamite, danh hiệu chỉ sức mạnh, và chất nổ không nguy hiểm của Nobel.
Sự thành công của chất nổ mới tăng lên như sóng cồn. Alfred Nobel phái người anh là Robert sang Mỹ biểu diễn còn chính mình tự sang nước Anh là quốc gia kỹ nghệ hầm mỏ. Danh tiếng của Nobel vang lừng. Trong vòng 10 năm, 15 xưởng chế tạo rải rác khắp châu Âu và châu Mỹ đã sản xuất hàng năm hơn 3,000 tấn chất nổ Dynamite. Ông Nobel không ngừng đi từ xưởng này sang xưởng khác nên người ta gọi ông là người lang thang giàu có nhất châu Âu.
Vào năm 1875, Alfred Nobel thiết lập văn phòng trung ương tại thành phố Paris và mua biệt thự số 53 đại lộ Malakoff. Ông vẫn không ngừng làm việc 14 giờ một ngày nhưng cũng có lúc thảnh thơi, đọc sách và viết truyện. Ông vẫn chú tâm đến việc hòa thuốc súng bông với nitroglycerine. Một hôm bị đứt tay, ông Nobel liền để chất collodion trên vết thương. Vết đau dịu hẳn về ban đêm. Sáng hôm sau, khi làm thí nghiệm với nitroglycerine, thì cả hai chất đó sinh ra một cảm giác lạnh. Nhờ việc bất thường này, Alfred Nobel đã thấy được thứ mà mình phải tìm kiếm bấy lâu.
Alfred Nobel có thể kiếm lời trong vài ngày bằng mấy lần lương bổng của cha ông trong nhiều năm, nhưng mặc dù giàu có, ông vẫn sống đơn giản, ít ra ngoài. Ông thường buồn rầu và là nhà triệu phú cô đơn nhất. Ông đã nghĩ đến việc lập gia đình nhưng ông là người e dè và lo rằng người ta chỉ kết hôn với ông vì tiền nên ông rất phân vân.
Vào một ngày tháng 1 năm 1876, một tờ báo tại Vienna có đăng vài hàng chữ như sau: một người đàn ông đứng tuổi, có học và khỏe mạnh, sống tại Paris, cần tìm một người đàn bà cùng tuổi, biết tiếng ngoại quốc, có thể làm thư ký và lo việc gia đình.
Chính sự việc này đã khiến ông Nobel được ghi tên vào Lịch Sử vì sau đó, ông nhận được thư trả lời của bà Bá Tước Bertha Kinsky. Bà này vốn là người Bohêmien, chạc 30 tuổi, xinh xắn. Bà ta bị phá sản và muốn rời bỏ Vienna sớm. Bà ta đã từ chối sự dạm hỏi của người yêu là Nam Tước Von Suttner. Lúc đầu, bà Bertha tưởng rằng sẽ gặp một người tàn tật, tóc hoa dâm, nhưng khi đến nơi, bà ta thấy không phải thế. Thời đó Alfred Nobel 43 tuổi, dáng người tầm thước, mảnh khảnh, râu đen, tính tình tốt, hơi buồn và có khi châm biếm nữa. Khi gặp nhau, cả hai người đều hài lòng và tin tưởng ở nhau. Ông Nobel để bà Bá Tước ở một phòng trong căn nhà tại đường Malakoff. Trong thời gian đầu này, Nobel khuyên bà Bertha không nên viết thư về Vienna nhưng Bertha vẫn không ngừng được: Nobel đã để bà quá cô đơn vì trong đầu óc của ông đang dự trù vài phát minh nữa. Ông cho rằng chất Dynamite chưa đủ mạnh.
Bà Bertha cư ngụ tại Paris được một tuần lễ thì ông Nobel đi Thụy Điển. Hai ngày sau, bà nhận được hai điện tín gửi tới: một chiếc từ Stockholm, viết: Đã tới bình yên, một tuần lễ nữa sẽ trở lại Paris, còn chiếc kia từ Vienna của người hôn phu cũ, ghi như sau: Không thể sống mà không có em!.
Bertha phân vân quá. Bà đã bắt đầu yêu và kính phục Alfred Nobel, muốn trở nên người vợ của một nhân vật danh tiếng và đáng tin cậy như ông Nobel, nhưng bà cũng không thể chống lại tiếng gọi trở về Vienna được. Cuối cùng, bà Bertha trở về với vị hôn phu cũ và hàng năm vẫn trao đổi với Alfred Nobel vài bức thư.
Thời bấy giờ, cuộc chiến tranh Nga-Thổ đang tiếp diễn. Bà Bertha Kinsky và Nam Tước Von Suttner làm việc cho hội Hồng Thập Tự. Bà rất kinh hoàng trước thảm họa chiến tranh nên đã viết một cuốn sách để đả phá, nhan đề là Hãy hạ súng xuống. Các nhà xuất bản Áo và Đức đều từ chối không nhận in cuốn sách đó khiến bà Bertha phải nhờ đến ông Nobel. Alfred Nobel rất sung sướng vì công cuộc đó và nhận lời giúp đỡ dù cho đôi khi ông còn tưởng rằng chất nổ của ông càng tàn sát con người mau chóng bao nhiêu, thì các quốc gia đều sợ hãi khi dùng nó và vì thế mà chiến tranh giảm bớt.
Nhân dịp Hội Nghị Hòa Bình được tổ chức tại Berne vào năm 1886, bà Bertha gửi giấy xin Alfred Nobel giúp tiền vào quỹ của Hội. Ông Nobel nhận lời và hứa sẵn sàng giúp đỡ. Ông không biết quỹ cần bao nhiêu nhưng cũng vội vàng gửi ngay một số tiền đến trước.
Bà Bertha lại gửi giấy mời Nobel đến họp Hội Nghị rồi chờ mãi mà chẳng thấy, nhưng vào ngày cuối cùng, bà thấy ông Nobel lại tìm gặp mình. Alfred Nobel đến họp mà không muốn cho ai biết. Khi các phiên họp diễn ra, ông đều có mặt. Ông Nobel rất cảm động trước những lời lẽ chân thành của Hội Nghị nhưng ông còn do dự về cách thực hiện kế hoạch. Các tư tưởng về Hòa Bình càng ngày càng ăn sâu vào đầu óc của ông Vua Thuốc Nổ. Ảnh hưởng của bà Bertha Kinsky đã làm ông Nobel dần dần từ bỏ ý định dùng chiến tranh chấm dứt chiến tranh.
Vào ngày 7 tháng 1 năm 1893, Alfred Nobel viết cho bà Bertha: Tôi muốn bỏ ra một phần gia tài để làm một giải thưởng, 5 năm phát một lần cho những ai đã phục vụ Hòa Bình tại châu Âu.
Bệnh đau tim của ông Nobel lại phát khởi. Alfred Nobel sống ẩn dật tại San Remo, nước Ý. Thời đó, người anh của ông tên là Ludwig, người đã khai thác các mỏ dầu hỏa, từ trần. Các báo chí lại tưởng là Alfred Nobel. Ông Nobel được dịp nghe các báo chí chia buồn nhưng cũng kém phần ca tụng.
Tại San Remo, Nobel bỏ phần lớn thời giờ vào việc tìm cách chế tạo cao su và lụa nhân tạo. Bệnh tim của ông trở nên trầm trọng, nếu tĩnh dưỡng cẩn thận, ông Nobel chưa đến nỗi sớm lìa đời nhưng ông không thể sống mà không làm việc. Alfred Nobel thở hơi cuối cùng vào ngày 10 tháng 12 năm 1896, trong cảnh cô đơn, buồn bã, với tài sản để lại vào khoảng 9 triệu Mỹ kim. Các người láng giềng cũng không được biết là ông đã chết lúc nào. Không ai được chứng kiến lúc lâm chung của ông vì sáng hôm đó, khi người lão bộc bước vào phòng thì đã thấy ông tắt thở rồi. Người bạn độc nhất của ông, bà Bertha Kinsky, được tin ông qua đời nhờ báo chí.
3. Đặt ra các Giải Thưởng Nobel
Trước khi chết, Alfred Nobel đã sợ hãi các thứ khí giới mới. Ông Nobel đặt hy vọng vào một tổ chức quốc tế tương tự như Liên Hiệp Quốc ngày nay. Trên bàn giấy của ông, người ta tìm thấy lẫn lộn trong chồng giấy tờ khảo cứu về các chất hóa học mới, bản chúc thư liên quan đến việc trao giải thưởng.
Làm tại Ecrin ngày 27 tháng 11 năm 1895, chúc thư đó đã ghi như sau: Tất cả gia tài của tôi để lại sẽ dùng làm vốn lấy lời. Tiền lời này sẽ dùng làm phần thưởng cho những ai đã giúp ích cho Nhân Loại trong năm trước. Tiền lời sẽ được chia đều thành 5 phần, dùng làm các giải thưởng Vật Lý Học, Hóa Học, Y Học hay Sinh Lý Học, Văn Chương và sau cùng là giải thưởng cho những ai lo tài giảm binh bị, gây được tình thân hữu giữa các dân tộc và tổ chức được nền Hòa Bình Thế Giới. Giải thưởng Vật Lý và Hóa Học sẽ do Hàn Lâm Viện Khoa Học Thụy Điển phát, Viện Karolinska tại Stockholm cho giải thưởng về Y Học hay Sinh Lý Học, Hàn Lâm Viện Stockholm sẽ phát giải thưởng về Văn Chương còn giải thưởng Hòa Bình do một hội đồng gồm 5 nhân viên của Nghị Viện Na Uy bầu lên.
Alfred Nobel đã quy định rằng: Các giải thưởng này sẽ được trao tặng cho những người xứng đáng mà không được để ý đến quốc tịch, người nào có công nhất sẽ được tặng thưởng dù họ sinh ra tại Thụy Điển hay không.
Tờ chúc thư đã làm cho dư luận sôi nổi. Vì bị mất quyền lợi, gia đình Nobel phản đối trước tiên. Quốc Vương và báo chí phản kháng việc người ngoại quốc được lãnh thưởng như người Thụy Điển còn các Hàn Lâm Viện cũng không chịu nhận vì phải gánh nhiều trách nhiệm mới. Nhưng việc thi hành chúc thư được thành công do trí cương quyết của người cháu của ông Alfred Nobel và các Giải Thưởng Nobel được cấp phát từ năm 1901.
73 năm về sau lời di chúc của ông Alfred Nobel, tức là vào năm 1968, Giải Thưởng Kinh Tế Học được thiết lập bởi Ngân Hàng Trung Ương Thụy Điển Riksbank và Hàn Lâm Viện Khoa Học Hoàng Gia Thụy Điển được chỉ định lo phần thưởng này. Tổ Chức Nobel (The Nobel Foundation) là pháp nhân sở hữu và quản trị các ngân khoản giải thưởng nhưng lại không liên quan tới việc tặng giải. Việc chọn lựa người được giải bắt đầu vào mùa thu năm trước, cá nhân không có quyền trực tiếp nạp đơn mà phải qua đề nghị của những cơ sở khảo cứu, của những tổ chức khoa học của các quốc gia, và các bản đề nghị (proposals) phải được nạp cho các ủy ban cứu xét giải thưởng trước ngày 01 tháng 2 năm phát giải.
Kể từ ngày 01 tháng 2 mỗi năm, sáu Ủy Ban Nobel bắt đầu làm việc hoàn toàn độc lập và không chịu áp lực nào về các ủng hộ có tính ngoại giao, chính trị, đoàn thể… và nếu cần, các Ủy Ban này có thể mời thêm các chuyên viên, không phân biệt quốc tịch. Vào tháng 9 hay đầu tháng 10, các Ủy Ban này nạp các bản khuyến nghị cho các cơ quan phát giải và quyết định cuối cùng phải được làm xong trước ngày 15 tháng 11. Các cách cân nhắc kỹ lưỡng và bỏ phiếu khi cứu xét đều được hoàn toàn giữ kín tại mọi giai đoạn.
Các Giải Thưởng Nobel được tặng cho cá nhân ngoại trừ Giải Hòa Bình có thể được trao cho một tổ chức. Cá nhân đã qua đời không được đề nghị tặng giải ngoại trừ giải thưởng đã được đề nghị khi cá nhân đó còn sống như trường hợp của ông Erik A. Karlfeldt (Văn Chương, 1931) và của ông Dag Hammarskjold (Hòa Bình, 1961). Giải Thưởng Nobel thường được trao tặng cho một người nhưng cũng có khi được chia đều cho hai người. Khi không cấp phát giải thưởng hay khi bị trừ chối thì số tiền thưởng sẽ được hoàn trả ngân quỹ. Trong thời Thế Chiến Thứ Nhất và Thứ Hai, vì tình hình thế giới không cho phép các ủy ban xét giải thu thập đầy đủ các tin tức và tài liệu để đi đến quyết định phát giải, các giải thưởng của các năm chiến tranh này đã không được tuyên bố.
Giải Thưởng Nobel đôi khi cũng bị từ chối, thông thường vì áp lực chính trị. Năm 1937, Adolf Hitler đã ra một đạo luật cấm người Đức nhận Giải Thưởng Nobel vì vào năm 1935, giải thưởng đó đã được đề nghị cho một đối thủ chính trị của nhà độc tài Quốc Xã, đó là nhà vận động hòa bình người Đức Carl von Ossietzky. Tuy nhiên, những người từ chối Giải Thưởng Nobel vẫn được liệt kê vào danh sách các nhân vật đoạt giải. Những người không muốn hay không thể nhận giải thưởng, sau này có thể nhận Huy Chương và Bằng Chứng Nhận, như trường hợp của nhà văn người Nga Alexander Solzhenitsyn đã làm vào năm 1971.
Vào ngày 10 tháng 12 năm 1901, 5 năm sau ngày ông Alfred Nobel qua đời, các giải thưởng đầu tiên được cấp phát và còn tiếp tục cho tới ngày nay. Lãnh giải thưởng là một vinh dự rất lớn lao cho người được tặng vì đây là giải thưởng danh tiếng nhất trên Thế Giới, hơn nữa số tiền thưởng cũng không phải là nhỏ, với trị giá 40 ngàn đô la vào năm 1901 và lên tới một triệu đô la vào năm 1997. Ngoài số tiền mặt, Giải Thưởng Nobel còn gồm một Huy Chương vàng và một Bằng Chứng Nhận (Diploma) nêu rõ công trình của người lãnh giải. Hàng năm vào ngày 10 tháng 12, tức là ngày kỷ niệm ông Alfred Nobel qua đời, tại thành phố Stockholm Vua Thụy Điển trao tặng các giải thưởng về Vật Lý, Hóa Học, Y Học hay Sinh Lý Học, Văn Chương và Kinh Tế Học. Lễ trao Giải Thưởng Hòa Bình được tổ chức tại Đại Học Oslo và Vua Na Uy trao giải thưởng này. Sau các buổi lễ trao giải, các nhân vật đoạt giải thưởng đọc một bài diễn văn nói về công trình của mình. Các bài diễn văn này về sau được in trong ấn phẩm hàng năm của Tổ Chức Nobel (The Nobel Foundation).
Giải thưởng về Kinh Tế Học bắt đầu được phát ra vào năm 1969, đặt nặng về Toán Học và Thống Kê hơn là về Chính Trị và Xã Hội Học. Các giải thưởng về Khoa Học và Y Học ít gây ra tranh luận nhưng giải thưởng về Văn Chương và Hòa Bình thường gặp các cơn sóng gió vì bản chất của hai bộ môn đó và vì các khác biệt đặc thù…
Các giải thưởng về Văn Chương được trao tặng cho các tiểu thuyết gia đã viết ra các tác phẩm bất hủ và đôi khi, cho các nhà thơ có tâm hồn súc tích, đã ca ngợi vẻ đẹp của thiên nhiên, đề cao các tư tưởng cao thượng của nhân loại bằng những lời thơ óng chuốt, điển hình. Giành được giải thưởng là một danh dự rất lớn, tác phẩm đoạt giải thưởng lại nhờ đó bán chạy gấp trăm ngàn lần, nên đã mang về cho tác giả một mối lợi lớn. Trong số các văn nhân được tặng Giải Thưởng Nobel về Văn Chương, có 4 người Á châu là thi sĩ Ấn Độ Sir Rabindranath Tagore (1913), văn sĩ Nhật Bản Yasunari Kawabata (1968), văn sĩ Nhật Bản Kenzaburo Oe (1994) và văn sĩ Trung Hoa quốc tịch Pháp Cao Hành Kiện (2000).
Về ngành Vật Lý Học, các nhà bác học châu Á được giải thưởng là Yukawa Hideki, người Nhật (1949), Chen Ning Yang và Tsung Dao Lee, người Trung Hoa (1957), Tomonaga Shinichiro, người Nhật (1965), Leo Esaki, người Nhật (1973) và Abdus Salam, người Pakistan (1979). Về Hóa Học, có các nhà bác học người Nhật Fukui Kenichi (1981), Hideki Shirakawa (2000), Ryoji Noyori (2001) và Koichi Tanaka (2002). Người châu Á được tặng giải thưởng về Y Học hay Sinh Lý Học là nhà bác học người Nhật Susumu Tenegawa (1987).
Các con số về những nhà bác học đoạt Giải Thưởng Nobel đã chứng tỏ rằng quốc gia nào có nền Khoa Học mạnh mẽ nhất, sẽ sản xuất được nhiều nhà bác học tài giỏi nhất. Các nhà bác học được giải thưởng đều là những người đã giúp ích rất nhiều cho Nhân Loại: người thì phát minh ra vô tuyền điện, kẻ lại khám phá ra chất phóng xạ, cách cấu tạo nguyên tử… Các phát minh về Khoa Học đã làm cho cuộc sống của con người được dễ chịu hơn, đầy đủ hơn. Nhiều công cuộc khảo cứu về Y Học và Sinh Lý Học đã làm giảm bớt bệnh hoạn, việc tìm ra các sinh tố, thuốc trụ sinh đã giúp cho cơ thể chống được sự xâm nhập của vi trùng…
Giải Thưởng Nobel về Hòa Bình ít được phát ra nhất, điều này không có gì là lạ vì từ đầu thế kỷ 20 tới ngày nay, tình hình thế giới không mấy khi sáng sủa, dễ chịu. Trong số người đoạt giải thưởng này, có bà Bá Tước Bertha Kinsky lãnh giải vào năm 1905 và thật là đặc biệt khi Giải Thưởng Hòa Bình của năm 1953 đã về tay một vị Đại Tướng: Ông George Marshall, Đại Tướng Hoa Kỳ.
Trong số sáu Giải Thưởng Nobel hàng năm, quan trọng hơn hết là Giải Thưởng về Vật Lý Học, và nếu xét các giải thưởng Vật Lý đã lãnh từ trước tới nay thì đại đa số là về nguyên tử lực. Vì vậy đã có người nói một câu mỉa mai như sau: Sở dĩ ông Nobel trở nên giàu có là vì ông đã chế tạo ra chất nổ, rồi vì muốn sám hối, ông lại dùng số tiền kiếm được để khuyến khích các công cuộc hòa bình. Nhưng trái ngược thay, ngành được khuyến khích lại là môn Nguyên Tử Học mà áp dụng của nó có thể giết hại con người hàng triệu lần gấp bội thứ Dynamite của ông Nobel khi xưa.
Dù sao chúng ta phải công nhận rằng ông Alfred Nobel đã có công rất nhiều đối với Khoa Học. Chất nổ của ông đã bị dùng không đúng chỗ nhưng lúc nào tâm hồn ông cũng ràng buộc với ý niệm Hòa Bình và các phần thưởng của ông Alfred Nobel đã ảnh hưởng rất lớn tới sự cố gắng của các nhân tài trên các lãnh vực Khoa Học, Y Học, Văn Chương, Kinh Tế cũng như Hòa Bình.
Phạm Văn Tuấn
One Comment
rachat de credit
really an eye opener for me.
– Robson