Khó mà nói tác phẩm Bóng Đè[1] của Đỗ Hoàng Diệu là một truyện ngắn, hay một tùy bút, một đoản văn hay “thi thoảng” một đoạn thơ dài văn xuôi. Có điều thấy ngay, Bóng Đè thu hút người đọc dưới nhiều dạng, ngay trong cái hạnh phúc của bản văn, ngay trong cái bất hạnh của sáng tạo, đa dạng, bất toại.
Tối thiểu người đọc có thể nhận định ở bản tác này hai khía cạnh biểu hiện: khía cạnh tâm thức và khía cạnh biểu tượng.[2]
Ở Khía Cạnh Tâm Thức, cả cốt truyện phát xuất như một hành vi khuếch xung, khai triển, mở rộng, nong xoáy, vành toác, vần vò hai từ “Bóng/Đè”, như một hình thức giao cấu ngôn ngữ, nửa trừu tượng hư cấu, nửa hiện hữu xoá nhoà (bóng, cái bóng, nói bóng, bóng bảy), nửa động nửa tĩnh, tùy thế cảnh, tùy giai đoạn tác động, hưởng thụ, dồn ép (đè, bị đè, đè nén,để, đẻ).
Nếu coi Bóng Đè là một truyện ngắn, thì văn tác này phải là bút thuật của nữ giới. Cũng theo chiều hướng tạo thành hoan lạc tác văn (Plaisir du Texte),[3] cái sức thu hút cao độ, cái giai đoạn khích động tới cực điểm của bản văn phát hiện song song với lúc cực khoái[4] của giao cấu. Văn tác của đàn ông có lẽ khác với văn tác của đàn bà ở cách biểu hiện và thụ hưởng khoái lạc trong cơ cấu và kiến trúc sáng tạo. Một bên (nam giới-animus-giống đực)[5] thì kiến trúc sáng tạo dồn dập, hun hút tới một cực điểm duy nhất (apex/climax), nổ bung (explosion) rồi chùng xuống, an bài, tắt nghẽn/chấm/dứt. Bên kia (nữ giới-anima-giống cái)[5] thì cơ cấu lại chênh vênh, kéo dài, âm ỉ thành một loạt cao hứng, mơn trớn, tái tục nửa vời, qua nhịp độ khởi x(s)ướng thích thú luân lưu: những hạnh phúc nho nhỏ, những cuồng bão câm nín, bùng nổ phía trong (implosion), nát lòng, thẩm thấu, lây biến.
Thật vậy, Bóng Đè là một tùy bút, một dạ ký viết trong đêm, viết về một chuỗi đêm bất tận, một ngàn đêm lẻ của nội tâm, của tiềm thức, với nhiều ám dấu của thể xác, của tâm hồn người đàn bà Việt Nam tầm thường, không tên tuổi rõ rệt, của đám đông vô định, trẻ, chân thật, thèm khát, chưa sống đủ, nay tự đày đọa trong cảnh hãm hiếp hư cấu, trong tâm tưởng, như mày mò một hoan lạc thống dâm, tìm niềm hạnh phúc ngay trong sự thống khổ[6] của đời sống khuôn phép, rỗng tuếch, nửa vời, bất toại.
Chính cái nửa vời này hành hạ người đàn bà, vừa nạn nhân, vừa tác nhân của cảnh hãm hiếp dồn dập, tái tục. Người đàn bà trẻ (tác nhân) đã nộp mạng vào cuộc hiếp dâm, hoan lạc mỗi lần có một đám giỗ lớn nhỏ trong gia đình nhà chồng. Tất cả là “mười sáu đám giỗ” (BĐ, 2) đưa tới mười sáu cuộc hãm hiếp hoan lạc trong mộng tưởng, trong cơ thể và thâm tâm người đàn bà. Hiện tượng thống dâm phát hiện nơi người đàn bà trẻ, cởi mở, tân tiến như cuộc giao lưu của nhiều ngành ngọn, tâm lí có, vật lí có, hoài vọng, ma thuật có.
Tác nhân đã biết thế nào là giao cấu, thế nào là hoan lạc, thú vui xác thịt, tế bào, tâm não. Nhưng cái môi sinh hạnh phúc này là một thứ thị trường bán chịu nửa chừng xuân, một cái thương trường hàng rong nghèo nàn, ít hàng, ít khách, dù ngồi xổm, dù chợ đuổi, vừa bán vừa chạy mà sản phẩm tiêu thụ là thứ tự do đổi chác hoan lạc vụng trộm, du kích, nửa có, nửa không, nên khao khát vẫn là khát khao, ngay trong sa mạc vắng vợi con người, với cảnh vùn vập sơ sài, ít ỏi giữa vợ chồng, hoặc ngắn ngủi, bấp bênh giữa nhân tình, nhân ngãi. Chính cái nửa vời đó, nửa có nửa không, nửa được nửa mất, nửa đóng áo nửa mở thân mới là cái đau đớn, hoạn cắt day dứt trong tế bào toang vỡ, ngay trong cuộc sống thiếu thốn, đọng hoãn. Chính cái thèm khát hãm kèm đó đã khiến tác nhân trở thành nạn nhận của chính mình, dấn thân vào cảnh cầu khẩn, xin xỏ, hạ mình “đồng loã…ưỡn người lên chờ đón” (BĐ,10) những linh hồn ma quái tới vày vò, ban bố khoái lạc.
Bóng Đè không còn tính cách ngoại vi, tâm linh, lãng mạn nữa. Sự đè nén, áp bức hết là một hiện tượng hoảng sợ trừu tượng, vô hình, ma quái. Nó hết là cơn ác mộng có thể chấm dứt khi đối nhân tỉnh giấc. Nó trở thành sự thật, một ám ảnh của những cuộc đột nhập táo bạo, xâm phạm tiết hạnh, vày vò thể xác: “chỉ tích tắc nữa sẽ ập xuống mình…nó thò hẳn vào lùng sục từng bộ phận thân thể tôi” (BĐ,8).
Nhưng hành vi xâm phạm tiết hạnh này đã đem lại cho nạn nhân những cảm giác của nghiện ngập, mà người hưởng thụ không sao bỏ được: “Tôi ngượng ngùng tự thừa nhận với mình nghiện mười sáu đám giỗ, mười một ngôi mộ, tấm phản đen bóng…” (BĐ 15). Sự thống dâm trong mộng tưởng, trong tâm nảo, dần dần trở thành một trào lực để sống còn. Đó là những cảm giác thiệt thực của mồ hôi nhễ nhại, hôi tanh “nhớp nháp máu trộn nước con gái” (BĐ, 14), của “mụn nhọt” (BĐ,16), hoặc những cơn “khát gắt gỏng nhức nhối trong cuống họng…Khát mỗi sợi tóc. Khát từng nếp gấp làn da. Khát mỗi đốt xương”…(BĐ, 13). Người đàn bà biên tế, câm nín, vắng vợi đã đón nhận sự áp bức, xâm phạm tiết hạnh, hãm hiếp để cảm thấy được sống. Ngay trong cảnh huống thương xót, ghê tởm: “Tôi quỳ gục hoàn toàn. Tôi thương tôi và tôi ghét tôi” (BĐ, 16).
Bóng Đè đã trở thành một ẩn dụ về hãm hiếp văn hoá, ám hại chính trị.[7]
Ở Khía Cạnh Biểu Tượng, Bóng Đè là tác động dồn ép của một truyền thống văn hoá lỗi thời, áp bức, biểu hiện qua bức màn đỏ “loang rộng” (BĐ,4) phủ khắp bàn thờ tổ tiên, anh hùng “Điện Biên, liệt sĩ đường 9 Nam Lào” (BĐ, 2). Hậu ảnh và hào quang của họ, của cái cơ sở văn hoá đảng phiệt vẫn tiếp tục gây áp lực phỉnh gạt một xã hội mong manh, nay dồn ép phải vịn víu vào quá khứ thiểu não, đóng khung thờ phụng, tôn sùng nghi thức để hiện hữu, dù phải hụt hẫng thụt lùi, bế tắc.
Trong Bóng Đè, việc ẩn dụ tên anh hùng gian tặc Trung Quốc hiếp dâm con dâu Việt Nam đã minh hoạ một cách cụ thể sự áp đặt cưỡng bách của một nền văn hoá chính trị vọng lai, với cái ý thức hệ phi nhân, phi nghĩa, phi luân, phi lí mà chính quyền và dân tộc Việt Nam vẫn bị mê hoặc, thu hút: “Lão Tầu xa xăm, bí ẩn, vừa đen tối vừa có sức hút lạ kỳ, quyến rũ khác thường…” (BĐ, 13).
Phải chăng ở khía cạnh này, hình ảnh người đàn bà, đứa con dâu Việt bị tổ tông Hán tộc hãm hiếp đã lan rộng phủ trùm cả xã hội “nhân dân” Việt Nam ép mình, bò lết dưới áp lực của tư tưởng Mao Hồ, trên tấm phản ô nhục xã hội chủ nghĩa mafia đỏ.
Khác với người đàn bà thất thế, không tên, giai cấp ưu thế — đa số là nam giới — lại được tác giả ban cho những tên phù hợp với chính thống quan liêu đảng phiệt như “Thụ” của thụ giáo, thụ động, thụ hưởng, thụ bệnh; như “Thắm” của màu cờ máu, của huy hiệu tôn vinh phỉnh gạt. Họ cũng là những mẫu người sẵn sàng khuất phục trong đời sống tranh giành, tước đoạt lẫn nhau. Sau bao nhiêu cuộc chinh chiến tương tàn, xã hội đó tồn tại, bất di bất dịch, nhờ vào áp lực đè nén của căm thù, đấu tố, ngay trong gia đình phân tán, ngay nơi đối tác giữa vợ chồng, con cái, anh em, họ hàng đố kỵ, độc đoán.
Tất nhiên, trong một xã hội sống chung với “chuột dơ bẩn, với rắn độc rình mò, thâm hiểm”, một xã hội bị Bóng Đè về mặt văn hoá bưng bít, ngộp thở, một môi trường chính trị áp chế tù túng, người bình thường, yếu đuối ắt phải nhận định: “Tôi hiểu mình phải im lặng, im lặng trong sợ hãi tột tận đời người” (BĐ, 8).
Cũng trong cái xã hội mệt mỏi, yếu kém, sẵn sàng đầu hàng bạo lực vinh quang, đương nhiên màu đỏ phải được nâng cấp tới [tột] đỉnh cao trí tuệ, dù ngột ngạt, hung dữ, dù chậm tiến, ngược dòng. Đã có giai đoạn bên Cộng Hoà Nhân Dân Trung Quốc, họ cho xe ngưng chạy khi đèn xanh và cho xe chạy khi đèn đỏ vì đối với người cộng sản, màu đỏ là màu của tiến bộ, của thắng thế. Đến khi Trung Quốc cất bỏ màn tre bế môn toả cảng thì chế độ xanh-đỏ ngược chiều đã gây ra quá nhiều tai nạn lưu thông cho du khách, nên Chính Quyền búa liềm đã đành nhắm mắt đổi đỏ thành xanh và xanh thành đỏ, để kịp theo nhịp giao thông hài hoà trên thế giới.
Cũng sẽ có ngày những người anh hùng thời đại đó sẽ đổi màn đỏ thành màn xanh trên các mồ mả, kho bạc, quét vôi xanh thay vì vôi đỏ, ngắm lá xanh hy vọng thay vì lá mùa thu đỏ rụng rời.
TẠM KẾT:
Trong Bóng Đè, đen tối luôn luôn được dùng để biểu hiện những tâm trạng mù mờ, những “vùng khuất lấp của mình” (BĐ, 5), những “ám dấu” (BĐ, 16) của cơ thể và tâm não đơn độc, cá biệt, những ám ảnh thống dâm, ma quái, những “u mê” (BĐ,16) tê liệt. Nhưng cuối cùng, người đàn bà vô hạnh đã thu hồi lại mạch sống khi tạo dựng được một huyết mạch mới: “Rồi máu không còn nhỏ xuống chân tôi nữa…Cái thai trong bụng tôi, không phải của Thụ, không của bất kỳ người đàn ông nào cứ lớn dần…Tôi thương giọt máu của mình. Tôi thương đứa bé vô tội cũng bất lực như tôi đã bất lực…Không biết có người mẹ nào yêu thương di sản của tăm tối như tôi?” (BĐ, 17). Và đó là tia nắng mới của một chân trời nội tại, bật nở ngay trong lòng người, bằng thứ ánh sáng của niềm tin vụt khởi, nguyên vẹn, thôi nôi.
Đó cũng là thứ ánh sáng gìn giữ qua làn da mỏng của bàn tay mẹ ru con, của bàn tay văn sĩ còn cầm được ngòi bút tự do, còn muốn lùa ngón tay vào sáng tạo bất diệt: “Chiến tranh, giông tố, bão lũ, hán hạn, tôi có thể chết đi ròi mà bàn tay vẫn nguyên vẹn” (BĐ, 17). Tới trạng thái quyết kiệt này, tới đường cùng của định mệnh, dù “Nắng tắt, mà bàn tay vẫn óng ánh diệu kỳ”, như tác phẩm Bóng Đè của một Đỗ Hoàng Diệu, dù tại nơi đó, nắng chưa lên, khi văn hoá còn bị hãm hiếp, chính trị còn bị ám hại.
Lưu Nguyễn Đạt, PhD
Michigan State University
[1] Đỗ Hoàng Diệu, Bóng Đè, Hà Nội, 6-2004. Lần đầu xuất hiện trên Hợp Lưu 78. Các trích dẫn về Bóng Đè sẽ viết tắt (BĐ, với số trang).
[2] Về ý nghĩa tường thuật này, xin xem Roland Barthes, “The third meaning”, Image, Music, Text, Hill and Wang, New York, 1988.
[3] Căn cứ vào ý niệm Plaisir du Texte của Roland Barthes.
[4] orgasme
[5] Theo từ ngữ của Gaston Bachelard, “animus/anima”, trong La Poétique de l’Espace, P.U.F., Paris, 1957.
[6] masochisme
[7] cultural rape, political mayhem