Andrei Dmitrievich Sakharov chào đời ngày 21/5/1921 tại thành phố Moscow, nước Nga. Ông Sakharov là một nhà vật lý hạch tâm, một nhân vật can đảm tranh đấu cho nhân quyền, đòi hỏi các tự do dân sự (civil liberties) cũng như các cải tiến tại Liên Xô. Vào tháng 12 năm 1975, ông Andrei D. Sakharov được trao tặng Giải Thưởng Nobel Hòa Bình (the Nobel Prize for Peace) vì các công trình hoạt động của ông trong nhiều năm trường.
Ông Sakharov là con trai của một giáo sư vật lý rất danh tiếng và tác giả của các sách giáo khoa, các công trình khoa học thực dụng. Ông Sakharov Cha lại còn là một nhạc sĩ dương cầm có tài, thường hay trình diễn các nhạc phẩm của Chopin, Grieg, Beethoven và Scriabin. Trong thời kỳ nội chiến tại nước Nga, ông Sakharov Cha đã kiếm sống bằng nghề đánh đàn để ghép tiếng nhạc vào các phim ảnh câm bởi vì vào thời đại đó, kỹ thuật điện ảnh chưa đủ tiến bộ. Từ nhỏ, cậu Sakharov lớn lên trong một khu nhà tập thể với nhiều bà con sinh sống bên trong và từ một gia đình có truyền thống tôn trọng tài năng chuyên môn, ưa chuộng văn chương và khoa học.
Vào thời niên thiếu, cậu Sakharov còn chịu ảnh hưởng sâu đậm của bà nội, bà Maria Petrovna. Cụ bà Petrovna qua đời vào tuổi 79, trước thời kỳ Thế Chiến Thứ Nhất nhưng bà cụ đã có công gây dựng được 6 người con thành tài. Lúc tuổi 50, bà cụ Petrovna đã tự học tiếng Anh rồi đọc các cuốn truyện của Dickens, Marlowe, Beecher-Stowe hay Puskin, sau đó kể lại nhiều câu chuyện cho các con cháu nghe. Nhờ ảnh hưởng tốt của gia đình, Andrei D. Sakharov đã sớm trở thành một học sinh xuất sắc về khoa học. Vào năm 1938 khi mới 17 tuổi, Sakharov được nhận vào Phân Khoa Vật Lý của trường Đại Học Moscow và sau này đậu văn bằng Tiến Sĩ năm 26 tuổi.
Năm 1942 khi chiến tranh lan tràn tới gần thành phố Moscow, Andrei Sakharov phải di tản về miền Ashkhabad, làm việc tại Kovrov và ông đã tiếp xúc với các công nhân và nông dân nên hiểu rõ các gian khổ của họ. Từ tháng 9 năm 1942 đến năm 1945, ông Sakharov được phái đi làm việc trong một cơ xưởng lớn sản xuất đạn dược nằm bên bờ sông Volga, với chức vụ kỹ sư và nhà phát minh. Trong thời gian này, ông đã thực hiện được một số phát minh rồi vào năm 1944, đã viết vài bài khảo cứu về lý thuyết vật lý để gửi tới các viện nghiên cứu tại Moscow.
Qua năm 1945, ông Sakharov theo học chương trình Tiến Sĩ tại Viện Lebedev, đây là Phân Khoa Vật Lý của Hàn Lâm Viện Khoa Học Liên Xô (the Academy of Sciences of the USSR), với vị thầy là nhà vật lý lý thuyết danh tiếng Igor Evgenyevich Tamm. Nhà bác học Igor E. Tamm sau này trở thành Viện Sĩ của Hàn Lâm Viện Khoa Học Liên Xô kể trên và cũng là một trong ba nhân vật lãnh Giải Thưởng Nobel về Vật Lý vào năm 1958, hai vị kia là các nhà bác học Pavel A. Cherenkov và Ilya M. Frank.
Năm 1947, ông Andrei D. Sakharov bảo vệ luận án Tiến Sĩ về Vật Lý Hạch Tâm (nuclear physics) rồi qua năm sau, 1948, được mời tham gia vào nhóm các nhà nghiên cứu khoa học mà nhiệm vụ của họ là làm phát triển các võ khí nguyên tử, với nhà bác học đứng đầu nhóm là ông Igor E. Tamm. Từ đầu năm 1950, nhà bác học Igor E. Tamm cùng với Tiến Sĩ Andrei D. Sakharov và nhóm chuyên gia, đã nghiên cứu và thử nghiệm các phản ứng nhiệt hạch tâm có kiểm soát (controlled thermonuclear reaction), rồi sau đó chế tạo các máy phát từ khổng lồ (magnetic generators), nhờ đó đã đạt được một kỷ lục về từ trường mạnh tới 25 triệu gauss.
Trong vòng 20 năm, ông Sakharov đã làm việc trong các điều kiện an ninh tuyệt đối, dưới các căng thẳng lớn, đầu tiên tại khu vực thành phố Moscow rồi về sau tại một trung tâm nghiên cứu bí mật. Các công trình nghiên cứu xuất sắc của ông Sakharov về khí động học của chất khí (gas dynamics), sự hạn chế từ tính của các hạt chứa điện tích (magnetic confinement of charged particles) cũng như các vấn đề chính yếu trong công trình chế tạo bom khinh khí (hydrogen bomb), lần đầu tiên được thử vào tháng 8 năm 1953. Do những đóng góp lớn lao này, ông Sakharov được bầu làm Viện Sĩ của Hàn Lâm Viện Khoa Học Liên Xô năm 32 tuổi, cũng như được trao tặng nhiều danh dự và thụ hưởng các đặc quyền, đặc lợi khác.
Vào thời gian đầu của thập niên 1950, ông Sakharov cũng như nhiều nhà bác học Liên Xô khác, đã say sưa với tầm quan trọng của công trình võ khí nguyên tử, tin tưởng rằng nhờ chương trình này mà có sự cân bằng thế lực trên thế giới, giữa hai khối tư bản và cộng sản, nhưng qua giữa thập niên 1950, ông bắt đầu suy nghĩ tới các nguy hiểm do các vụ nổ nguyên tử gây ra, lo lắng về các phóng xạ từ trái bom khinh khí 100-megaton nổ trong không trung, rơi xuống nhiều miền đất rộng lớn, gây ra tai họa cho nhân loại và môi trường thiên nhiên. Tại một buổi họp trong Điện Kremlin vào năm 1961, ông Sakharov đã chuyển tới vị Tổng Bí Thư Nikita Khrushchev một bản viết chỉ trích việc tiếp tục các thí nghiệm võ khí hạch tâm. Ông Sakharov đã vận động thành công việc chống đối và vạch trần các chủ thuyết giả mạo (spurious doctrines) của nhà sinh học đầy thế lực T.D. Lysenko. Ông đã quan tâm tới các vấn đề sinh học (biological) cũng như đạo đức (moral) do bởi các thử nghiệm hạch tâm kể trên, rồi kể từ năm 1967, ông đã báo động cho nhiều người khác biết rõ các tai họa sẽ xẩy ra.
Trong bài luận văn viết vào năm 1968 với nhan đề là Suy Nghĩ về Tiến Bộ, Cùng Sống trong Hòa Bình và Tự Do Trí Tuệ (Reflections on Progress, Peaceful Coexistence, and Intellectual Freedom), ông Sakharov đã biện hộ việc giảm bớt căng thẳng (détente) giữa hai khối đối nghịch Đông và Tây và kêu gọi cách hội tụ của hai hệ thống tư bản và xã hội chủ nghĩa. Bài luận văn kể trên đã được phổ biến trong vòng bí mật bởi hệ thống lưu truyền samizdat bên trong Liên Xô và được dịch sang nhiều thứ tiếng tại các nước bên ngoài Liên Xô, sự việc này đã khiến cho ông Sakharov bị chấm dứt các công tác liên quan đến quân sự và bị tước hết các đặc quyền, đặc lợi của giai cấp Nomenclatura, tức là tầng lớp thư lại chính trị được hưởng thụ các quyền lợi cao nhất của đất nước Liên Xô.
Bài luận văn kể trên của ông Sakharov đã là một khúc quanh quan trọng đối với tương lai của ông, bởi vì trên khắp thế giới, mọi người đã chú ý đến các quan điểm của ông, trong khi tại Liên Xô, người ta lại coi các suy nghĩ này là ngây thơ hay võ đoán.
Từ năm 1970, ông Andrei D. Sakharov cùng với hai ông Valery Chalidze và Andrei Tverdokhlebov, sáng lập ra Ủy Ban Nhân Quyền (the Committee for Human Rights) và công tác của Ủy Ban này là việc vận động cho các tự do ngôn luận, tự do hội họp, tự do tôn giáo và tự do di cư (freedoms of speech, assembly, worship and emigration), tất cả các tự do này đã được Hiến Pháp của Liên Xô bảo đảm nhưng trên thực tế, lại bị từ chối. Ông Sakharov thường hay ký tên vào các bản thỉnh nguyện, tham dự các buổi xét xử các người bất đồng chính kiến (dissidents) bị kết tội một cách bất công, tổ chức các buổi họp báo với các phóng viên nước ngoài để công bố các hành động lạm dụng của chính quyền và đôi khi ông Sakharov cũng tuyệt thực để phản đối nhà cầm quyền Liên Xô. Vào năm 1971, ông Sakharov kết hôn với bà Yelena G. Bonner, một nhà hoạt động nhân quyền.
Các hoạt động vì nhân quyền, các phản đối trước nhiều vụ đàn áp chính trị trong xứ, trước các liên lạc thù nghịch của Liên Xô đối với các nước ngoài, đã khiến cho các công an, mật vụ thường xuyên kiểm duyệt và xách nhiễu hai ông bà Sakharov. Hai ông bà đã bị cô lập tại nơi cư ngụ, gập rất nhiều khó khăn địa phương. Qua năm 1973, giới truyền thông Liên Xô đã tấn công ông bà Sakharov, coi hai nhân vật này là bất trung đối với đất nước nhưng vào tháng 10 năm 1975, ông Andrei D. Sakharov được trao tặng Giải Thưởng Nobel Hòa Bình (the Nobel Peace Prize). Sau đó, chính quyền Liên Xô đã từ chối, không cho phép ông Sakharov đi Oslo, Na Uy, nhận Giải Thưởng, lấy cớ là ông đã biết quá nhiều các bí mật quốc gia khi nghiên cứu khoa học cho giới quân sự. Cũng vào thời gian này, ông Sakharov chịu đau khổ bởi vì hai người bạn thân của ông là Sergei Kovalev bị kết án tù 7 năm và 3 năm lưu đầy và ông Andrei Tverdokhlebov cũng bị xét xử bất công.
Vào tháng 12/1979, ông Sakharov đã phản đối cuộc xâm lăng Afghanistan của Liên Xô và kêu gọi mọi người hãy tẩy chay Thế Vận Hội tổ chức tại thành phố Moscow (the Moscow Olympic Games). Để trả thù, chính quyền Liên Xô đã bắt giam ông vào tháng 1/1980 và gửi đi lưu đầy tại thành phố Gorky (bây giờ là Nizhniy Novgorod). Mặc dù sức khỏe suy yếu và các xách nhiễu của mật vụ KGB, ông Sakharov vẫn viết hồi ký và gửi ra nước ngoài các bức thư vận động cho nhân quyền.
Tới tháng 12/1986, chính quyền Xô Viết dưới thời của ông Mikhail S. Gorbachev đã thả ông bà Sakharov ra khỏi nơi lưu đầy và cho phép ông bà trở về Moscow. Nhờ các chương trình cởi mở của ông Gorbachev, ông Sakharov được bầu vào Nghị Hội của các Đại Biểu Nhân Dân (the Congress of People’s Deputies) vào tháng 4 năm 1989. Từ nay, các danh dự của ông được phục hồi và các quan điểm cải tiến của ông được thực hiện một phần nào.
Ông Andrei D. Sakharov qua đời vào ngày 14 tháng 12 năm 1989 tại Moscow và đã được an táng theo quốc lễ. Tập Hồi Ký của ông Sakharov được Richard Lourie dịch sang tiếng Anh và xuất bản vào năm 1990.
Nhiều người dân Liên Xô rất thương tiếc ông Andrei D. Sakharov bởi vì sự quá vãng của ông đã để lại một khoảng trống to lớn về nhân quyền và đạo đức, cho một quốc gia mới bắt đầu học hỏi về nền Dân Chủ.
Phạm Văn Tuấn