Anh Phải Sống, To Live quay năm 1994, dài 132 phút, được giải thưởng của ban giám khảo Đại Hội Điện Ảnh Cannes 1994 và giải thưởng nam diễn viên xuất sắc dành cho Ge You. Phim đã được Tây phương ca ngợi có giá trị về nghệ thuật cũng như về lịch sử xã hội. Họ Trương đã làm sống lại mấy chục năm lịch sử tang thương đau khổ của nước Trung Hoa cận đại, một dân tộc vĩ đại, một đất nước rộng bao la bị dầy vò xâu xé vì chiến tranh cách mạng, cộng thêm những chính sách sai lầm dưới thời Mao và Giang Thanh đã đầy đọa giết hại nhân dân một cách vô cùng tàn nhẫn.
Xem phim, khán giả tưởng như chính sách của nhà nước Trung Hoa Cộng Sản đã cởi mở rộng rãi, nhà đạo diễn đã được phép nhìn lịch sử một cách khách quan và công bằng nhưng không phải vậy. Các đồng nghiệp của Trương Nghệ Mưu cho biết, nhóm làm phim của ông đã đã nộp cho cơ quan kiểm duyệt một truyện phim giả về tương lai tươi sáng của nước Tầu, rồi sau đó họ Trương bí mật thực hiện phim Anh Phải Sống, dựa theo một cuốn tiểu thuyết cùng tên. Khi phim hoàn thành đã được Tây phương tiếp đón nồng nhiệt, hậu quả là cơ quan kiểm duyệt nhà nước vô cùng tức giận, họ cấm Trương Nghệ Mưu làm phim tại Trung Hoa có tài trợ của ngọai quốc trong 5 năm. Phim bị cấm chiếu trong nước vì nó đã để lộ cho thấy những mặt xấu, những sai lầm trầm trọng của Cộng sản Trung Hoa trong quá khứ.
Trương Nghệ Mưu sinh ra trong một gia đình thuộc chế độ cũ, ông là con một sĩ quan trong quân đội Quốc Dân Đảng Trung Hoa chống lại Hồng quân trong thời kỳ nội chiến. Chú của nhà đạo diễn đã cùng chạy với đám tàn quân của họ Tưởng ra đảo Đài Loan. Họ Trương lớn lên ở miền Bắc tỉnh Thiểm Tây, năm 1966 Mao phát động Cách mạng văn hóa để loại trừ các đối thủ Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình, hai người này âm mưu hạ bệ Mao. Cuộc bạo động có tổ chức y như một trận phong ba đã làm thiệt mạng hàng chục triệu người kéo dài tới mười năm. Vệ binh đỏ phá nhà họ Trương, cha ông bị ghép tội phản cách mạng, năm 1969 khi ấy Trương Nghệ Mưu 18 tuổi bị đưa về nhà quê đi làm ruộng, họ Trương sống trong tuyệt vọng, bị xếp vào thành phần kẻ thù của nhân dân, suốt mười năm liên tiếp chàng thanh niên nghĩ cuộc đời mình đã bế mạc. Năm 1971 chàng được đưa đi làm thợ máy trong một xưởng dệt, lúc này ông tỏ ra đam mê hội họa, nhiếp ảnh.
Năm 1978 Trương theo học tại Viện Điện ảnh Bắc Kinh, năm 1982 tốt nghiệp cùng Trần Khải Ca, một nhà đạo diễn nổi tiếng sau này, khóa học đào tạo nhiều nhà đạo diễn có tài nghệ cho điện ảnh Hoa Lục.
Xin điểm qua những phim tiêu biểu cho sự nghiệp điện ảnh họ Trương như sau:
Năm 1987 ông hoàn thành phim Kê Lương Đỏ (The Red Sorghum) do Củng Lợi thủ vai chính, thành công huy hoàng ngay, được giải thưởng Gấu Vàng tại Đại hội điện ảnh quốc tế tại Bá Linh. Truyện một người con gái nhà nghèo bị cha gả bán cho một ông nhà giầu bị hủi, có cơ sở làm rượu, sau chồng chết cô gái trở thành chủ nhân, tham gia chống quân Nhật trong trận đánh một mất một còn lúc cuối phim. Mặc dù nghệ thuật còn non kém so với những phim sau của nhà đạo diễn nhưng Kê Lương Đỏ cũng đánh dấu bước đầu của sự nghiệp điện ảnh họ Trương. Từ một người nông dân, người thợ máy Trương Nghệ Mưu nay bỗng trở thành nhà đạo diễn có tầm vóc quốc tế, sự nghiệp ngày càng lớn, ông ngày càng thành công vẻ vang đã trở thành nhà đạo diễn lớn không những tại Trung Hoa mà cả trên thế giới nữa.
Năm 1990, Trương lại thành công với phim Ju dou (Cúc Đậu), Củng Lợi trong vai cô vợ ba của một ông già chủ tiệm nhuộm không có con thừa kế, đoạt giải ưu hạng Golden Hugo tại Đại hội điện ảnh Quốc tế Chicago kỳ thứ 26. Một truyện tình lọan luân giữa cô vợ ba của ông chủ và người cháu. Phim nhuốm màu tàn bạo, dữ dằn, lột tả được thú tính con người, khi nuôi dưỡng hận thù con người đã trở thành ác thú. Diễn xuất điêu luyện, nội dung độc đáo, thể hiện nhiều phong tục lạ và lạc hậu của nước Tầu. Trong khi thực hiện phim Ju Dou năm 1989, Trương Nghệ Mưu cùng vài người đồng nghiệp ra quảng trường Thiên An Môn để chứng kiến hậu quả của cuộc tàn sát đẫm máu những người biểu tình đòi tự do dân chủ: nào xe bị đốt cháy, những sinh viên bị thương máu nhuộm đầy mình. Quá súc động nên ở cảnh chót ông đã thay đổi truyện phim để Cúc Đậu (Củng Lợi) đốt nhà biến tiệm nhuộm thành biển lửa, cả bốn nhân vật chính đều không ai còn sống sót.
Năm 1991, ông thực hiện cuốn phim nổi tiếng Treo Cao Đèn Lồng Đỏ, Củng Lợi trong vai cô sinh viên nhà nghèo phải làm vợ thứ tư cho một ông trọc phú trong một biệt thự rộng thênh thang. Mỗi bà một căn nhà riêng, khi ông chồng muốn ngủ với bà nào, bọn ïgia nhân treo đèn lồng đỏ trước cửa nhà ấy. Một bi kịch thân phận người đàn bà Trung Hoa cổ, nó lột tả chân thực tâm lý phụ nữ Á đông, thù vặt, tiểu nhân. Một phim độc đáo, nghệ thuật cao, tâm lý sâu sắc, nội dung phản ảnh những tập tục hủ lậu của người Tầu, tâm địa độc ác của con người thời phong kiến. Mặc dù không được giải thưởng nào, chỉ được vào chung kết giải Oscar dành cho phim nói tiếng ngọai quốc nhưng Treo Cao Đèn Lồng Đỏ đã thành công rực rỡ, nổi tiếng lừng lẫy, được Tây phương tán thưởng và chú ý rất nhiều.
Năm 1992 Trương Nghệ Mưu thành công lớn với phim The Story of Qui Ju, Thu Cúc Đi Kiện, Củng Lợi thủ vai chính, được hai giải: Nữ diễn viên xuất sắc nhất và Sư Tử vàng Đại hội điện ảnh quốc tế tại Venise (Ý), đây là giải quốc tế cao quí nhất mà ít có nhà đạo diễn Á châu nào được cấp phát. Truyện một chị nhà quê kiện người trưởng công an xã đá vào mạng sườn chồng chị đòi phải xin lỗi, thưa lên huyện, tỉnh không kết quả. Một thời gian sau tỉnh điều tra bắt trưởng công an nhưng khi ấy Thu Cúc lại chịu ơn ông ta. Truyện phim nhạt nhẽo nhưng được trúng giải nhờ giá trị hiện thực và tài diễn xuất của Củng Lợi. Nội dung thể hiện cuộc sống đơn sơ chất phác thiếu thốn của một dân tộc triền miên gian khổ: nào nhà trọ tập thể chật chội không một chút tiện nghi, phố xã lạc hậu cũ kỹ tự ngàn xưa, cuộc sống quê mùa cục mịch. Người Ý chú ý khía cạnh hiện thực của màn bạc theo như truyền thống nghệ thuật điện ảnh của họ nên đã cấp phát giải thưởng ưu hạng cho Thu Cúc Đi Kiện. Mặc dù không được khán giả thích thú lắm nhưng nó là một trong ba cuốn phim mà Củng Lợi thích nhất.
Năm 1995 Họ Trương chuyển sang đề tài Mafia, ông hoàn thành phim Shangai Triad, Tam Hoàng Thượng Hải, Củng Lợi thủ vai chính, được giải thưởng hình ảnh đẹp tại Đại Hội điện ảnh Cannes và vài giải thưởng của các hiệp hội điện ảnh Mỹ, một chuyện mafia băng đảng Tầu khỏang 1930 tại Thượng Hải với những biệt thự nhà hàng lộng lẫy, những tội ác rùng rợn. Truyện phim hay, cảnh đẹp, diễn tả sống động, ghê rợn, diễn xuất điêu luyện. Củng Lợi nhan sắc tuyệt trần rất xuất sắc trong vai nàng ca kỷ giang hồ, khác với vẻ nhà quê đặc trong Thu Cúc Đi Kiện, lần này Củng Lợi đẹp lộng lẫy, trai lơ y hệt một ả giang hồ, vai nào nàng đóng cũng có nét độc đáo riêng. Nghệ thuật của họ Trương ở đây có phần cao hơn nhiều phim Tây phương cùng đề tài về xã hội đen, thế giới anh chị.
Năm 1999 Trương Nghệ Mưu lại đọat giải thưởng quốc tế cao quí nhất: Sư tử vàng Đại hội điện ảnh Venise (Lion d’or, Festival de Venise) với Not One Less, Không Thiếu Đứa Nào, một cuốn phim sống thực về xã hội đổi mới của Hoa Lục, tại thành thị đời sống được nâng cao nhưng miền quê còn quá nghèo khổ, nhiều học sinh tiểu học còn bé đã phải bỏ học lên tỉnh kiếm ăn. Một cô gái 13 tuổi ở làng bên được dậy tạm một tháng để lấy chút tiền trả nợ cho cha mẹ. Trường học xây cất từ 45 năm qua, mái dột khi trời mưa, không có đồng hồ phải nhìn bóng nắng trên cột mà cho nghỉ lớp. Một phim cảm động sâu sắc, có giá trị hiện thực cao, nó phơi bầy bộ mặt trái của xã hội đang trên đà đổi mới của Hoa Lục, một xã hội không tình người, chỉ có đồng tiền.
Năm 1999, ông thực hiện phim The Road Home, Đường Về Tổ Ấm, đoạt giải Gấu Bạc và giải Đạo diễn tại Đại hội Điện ảnh quốc tế Bá Linh năm 2000 kỳ thứ 50 (Silver Bears – Jury Grand Prize at the 50th Berlin International Film Festival) và giải Sundance 2001 của Mỹ. Đây là phim đầu tiên của Chung Tử Di, nữ minh tinh hàng đầu của Hoa Lục hiện nay, một chi tiết đáng kể nữa là tại Đại hội này Củng Lợi được bầu làm chánh chủ khảo .
Lần đầu tiên năm 1958 một cuộc hôn nhân do tình yêu giữa một cô thôn nữ và một giáo viên trường làng, trái với tục cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy. Bốn mươi năm sau, ông thầy chết vì đau tim, người vợ thuê người khiêng quan tài từ bệnh viện về nhà theo một phong tục xưa, cảnh khiêng áo quan thật sầu thảm. Họ Trương mô tả hiện thực những phong tục lạ bên Tầu. Phim cho thấy bộ mặt lạc hậu cổ lỗ sĩ của nước Tầu thập niên 60.
Bước sang thiên niên kỷ mới nghệ thuật của họ Trương có khuynh hướng thương mại hơn là nghệ thuật không được Tây phương chú ý mấy, chỉ riêng phim Hero, Anh Hùng quay năm 2002 là được biết tới ngoài ra 6 phim kế tiếp không được dư luận phê bình đề cập tới.
Những phim của họ Trương thập niên 90 đa số thành công, đọat nhiều giải thưởng quốc tế, ông thể hiện cũng như giới thiệu cho khán giả quốc tế thấy quá khứ hủ lậu của nước Tầu, thân phận bi đát của người đàn bà trong một xã hội có truyền thống trọng nam khinh nữ. Nhà đạo diễn cũng nói lên cảnh cùng cực của của người dân miền quê khi đât nước chuyển mình sang kinh tế tư bản, về hố cách biệt giầu nghèo giữa thôn quê và thành thị cũng như nỗi thống khổ của nhân dân trước những sai lầm trong quá khứ do chính sách hà khắc tàn nhẫn của đảng Cộng sản Trung Hoa
Đó là chủ đề của phim Anh Phải Sống
Ba Thập Niên Lịch Sử
Phim dựa theo cuốn tiểu thuyết cùng tên của Yu Hua, kể lại thảm kịch của một nhân vật, một gia đình trải dài qua mấy chục năm lịch sử từ thời Quốc Dân Đảng Trung Hoa thập niên 40 đến cuộc nội chiến, Mao nhuộm đỏ nước Tầu chôn vùi triều đình họ Tưởng, tới kế hoạch Đại nhẩy vọt và Cách mạng văn hóa thập niên 60, 70.
Xin sơ lược nội dung
“…..Một gia đình giầu có chốn thành thị, chàng Xu Fugui (Ge You), con một ông nhà giầu ham mê cờ bạc, bỏ bê vợ con. Người vợ hiền Jiazhen (Củng Lợi) cam chịu đắng cay chỉ biết lấy nước mắt để can ngăn chàng nhưng vô hiệu. Người bạn cờ bạc của anh tên Long’er rắp tâm chiến đọat nhà cửa, tài sản của gia đình chàng. Hắn cho mượn tiền và bắt làm giấy nợ, có chứng nhận hẳn hoi. Chàng công tử Xu Fugui càng đánh càng thua to, giấy nợ chồng chất. Tên bạn gian Long’er đem hết giấy nợ cho cụ thân sinh Xu Fugui coi, ông cụ nói:
-Nợ nào cũng là nợ, chúng tôi phải trả
Rồi ông cụ đuổi đánh cậu ấm mất nết và chết ngay sau đó vì uất ức. Rồi người thua bạc phải khăn gói ra đi, để toàn bộ tài sản lại cho người thắng.
Chàng Xu Fugui cùng gia đình dọn về ở bên vợ, bán kim chỉ ngoài chợ, ca hát chèo cổ kiếm tiến nuôi dưỡng vợ con, anh hối hận và quyết lập lại cuộc đời. Cuộc chiến tranh Quốc Cộng tàn khốc diễn ra, lính Quốc Dân Đảng bắt anh và người bạn Chunsheng trong ban hát đi kéo pháo cho họ. Hồng quân tới bắt cả hai làm tù binh, hai chàng lại kéo pháo và hát chèo cổ cho họ nghe.
Cuộc chiến tại đây chấm dứt, Xu Fugui trở về với gia đình mừng mừng tủi tủi, Chunsheng bạn anh theo Hồng quân tiến về phương nam, chính quyền cách mạng phát động đấu tố cường hào, đánh tư sản, anh cũng phải tham gia, cũng dơ tay đả đảo… kẻ bị nhân dân tố khổ hôm nay chính là tay bạn cờ bạc (Long’er), kẻ đã chiếm nhà cửa, tài sản của chàng trước đây. Đám đông đả đảo ầm ĩ, họ dẫn tên cường hào đi xử tội.. khi ấy Xu Fugui lẻn bỏ về nhà, chàng rẽ vào một con hẻm nhỏ đứng tè, mấy tiếng súng chát chúa nổ vang khiến anh hết hồn chạy một mạch về nhà, chị vợ chỉ quần hỏi:
-Ủa sao ướt quần vậy anh?
Chàng ta sợ run lên vừa nói vừa thở, kể lại Long’er kẻ chiếm nhà mình năm xưa bị đấu tố và xử bắn, anh sợ quá nên tè ướt cả quần:
-Anh nghe năm phát súng sợ quá chạy về nhà ngay! May quá nếu mình không mất nhà thì bây giờ cũng bị đấu tố chắc tiêu mạng rồi em ạ!
Gia đính sống bình yên, thời gian trôi qua, chính quyền phát động kế họach Đại nhẩy vọt, nhà nhà đi lượm sắt vụn để nấu thép. Trẻ em cũng phải tham gia sinh hoạt, tối ấy đứa con trai lên tám (Youqing) đi theo bọn thiếu nhi lên trường vì có ông Chủ tịch quận về, chị vợ muốn giữ cậu bé ở nhà vì nó quá mệt, người chồng bảo nó đi vì sợ bị kết án phản động. Chiếc xe của Chủ tịch quận đụng sập tường đè chết thằng bé, nó mệt quá ngủ say không chạy được. Hai vợ chồng khóc than thảm thiết, khi ấy mới biết Chủ tịch quận là anh bạn Chunsheng, người cùng hát chèo với chàng ngày trước.
Thời gian trôi qua, hết kế họach Đại nhẩy vọt lại tới Cách mạng văn hóa ầm ầm như phong ba, hàng đoàn Vệ binh đỏ đi gieo rắc hãi hùng khắp nới, ông tổ trưởng khu phố, bạn thân của gia đình Xu Fugui đề nghị với hai vợ chồng gả đứa con gái đầu lòng hiện bị câm điếc cho anh đội trưởng Vệ binh đỏ trong quận (tên Wan Erxi) để nương nhờ, anh này đứng tuổi, chân đi cà nhắc, rất tốt, giúp đỡ nhà vợ nhiều.
Cô gái có bầu đi sanh tại bệnh viện trong khi các bác sĩ đã bị bắt đi phơi nắng ngoài phố vì tội phản động chỉ còn các cô sinh viên trẻ trông coi. Anh chồng cà nhắc Wan Erxi bèn ra phố dẫn một ông bác sĩ về nhà thương lấy cớ để giáo dục thêm thực ra để giúp cho vợ anh sinh đẻ. Anh ta cho bác sĩ một chục bánh bao, vì nhịn đói lâu ngày ông ăn ngấu nghiến nên bị bội thực chết.
Khi sinh con xong cô vợ bị băng huyết nhiều quá, mấy cô sinh viên không có kinh nghiệm không làm gì được. Rồi đứa con đầu lòng cũng ra đi, hậu quả của Cách mạng văn hóa…”
Định mệnh oan nghiệt đã chụp xuống gia đình Xu Fugui hiền lành chất phác, anh chị đã cống hiến hai đứa con: đứa trai cho kế họach nhẩy vọt và đứa gái đầu lòng cho Cách mạng văn hóa. Tấn thảm kịch của một gia đình bị hy sinh mất mát quá nhiều cũng như của cả một dân tộc đã bị những biến cố oan nghiệt dầy vò vùi dập. Đứa bé trai đáng lý ra không bị bức tường oan nghiệt đè chết, người vợ bảo chồng cứ để nó ở nhà nhưng anh quá sợ hãi chính quyền nằng nặc cử nó đi. Nay người vợ khóc than thảm thiết như mưa như gió trước mộ con, chị kết tội chồng vì khiếp nhược nên đã mất con.
Đứa gái lớn đáng lẽ không không trút hơi thở trên giuờng bệnh viện nếu tất cả các bác sĩ không bị bọn Vệ binh đỏ kết án phản động đem phơi nắng ngòai phố.
Tấn thảm kịch của một gia đình là hình ảnh biểu tượng cho một dân tộc, một đất nước có nhiều bất hạnh hậu quả của sự sai lầm lịch sử, lịch sử đã chọn Mao. Họ Trương đã vận dụng nghệ thuật của mình để nói lên tất cả những nỗi oan khiên, đau khổ của một gia đình và xa hơn là của con người, của xã hội mà ông đã trưởng thành và đã đẩy tính bi thảm của cuốn phim tới tột đỉnh. Truyện phim đau thương tang tóc chưa đủ, nó còn được phụ họa thêm bằng những tiếng khóc than não nùng thảm thiết của người mẹ hiền mất con và nhất là những điệu nhạc đệm sầu não bi ai không bút mực nào tả cho siết.
Mặc dù là bi kịch nhưng Trương Nghệ Mưu không phải chỉ tạo dựng những nhân vật, chung cục thảm sầu khiến khán giả tan nát cõi lòng, xa hơn thế ông đã đóng góp những quan niệm xây dựng hạnh phúc thiết thực như trong lời khuyên của Xu Fugui với Chungsheng bạn anh, người bạn này hồi trước đã cùng anh hát chèo cổ và kéo pháo cho Quốc Dân đảng cũng như Hồng quân nay đã lên tới chức Chủ tịch quận.
Chungsheng tan gia bại sản vì Hồng vệ binh, vợ tự tử nay trong lúc tuyệt vọng anh cũng muốn tự kết liễu đời mình và giao lại cho vợ chồng Xu Fugui tất cả tiền tiết kiệm của anh tại ngân hàng nhưng Xu Fugui không nhận và khuyên bạn một câu
-Anh phải sống.
Trong gian khổ, cay đắng con người cũng phải yêu cuộc sống, dù mất mát tới đâu cũng còn lối thoát, ta vẫn tìm được hạnh phúc, nó luôn ở trong tầm tay chúng ta như cảnh cuối phim đã diễn tả rất trong sáng đơn giản: Gia đình còn lại xum họp trong một bữa ăn thâm mật, người chồng, người vợ chàng rể và đứa cháu ngọai quay quần bên nhau êm đềm hạnh phúc.
Mặc dù phim không được giải Nhành dương liễu vàng (Palme d’or) tại Đại hội điện ảnh Cannes, chỉ được giải khiêm tốn về đạo diễn và diễn xuất nhưng trên thực tế To Live đã được dư luận Tây phương chú ý và ca ngợi như một siêu phẩm giá trị. Nhiều đoạn đã được dàn cảnh thật vĩ đại, công phu tốn kém với hàng đoàn quân xa dài vô tận, mặt trận mênh mông một rừng người. Nó là cuốn phim đầu tiên của Hoa Lục được ngọai quốc mua bản quyền trước.
Họ Trương cũng thêm nhiều pha dí dỏm song song bên các tấn bi kịch để tăng phần phong phú cho ý nghĩa cuốn phim. Vui nhất là cảnh anh chồng vào ngõ hẻm đứng tè nghe mấy tiếng súng chát chúa sợ quá tè ướt quần bỏ chạy một mạch về nhà. Kẻ đã chiếm đọat nhà cửa, tài sản của gia đình anh (Long’er) bị xử tử vì chính sách đánh tư sản, chống cường hào của cách mạng, hắn đã chết thay cho Xu Fugui, anh tâm sự với vợ:
-May quá nếu mình còn nhà cao cửa rộng thì bây giờ tiêu mạng rồi.
Giống y như trong truyện tái ông mất ngựa, phúc họa khôn lường, người ta cũng thường nói của đi thay người.
Những đoạn dí dỏm cũng được thêm vào để làm loãng bớt không khí sầu thảm như cảnh bệnh viện lúc gần hết phim, anh con rể (Wan Erxi) nhân danh đội trưởng Vệ binh đỏ ra phố dẫn ông bác sĩ về nói:
-Tôi dẫn tên này về bệnh viện để giáo dục thêm.
Nhưng sau đó lại nói nhỏ với ông:
-Tôi đưa bác sĩ về nhà thương để giúp vợ tôi, nó đang sinh.
Về tới nới anh đưa cho bác sĩ một lô bánh bao, nhịn ăn lâu ngày ông đói quá ăn ngấu nghiến cả chục cái, một lúc sau cứ nấc lên từng tiếng rồi chết vì bội thực trông vừa tội nghiệp vừa buồn cười.
Nhạc chèo cổ lạ và hay tuyệt, họ múa những con búp bê trước một bóng đèn sáng và in hình lớn trên màn. Những điệu hát cổ buồn mênh mang hòa theo điệu múa đã thu hút khán giả một cách kỳ diệu, Trương Nghệ Mưu lại thành công hơn nữa vì đồng thời đã giới thiệu những cái hay cái đẹp của nền nhạc cổ truyền Trung Hoa với người ngọai quốc.
Họ Trương đã dùng những hình ảnh biểu tượng để diễn tả thảm kịch chung của đất nước ông. Cuộc đời gian truân khốn khổ của Xui Fugui giống như Moritz trong Giờ Thứ Hai Mươi Lăm, những điệu nhạc đệm vô cùng ai oán cùng những tiếng khóc than não nùng của người mẹ trước mộ con, tấn thảm kịch của một gia đình là hình ảnh tiêu biểu cho đất nước ông đã chịu đựng quá nhiều gian khổ, bị dầy vò xâu xé triền miên.
Tất cả cũng chính là những tiếng khóc than bi thiết của đất nước cho số phận của một dân tộc bất hạnh trước sự sai lầm của lịch sử.
Trọng Đạt