Image caption
Các hoạt động cải tạo đảo của Trung Quốc ở Biển Đông gần đây cho thấy tham vọng của Bắc Kinh trong việc độc chiếm vùng biển này. Chiến lược chiếm hữu dần dần Biển Đông này đang gây quan ngại nghiêm trọng không chỉ đối với các nước trong khu vực.
Chúng tôi nói chuyện với ông Jean-Vincent Brisset, chuyên gia từ Viện Quan hệ Quốc tế và Chiến lược Pháp:
Ông nghĩ sao về việc Trung quốc đang cố gắng cải tạo các bãi đá chìm thành đảo nhân tạo và bồi đắp các đảo nhỏ thành lớn hơn?
Ông Brisset: Luật Biển không thừa nhận những gì được xây dựng trên những thực thể không được coi là hòn đảo. Vì vậy, trên quan điểm về chủ quyền, thì xây dựng trên những hòn đảo này cũng không làm tăng thêm cơ sở cho các đòi hỏi về chủ quyền, theo quy định quốc tế.
Tuy nhiên, trên thực tế thì việc xây cất thêm đó cho phép họ tăng khả năng quân sự, tăng quyền lợi kinh tế (trong các vùng biển xung quanh).
Tôi nghĩ rằng Luật Biển khá rõ ràng: sở hữu một thực thể không phải là một hòn đảo theo định nghĩa của Luật Biển, tức là không có cư dân, và không có tài nguyên riêng (đủ cho cư dân trên đảo đó sống được), thì không có giá trị đòi chủ quyền vùng lãnh hải bao quanh. Vì vậy, việc tạo ra chủ quyền lãnh hải xung quanh các “hòn đảo” này, bất kể diện tích là to hay nhỏ, là không đúng với những gì được quốc tế chấp nhận.
Dưới góc độ quân sự thì việc chiếm hữu các vị trí này có giá trị thế nào?
Image copyright IEAS
Ông Brisset: Về mặt quân sự, các “hòn đảo” chỉ có thể được coi như một cứ điểm nhỏ không mấy quan trọng. Lợi ích của nó chủ yếu là về kinh tế, đặc biệt cho ngư dân. Nhưng nếu diện tích vượt quá một ngưỡng nhất định, máy bay chiến đấu có thể hạ cánh được, có thể triển khai trên đó vũ khí hạng nặng, có cảng biển lớn đến mức tàu chiến có thể ghé vào lấy đồ tiếp tế… thì lại là chuyện khác.
Nguy cơ lúc đó sẽ là từ sở hữu về kinh tế, rồi sẽ mở rộng dần sang sở hữu lãnh thổ và chủ quyền. Và hành động đó tạo căng thẳng với các nước trong khu vực.
Các nước khác cũng đã mở rộng đảo nhỏ. Việt Nam, Đài Loan, Malaysia, Philippines đã mở rộng một số đảo, nhưng ở một quy mô khác, và họ không đòi chủ quyền biển xung quanh các đảo đó.
Trung Quốc cũng đang phải trả giá cho hành động của mình. Chiếm thêm được biển, giành được ưu thế về quân sự, nhưng cũng mất đi uy tín, trở nên không đáng tin cậy đối với các nước trong khu vực. Ông có nghĩ là cái giá đó là đắt hay không ?
Ông Brisset: Tôi nghĩ rằng hệ thống mà Trung Quốc đang dựa vào là tìm cách giành chiến thắng một cách âm thầm lặng lẽ trong các cuộc đàm phán, đồng thời dựa cả vào cán cân về quyền lực trong các mối quan hệ song phương. Trung Quốc đã rất thành công khi dùng vũ lực hồi năm 1974 trên các quần đảo Hoàng Sa, và bây giờ vẫn chiếm giữ quần đảo Hoàng Sa, trong lúc thế giới đều không để ý đến [những gì đã xảy ra ở đó].
Giờ đây Trung Quốc muốn mở rộng lãnh hải một chút nữa, theo cùng một cách như Trung Quốc vẫn làm, đó là chỉ nói chuyện song phương, đồng thời tuyên bố chủ quyền một số hải đảo của Việt Nam, Philipines, Malaysia…
Trung Quốc tăng hiện diện trên những hòn đảo, và sẽ dần áp đặt sự có mặt bằng cách xây dựng thêm và tăng chủ quyền thực tế. Tại thời điểm này, cách làm của Trung Quốc đang có kết quả. Trung Quốc đã tạo ra một cơ cấu hành chính hoàn toàn không được công nhận quốc tế, nhưng cơ cấu hành chính này vẫn tồn tại, về hành chính, về quân sự, về chính trị, và được gọi là Tam Sa.
Như vậy các nước nhỏ như Việt Nam và Philippines có thể làm gì? Quốc tế hoá sự việc phải chăng là cách thức duy nhất khả dĩ?
Ông Brisset: Philippines đã chọn cách quốc tế hóa, kiện ra Tòa án quốc tế. Tôi nghĩ rằng đây là một cách tiếp cận khá thú vị. Bởi vì nếu chúng ta phân tích một cách đơn giản, thì Philippines có quyền hợp pháp để làm việc đó.
Bây giờ, vấn đề là đã có quyền hợp pháp rồi, nhưng ngoài ra còn phải có thực lực nữa. Đó là vấn đề khó. Một mặt, mặc dù có một số kiến nghị là nên đi theo cách này, tức kiện ra toà quốc tế, Việt Nam vẫn không làm theo, không dùng tới công cụ pháp lý hợp pháp để giải quyết tranh chấp.
Điều này thật đáng tiếc, bởi vì Việt Nam, trên bình diện pháp luật và trên bình diện chiếm hữu thực tế một số đảo Trường Sa, có những lập luận vững chắc hơn, hơn cả lập luận của Philippines, về chủ quyền của mình do người Pháp chuyển giao lại. Bởi vì trong các tài liệu chính thức được công nhận, thì quốc gia có chủ quyền các hòn đảo này vào thời điểm năm 1933, là Pháp.
Sau khi Pháp chuyển giao chủ quyền, đặc biệt là sau Hiệp định Geneva năm 1954, cho các nước Đông Dương, thì cho đến nay, mọi việc kém rõ ràng hơn, nhưng chủ quyền được chuyển giao đó vẫn có giá trị tồn tại. Các tranh chấp về mặt pháp lý có thể dùng pháp luật để giải quyết. Nhưng điều không may là chính quyền Việt Nam đã không chọn cách đưa ra tòa án quốc tế, là thực thể có nhiều tự do phát biểu hơn đối với Trung Quốc.
Ông có cho là nếu Việt Nam và Philippines cùng phối hợp trên mặt trận pháp lý thì sẽ có hiệu quả hơn không?
Ông Brisset: Việt Nam và Philippines kiện chung thì không nên. Vì nguyên nhân của hai nước là không như nhau, bởi vì các đảo mà mỗi nước tranh chấp không giống nhau. Vì vậy, Việt Nam và Philippines nên làm một cái gì đó, nhưng độc lập với nhau.
Philippines đã kiện, theo ý kiến của tôi, Việt Nam cũng nên thực hiện một cách tiếp cận tương tự. Tòa án sau đó có thể sẽ ít nhiều gắn hai vụ kiện với nhau. Vấn đề hiện nay là Việt Nam, theo tôi biết, vẫn không chọn cách tiếp cận tự nguyện và chủ động này để đạt được một mục tiêu cao hơn.
Nhưng nếu Trung Quốc tiếp tục từ chối không tham gia phiên toà tại La Haye?
Ông Brisset: Trung Quốc không tham gia vụ kiện, bởi vì hiện nay chỉ có một đối thủ duy nhất tại tòa án quốc tế. Nếu có hai đối thủ, 3, 4 nước cùng kiện, Trung quốc sẽ ngày càng phải đối mặt với thực tế, bất chấp ý chí riêng của mình.
Nếu một sự kết hợp giữa Việt Nam và Philippines, sau đó có thêm Malaysia, Đài Loan, thì quốc tế sẽ quan tâm hơn nhiều tới khu vực này, đặc biệt là quan tâm tới những đối với vận tải quốc tế. Chúng ta không quên rằng 40% của vận tải biển của toàn thế giới đi qua khu vực này.
Sự hiện hiện gần đây của Mỹ trong khu vực có ảnh hưởng gì tới tình hình?
Ông Brisset: Sự hiện diện của Mỹ là đi theo chính sách của Mỹ, sự hiện diện đó không trái với luật pháp quốc tế, không trái với luật pháp quốc tế trong tất cả các vùng biển của thế giới. Người Mỹ muốn đảm bảo tự do hàng hải ở Biển Đông. Người Mỹ quan niệm sự tự do hàng hải cũng giống như quyền tự do hàng không ở một số khu vực mà Bắc Kinh đơn phương tuyên bố cách đây không lâu tại Biển Đông.
Trung Quốc coi đó là một sự khiêu khích. Nhưng Hoa Kỳ đã vận dụng đúng luật pháp quốc tế. Trung Quốc có thể dám tấn công một tàu Việt Nam hay tàu Philippines, nhưng không bao giờ dám tấn công một tàu của Mỹ.
Theo ông thì các nước như Việt Nam và Philippines không có nhiều lựa chọn. Lúc này hai nước có thể dựa vào sự hiện diện của Mỹ, dựa vào cơ sở pháp lý, ngoài ra còn có những chỗ dựa nào khác?
Ông Brisset: Có ba cơ sở để đấu tranh với Trung Quốc. Về mặt quân sự, là dựa vào hợp tác vùng hay hợp tác với Mỹ. Thứ hai là cơ sở pháp lý, mà tới nay mới chỉ có duy nhất Philippines chọn.
Và cuối cùng là truyền thông. Nhưng, cả Philippines, Malaysia hay Việt Nam đều ít dùng tới sức mạnh của truyền thông. Đó là một điều đáng ngạc nhiên, bởi vì tôi nghĩ rằng khá dễ dàng khi tăng cường truyền thông về vấn đề này. Tôi thấy hiện nay, Đài Loan đã tham gia một phần, với quan điểm còn tương đối trung dung. Nhưng Đài Loan truyền thông rất nhiều (về vấn đề này), và làm truyền thông thực ra là cách dễ dàng nhất. Tôi ngạc nhiên là cả Philippines và đặc biệt là Việt Nam đã không quan tâm đến vũ khí truyền thông.
Ông có ngạc nhiên khi thấy các nước Asean phản ứng yếu ớt đến thế không?
Ông Brisset: Đã nhiều năm nay các cuộc họp quan trọng của Asean đều cho thấy một nước nào đó, thông thường là Việt Nam, cố gắng định hướng về một tuyên bố chung về Quy tắc ứng xử ở Biển Đông. Quy tắc ứng xử này, về kỹ thuật đã sẵn sàng.
Thế nhưng rõ ràng Trung Quốc đang gián tiếp cản trở nỗ lực đạt Quy tắc ứng xử bằng cách, có thể nói trắng ra, là bỏ tiền ra mua một số quốc gia. Điều này đặc biệt rõ khi ghế chủ tịch luân phiên của Asean được trao cho Campuchia. Chính phủ Campuchia đã ngăn công bố Asean ra tuyên bố chung về Biển Đông.
Theo như lời ông thì một nước như Việt Nam không có nhiều giải pháp, và phạm vi hành động khá là hạn hẹp?
Ông Brisset: Phạm vi phản ứng của Việt Nam là rất hạn chế. Chừng nào Việt Nam không quốc tế hóa vấn đề thông qua tòa án, thông qua truyền thông, chừng nào Việt Nam vẫn hy vọng đàm phán song phương với Trung Quốc, thì Việt Nam sẽ thua.
Ông Jean-Vincent Brisset là cựu chuẩn tướng quân đội Pháp. Ông nghiên cứu Trung Quốc và châu Á trong một thời gian dài. Sau khi rời quân đội năm 2001, ông chuyên sâu về các chủ đề quan hệ quốc tế và quân sự. Hiện ông là Giám đốc nghiên cứu của Viện Quan hệ Quốc tế và Chiến lược Pháp.