“ngày bôi, xóa cũng không là đứt đoạn,
“biệt ly kia, em ạ, để quay về!”
thơ dtl.
1.
Cùng với những vòng lăn cuối cùng xuống đáy vực 2010, là những vết cháy, phỏng của mùa đông dưới không độ, tới sớm trên cảnh vật khắp nước Mỹ. Riêng miền nam California, nơi chúng tôi đang cư ngụ, dấu ấn bà-mẹ-thiên-nhiên để lại, là những ngày mưa. Phẫn nộ.
Đêm, mưa thúc bầy ngựa soải vó rầm rập trên mái nhà. Như cuộc rượt đuổi bất tận của bâng khuâng những mối sầu, xưa. Nỗi niềm, cũ: Quê nhà một thời. Khuất, lấp. Ngày, mưa đem theo gió. Như những tờ giấy nhám chà xát da mặt tôi tấy, mưng buốt. Rét.
Mưa cũng để lại đường phố nơi tôi ở, những vết thương dị dạng. Như sự lơ đễnh ngày một nhiều thêm, của những bà mụ vô trách nhiệm trước những bào thai thiếu tháng. Trong khi cống, rãnh hai bên đường vẫn ngửa cổ, hối hả nuốt những dòng cuồng lưu ầm ầm rác, giấy…
Trong ghi nhận của tôi, không ít lần mưa đã chọn tôi như thửa ruộng mầu mỡ nhất, để gieo hạt. Cá nhân, dù cố gắng, tôi vẫn không thể phân biệt đó là những hạt giống thương mẹ? Những hạt giống nhớ bạn? Những hạt giống (bất chợt) bồi hồi cảm nghiệm tình, nghĩa thâm sâu của những người nữ đã đi qua đời tôi? Hay đó là những hạt giống mái ấm êm đềm mà, người bạn đời đang cho tôi những ngày sót? Mót?
Tôi không hiểu! Chỉ biết, rồi cũng chính những sáng, những trưa, những chiều, những tối mưa kia, đã gặt hái tâm hồn tôi, bằng nhiều lưỡi hái nhớ nhung. Xa vắng. Tôi không khỏi nghi ngờ có một toa rập, ăn ý nào đó, giữa mưa và, những tháng, ngày chông chênh, như thế.
(……)
Nhưng, giữa những ngày mưa, gió rải tro cùng khắp trời đất, những ngày các bạn tôi ở vùng đông bắc hay, tây nam nước Mỹ, mùa đông này, họ khốn đốn biết bao, khi bị vây khổn bởi những chập trùng biển bão tuyết.Tôi chợt hiểu, tự thân cái xấu, điều đáng ghét của thiên nhiên, cũng sinh nở cho chúng ta những đứa con đĩnh ngộ. Như sa mạc cho chúng ta xương rồng. Rừng rậm cho chúng ta cổ thụ. Chim muông. Sông. Suối. Cho chúng ta những hồi chuông thánh hạnh… Chúng ta có nhận biết?
Dù cho, mây không mang trái tim nhân loại và, mưa không hề là nước mắt chúng sinh – – Nhưng đám mây nào rồi cũng trôi đi! Trận mưa nào rồi cũng có lúc chấm dứt! Như thương yêu là những giọt nến hồng nhiễu, chảy, ấm lại mọi chia, ly…
Như khi nắng lên. Bước ra vườn sau của T., thấy nhiều mầm xanh bất động trên cành khô đã ngả mầu nâu, xỉn, tôi nghĩ dường chúng đã truyền hy vọng, sự sống xuống tới nghìn rễ sâu, lòng đất. Phải chăng chúng muốn nhắc nhở tôi:
“Chết, chỉ là cách nói về một đời sống khác?”
Từ đó, tôi suy ra:
“Con người có thói quen cắt bỏ một cách hồn nhiên sự chết, khỏi thân cây sự sống. Như sự cắt bỏ phần hư thối của một trái táo. Trong khi sống / chết vốn chỉ một!”
Tôi không dám chắc cảm nhận của mình. Tôi chỉ biết những ngày vừa qua, mưa không chỉ chọn tôi như thửa ruộng mầu mỡ nhất, để gieo trồng đủ mọi loại hạt mầm…Mà, mưa còn dạy tôi những bài học mới.
Thí dụ, bài học: Thời gian chính là kẻ thi hành bản án của tử thần chính xác và, lặng lẽ nhất. Nhưng trong mỗi đời người, cũng có lúc thời gian chểnh mảng (nhắm mắt, quay lưng,) cho ta có được những khoảnh khắc hạnh phúc. Gói trọn trăm năm.
Thí dụ, bài học: Bày quạ (bạn tôi), những ngày mưa không biết đã siêu tán về đâu?
Trước đây, mỗi buổi chiều, chúng vẫn trở về ngôi nhà xây trên hàng khuynh diệp, bên kia lộ. Chúng thường líu lo kể với nhau (cách của chúng),
về những được / mất…Trước khi bảo nhau xóa sạch mọi buồn / vui, thành / bại ngày qua.
Những cập nhị nguyên này, xẻ chúng ta thành hai phần, niết bàn và, địa ngục. Hư. Giả.
Đôi lần, khi trời vừa chạng vạng, tôi thấy trong những người bạn đen…thui của tôi, có chú bị què chân. Có cô bị xệ cánh… (Hậu quả của những cuộc “không chiến” với các loài chim khác! Hay bị trúng đạn từ những người giữ vườn?) Những bạn quạ đen của tôi, tuy có cất tiếng kêu ai oán, não nùng trong tình tương lân thật đấy – – Nhưng thường không lâu, nếu không muốn nói là rất ngắn, các bạn tôi lại sớm rủ nhau tìm vào giấc ngủ bình an, giữa cành, lá châng lâng, tai họa rình rập. Ngày mai. Tựa, cuộc đời, vết thương với các bạn tôi, thấy vậy, cũng chẳng là điều gì đáng kể!
Bao lần tôi những muốn bắt chước đám bạn quạ đen của mình. Tôi tự nhắc nhở, thời gian sẽ hàn gắn mọi vết thương. Ngay những vết dao mổ dọc ngang thân thể tôi, nay cũng chỉ như những lằn roi đỏ, nổi cộm tựa những bờ đê đắp vụng… Nhưng tôi nghĩ, cách gì, cũng vẫn có những vết thương mà, thời gian phải nghiêm trang, cúi đầu tuyên bố bó tay! Bất lực.
Bạn có thể gọi đó là vết-thương-định-mệnh.
Bạn cũng có thể chỉ danh, đó là những vết thương nông nổi đời thường. Hoặc giả, nếu ngậm ngùi lãng mạn hơn, bạn có thể gọi đó là vết thương tâm, thể:
“Kỷ niệm khởi đầu một kiếp!”
Riêng tôi, chưa bao giờ tôi có được cho mình một kết luận, định nghĩa rốt ráo về loại vết thương ấy. Có thể vì tôi đã từng nhiều lần, bị nhận chìm, dìm sâu đáy cùng thất vọng. (Như tôi từng bị nhận chìm, dìm sâu đáy cùng thương, nhớ!)
Cũng có thể vì tôi sớm hiểu, đời sống là dòng sông nước xiết. Đổi thay là tên gọi thứ hai của đời thường. Có ngạc nhiên chăng, chính là sự không đổi thay đời thường, nếu có!
Nhưng, bằng vào kinh nghiệm của mình, tôi tin, có những tình yêu bất biến. Đó là thứ tình yêu được làm thành bởi những bất toàn. Mất mát. Tổn thương. Và, từ tâm.
Tuổi già (như mưa,) cho chúng ta nhiều từ tâm hơn thời trẻ dại. Ngay cả khi đó là sự gieo, trồng và, tự gặt hái, thu về, giữ lại những gì mình đã gieo xuống.
2.
Cùng với những vòng lăn cuối cùng xuống đáy vực 2010, là những vết cháy, phỏng của mùa đông dưới không độ, tới sớm trên cảnh vật khắp nước Mỹ. Riêng miền nam California, nơi chúng tôi đang cư ngụ, dấu ấn bà-mẹ-thiên-nhiên để lại, là những ngày mưa. Phẫn nộ.
Trong ghi nhận riêng, không ít lần mưa đã chọn tôi như thửa ruộng mầu mỡ nhất, để gieo hạt. Cá nhân, dù cố gắng, tôi vẫn không thể phân biệt đó là những hạt giống thương mẹ? Những hạt giống nhớ bạn? Những hạt giống (bất chợt) bồi hồi cảm nghiệm tình, nghĩa thâm sâu của những người nữ đã đi qua đời tôi? Hay đó là những hạt giống mái ấm êm đềm mà, người bạn đời đang cho tôi những ngày sót? Mót?
Những sớm mai mưa rải tro khắp cùng trời đất, ngồi với Th. và, Ph. dưới hàng hiên của mấy quán café quen, nhiều lần tôi tôi buột miệng, “Mưa… Việt Nam!”
Tôi không biết liên tưởng trực hay, gián tiếp từ ký ức nào, khiến tôi buông lời, như nói với chính mình. Tôi nhớ, tôi có nói với Th. và Ph. mưa làm nhớ Pleiku!
Nhưng tôi không nói với Th. và Ph., những ngày mưa ở Kim Bảng, Hà Nam. Những ngày mưa nghiêng trời, lệch đất mà, từ bậc thềm khá cao nơi cổng nhà, tôi không còn thấy chút bóng dáng (dù mù mờ) của ngọn núi Cấm, bên kia bến sông Đáy. Ngọn núi Cấm nơi quê tôi, chiều chiều vẫn nhận mây và, đón chim bay về. Như tôi, chiều chiều vẫn nhận, đón nỗi buồn quen thuộc, từ những bữa cơm. Những bữa cơm tối của gia đình tôi, được đánh dấu bằng thưa vắng gia tăng!
Nếu tôi không lầm thì, những bữa cơm tối là khoảng thời gian duy nhất trong ngày, mẹ tôi buông, xả, thảnh thơi, ngắm nhìn những đứa con còn lại. Chỉ một hình ảnh bà không bao giờ thấy được: Chiếc bóng bà hắt xuống, chạm vào một phần chân sơn son thiếp vàng, trạm trổ công phu của bàn thờ chính. Trên đó, lần lượt hình ảnh ông, bà, cố kỵ, rồi thầy tôi, các anh, chị tôi dàn hàng, nhập, nhoạng, bên những lư đồng, mâm quả, nhấp nhô, lùm xùm… như sự quây quần của đám người câm. Xa lạ, sau những cây nhang vòng, cháy nham, buồn bã rơi thõng. Tựa hơi thở hắt ra. Đứt đoạn!
Dù ngồi với nhau rất lâu sau đó, nhưng tôi không kể với Th. và Ph., những ngày mưa Hà Nội, đầu thập niên (19)50. Khi mưa ngập lụt sân trường Hàng Vôi ở đường Nguyễn Du. Tan trường, tôi và chị T. tôi phải ở lại! Lóng ngóng chờ chị O. đến đón.
Thời đó, phương tiện di chuyển của chị O. (và nhiều người khác) là cyclo đạp. Nên, dù sốt ruột, nôn nóng cách mấy, chị O. tôi cũng không thể bắt ông cyclo đạp quen, đến đón chúng tôi trước khi nước rút!
Bởi thế, sau khi lau người, thay quần áo khác cho tôi, lúc ngồi vào bàn ăn, nơi phần trong của căn nhà sâu hút ở phố Phúc Kiến, buổi tối đã quánh đặc. Hình ảnh chị dâu tôi với giải tang dài, nhỏ, mầu đen, chít ngang đầu – – Phần dư bỏ phía sau, với tôi, cả trăm lần dài và, buồn hơn thời gian đợi chờ mưa dứt.
Hồi đó, tôi không hiểu vì lý do gì, dù đã trên ba năm, kể từ ngày anh U. tôi bị máy bay Pháp bắn chết ở Nho Quan, chị dâu tôi vẫn không chịu lấy đi khỏi mái tóc đã lấm tấm sợi bạc của chị, giải tang đen nọ!
Cho tới ngày cuộc chia tay đành đoạn, kẻ ở lại Hà Nội! Người đi cư vào Nam! Tôi vẫn không dám hỏi chị O. tôi, lý do sâu xa của sự để tang dài, lâu bất thường này.
Tôi không thể tự trả lời mình: Chị để tang vì tình nghĩa vợ chồng quá lớn lao, chị có với anh tôi? Hay đó là cách phòng thủ, chặn đứng mọi cuộc ngắm nghé (tấn công) của của những người đàn ông háo sắc? (Tới hôm nay, trong ký ức của mình, chị O. tôi vẫn còn là hình ảnh tiêu biểu cho một phụ nữ Hà Nội đẹp-nền-nã.
Mùa đông, khi chị tôi phải khoác lên người tấm áo nhung xanh và, bên ngoài là chiếc áo khoác cũng bằng nhung màu nước biển, chị cho tôi cảm tưởng tôi đang được một bà tiên cầm tay. Ấp ủ…
Những đêm mưa, về muộn, ba chị em lặng lẽ ngồi không kín mâm cơm tẻ, nhạt, tôi nhớ, thỉnh thoảng hình ảnh giải tang đen trên đầu chị tôi lại lay động, theo ngọn đèn chao chát trên cao. Giống như sự chao chát ngột ngạt và, thui thủi của ba chị em chúng tôi! Những con người tuồng bị hất văng khỏi dòng sống. Những sinh vật, tuồng bị xã hội lãng quên!
Hoặc giả, thực sự chúng tôi chưa hề một lần có mặt?!?
Tôi không biết những lúc đó, chị O. tôi nghĩ gì? Nhớ gì? Giữa tiếng mưa như hàng nghìn tiếng búa nện đều nơi miếng sân chia đôi căn nhà.
Tôi chỉ nhớ, những buổi tối như thế, dường chị O. tôi chỉ ngậm những hạt cơm cho có trong miệng! Tôi không thể biết chị tìm gì nơi đứa em út của chồng, khi chị găm sâu những tia nhìn buồn bã lên mặt tôi? Phần mình, tôi mơ hồ thấy như đó là những tia nhìn lạc, mất hồn phách!…
Dù ngồi với nhau rất lâu sau đó, nhưng tôi không kể với Th. và Ph., những chiều mưa ở Saigòn. Những chiều mưa nước sông Saigòn dâng cao. Tôi ngồi với người bạn gái (đã qua đời vài năm sau biến cố 30 tháng 4-1975), ở nhà hàng Ngân Đình. Chúng tôi nghe sóng đẩy mưa suồng sã vỗ ì uồm mấy chân cầu xi măng làm ra trên mặt sông.
Những buổi chiều trôi sớm vào bóng đêm như thế, tôi luôn nhớ, bên tay trái tôi là con đường có tên ba chữ: Bến Chương Dương. Đã trên dưới năm mươi năm, hôm nay, tôi vẫn có thể hình dung: Từ nhà hàng Ngân Đình bước ra, rẽ tay trái, tôi sẽ đi qua khu Ngân Hàng Quốc Gia. Đối diện, ở mé sông là một công viên nhỏ. Đi bộ thêm vài trăm bước, là khu chợ Cầu Ông Lãnh. Cũng ở mé sông, giữa phố chợ, là một quán café xập xệ, không tên, mở suốt ngày, đêm.
Những người bạn làm văn nghệ lớp trước, kể rằng đó là “Quán Biên Thùy.” Tên này do nhà văn Lê Văn Trương đặt, thời ông ngồi thường xuyên và, thâu đêm ở đấy.
“Tội nghiệp lắm! Đó là thời gian sa sút nhất của ông ấy!”
Người bạn văn nghệ lớn tuổi của tôi, nói.
Tôi không được như nhà văn Lê Văn Trương. Tôi cũng không có những đêm ngồi chờ sáng ở “Quán Biên Thùy.” Nhưng cũng tại ngôi quán bên đường, xập xệ ấy, tôi đã có nhiều tối với Đào Quý Châu. Im lặng. Nhìn chếch phía bên kia đường. Nơi có ngôi nhà quen thuộc với tôi. Nơi có ánh đèn néon lạnh lẽo hắt ra, khích lệ niềm hy vọng hão huyền của tôi. Hy vọng được thấy Huyển Châu.
Tôi nói hy vọng hão huyền bởi vì ngay ban ngày, cũng chưa bao giờ tôi thấy Huyền Châu tựa cửa. Chúng tôi thường chờ đợi cho đến khi hai cánh cửa sắt tróc lở thời gian, nặng nề kéo ra, nhập lại. Bên này đường, dù ồn ào hay, bị nhiễu âm bởi mưa, tôi cảm tưởng vẫn nghe được tiếng ngàm sắt móc vào ổ cứng. Không biết bạn tôi cũng nghe được? Nhưng sau đó không lâu, bao giờ bạn tôi thở dài. Ái ngại nhắc tôi đứng dậy:
“Đi về!”
Từ ngôi nhà, ánh đèn và, hình ảnh của người con gái thánh thiện kia, rất nhiều bài thơ thời non dại của tôi, ra đời. Hai trong số này là, “67, khúc thêm cho huyền châu,” sau đổi thành “Trên ngọn tình sầu” với phần nhạc của Từ Công Phụng và, “Một bài thơ nhỏ.” Sau đổi thành “Người về như bụi” với phần nhạc của Hoàng Quốc Bảo.
Ca khúc “Người về như bụi” của Hoàng Quốc Bảo qua tiếng hát Kim Tước, cũng được nhiều người yêu thích, tuy không bằng “Trên ngọn tình sầu” của họ Từ. Nhưng tôi có khuynh hướng nghiêng về “Một bài thơ nhỏ.” Nghiêng về “Người về như bụi!” Có dễ vì họ Hoàng lấy được khá nhiều những câu thơ tôi thích, như:
“người về như như bụi
“vàng trang sách xưa.
(……)
“tôi buồn như gió
“ngang qua thềm nhà
“thấy ai ngồi đợi
“bóng hình chia đôi
“sầu tôi lụ khụ.
“người về như sóng
“buồn tôi quanh năm
“người về như đêm
“mơ hồ cõi chết
“tình tôi phập phều
“những tăm phụ bạc
“lòng tôi gian ác
“dấu trong miệng cười.
“người về như sương
“ẩn sau lá động
“người về trong gương
“thấy mình mất tích…”
Bây giờ, nếu một người nào đó, cắc cớ hỏi:
“Ai mất tích? Người trong gương, hay kẻ ngoài gương?”
Nhiều phần, tôi sẽ trả lời:
“Tôi. Chính tôi là người đã mất tích!.!”
Dù ngồi với nhau rất lâu sau đó, nhưng tôi không kể với Th. và Ph., một đêm mưa vật vã, tôi tạt về thăm mẹ. Khi đó, mẹ tôi còn ở khu Chí Hòa, với gia đình người anh lớn. Tôi biết, không chỉ mẹ tôi mà, mọi người chẳng ai chờ đợi tôi ghé về nhà trong tình cảnh bập bùng bất trắc kia. Lúc tôi bước vào, mẹ tôi từ phòng trong đi ra. Bà ngỡ ngàng nhìn…(Tựa tôi là bóng ma đội mưa trở về!)
Khi biết chắc là tôi, lần đầu tiên, sau bao nhiêu năm, mẹ tôi đặt tay lên đầu tôi. Dường mẹ tôi chỉ muốn thăm dò mức độ ướt, lạnh trên tóc tôi? Nhưng cử chỉ bất ngờ, chệch choạng ấy khiến tôi bùi ngùi! Thấy mình sao quá bất hiếu!
Trở lại nhà riêng, tôi viết “Đêm mưa về Chí Hòa thăm mẹ.” Tự hứa sẽ không bao giờ nữa, lơ là việc thăm mẹ. Nhưng ân hận không ở được với tôi đủ lâu!
Đời sống tôi, những ngày Saigòn, xưa, là một đời sống xốc, nổi – – Dù, hàng năm, mùa mưa vẫn trở về, đôi khi trước tháng mười một. Nhưng mưa đã trôi tuột ân hận tôi về cõi khác!
Dù ngồi với nhau rất lâu sau đó, nhưng tôi cũng không kể với Th. và Ph., chuyện gần nhất, cách đây khoảng sáu, bẩy năm, B. Tuyết, cô em con bà dì ruột của tôi (đứa cháu mẹ tôi thương nhất), một buổi sáng hốt hoảng gọi điện thoại cho tôi, kể đêm qua, Tuyết mới nằm mơ thấy mẹ tôi về báo mộng.
Tuyết nói, trong giấc mơ, mẹ tôi bảo mẹ tôi lạnh quá! Đã ở trên cao, không đủ áo quần ấm mà, mưa lại tầm tã nhiều ngày!!!
Tôi nhớ, quả thật nhiều ngày trước, bà mẹ thiên nhiên thình lình nổi cơn, vùi dập miền nam Cali của chúng tôi, bằng những giận dữ hiếm thấy!
Tuyết hỏi tôi:
“Anh có thể chở em đi thăm mộ Bác?
Tôi nói được chứ. Tôi thêm:
“Ngày mai, anh sẽ đi nghĩa trang. Dù không có Tuyết.”
Sáng sau, tôi chở Tuyết cùng hoa, quả, nhang đèn do Tuyết sắm trước, đến nghĩa trang Loma Vista.
Trời tạnh đã hai ngày. Nắng cao và gió ấm. Nhưng trên ngọn đồi Loma Vista, nước còn đọng từng vụng lớn. Quang cảnh hiện ra trong mắt tôi, là cả một nghĩa trang bị vò nát!
Gió, mưa hất tung tóe tất cả những bó hoa, chậu hoa…Các vòng hoa trên mấy ngôi mộ mới, cũng bị những bàn tay, gót chân đám côn đồ vô hình, điên cuồng trút hận! Vì chúng không lấy được gì, ngoài những bia mộ phẳng, chìm dưới cỏ?
Trước mộ, tôi khấn, hỏi mẹ tôi, “Sao me không báo cho con biết?…”
Mẹ tôi không trả lời! (Đã hẳn!) Tôi nghĩ, có thể mẹ tôi cho rằng, nhắn qua Tuyết, nhiều phần tôi sẽ sốt sắng hơn?
Hơn ai hết, bà hiểu, tuy tôi đã bước qua tuổi sáu mươi, nhưng trong mắt nhìn bà, (dù ở thế giới khác,) trước sau, tôi vẫn chỉ là đứa con út hư đốn mà, bà không thể từ bỏ!
Sau ngày ấy, mỗi lần nhớ mẹ, tôi lẳng lặng lái xe lên đồi Loma Vista. Tôi ngồi chơi với mẹ tôi. Tôi kể với bà đủ mọi chuyện trên trời, dưới đất. Luôn cả những chuyện xấu xa. Tội lỗi…Những chuyện mà bình thường, một mình, tôi cũng không muốn nhớ!
Tôi ngồi đó, hút thuốc. Như ngày nào ở ngôi nhà đường Ranchero Way, tôi dặn mẹ tôi ngồi yên trong phòng khách, để tôi lẻn ra sân sau hút thuốc lá với Trần Duy Đức, Lê Giang Trần hay, Đặng Thanh Phong…
Bây giờ, Phong đã mất. TD. Đức đã bỏ căn nhà ở đường La Vergn Way, đem căn bệnh chưa có tên gọi chính xác, về một ngôi nhà khác. LG. Trần đưa vợ con về sống giữa trang trại một thành phố nhỏ, Texas. Cái thành phố dù được nghe kể nhiều lần, tôi vẫn không thể hình dung.
Chỉ riêng mẹ tôi vẫn nằm một nơi. Loma Vista Cemetery. Đã mấy chục năm, có lẻ.
Qua bao vật đổi, sao dời, bây giờ, không cần phải ngồi giữa nghĩa trang, nhiều đêm chợt tỉnh giấc, tôi cảm tưởng như vẫn nghe được tiếng hú từ rừng cây, con vực nhỏ bên hông nghĩa trang và, dội âm một đoạn nhạc của Lê Văn Thành (ở Montreal.) Ca khúc phổ từ bài thơ “Thương mẹ đã lưng đồi” của tôi:
“tôi đi trên đường gai
“dù Chúa không hề trải
“thương mẹ đã lưng đời
“còn nghe rừng hú mãi…
Tính ra, đã hai mươi năm kể từ khi bài thơ được viết xuống. Người con gái, linh hồn thứ hai trong bài thơ, như mẹ tôi, cũng đã “đi xa.” Tôi tin, họ đã tới cảnh giới khác! Mặc dù tiếng hú kia vẫn còn trong tôi. Mãi mãi. Có thể, tiếng hú, cảm nhận một cách nào đó, đã là tiếng dội đập, có đấy. Tự nhiên (như máu), từ vách thành hai tâm thất tim tôi?!.
3.
Cùng với những vòng lăn cuối cùng xuống đáy vực 2010, là những vết cháy, phỏng của mùa đông dưới không độ, tới sớm trên cảnh vật khắp nước Mỹ. Riêng miền nam California nơi chúng tôi đang cư ngụ, dấu ấn bà-mẹ-thiên-nhiên để lại, là những ngày mưa. Phẫn nộ.
Đêm, mưa thúc bày ngựa soải vó rầm rập trên mái nhà. Như cuộc rượt đuổi bất tận của bâng khuâng những mối sầu, xưa. Nỗi niềm, cũ: Quê nhà một thời. Khuất lấp.
Ngày, mưa đem theo gió. Như những tờ giấy nhám chà xát da mặt tôi tấy, mưng buốt. Rét.
Nhưng dù cho mưa có để lại đường phố nơi tôi ở, những vết thương dị dạng. Như sự lơ đễnh ngày một nhiều thêm, của những bà mụ vô trách nhiệm trước những bào thai thiếu tháng. Trong khi cống, rãnh hai bên đường vẫn ngửa cổ hối hả nuốt những dòng cuồng lưu ầm ầm rác, giấy…Thì, nếu ngày mai quang, tạnh (không cần Tuyết nhắc,) tôi cũng sẽ đi thăm mẹ tôi. Trước ngôi mộ của bà, tôi sẽ thầm khấn:
“Thưa Me, con không biết ngày con ‘thôi nôi,’ Me đã bày ra những gì? Và, con nhặt gì? Tuy nhiên, kể từ hôm nay, không phải mỗi năm mà, mỗi ngày là một ‘thôi nôi’ của con. Con sẽ nhặt lấy cho mình nhiều hơn một thứ. Thưa Me, đó là những biết ơn, không chỉ từ T., từ ruột thịt, bằng hữu mà, còn từ đám đông. Xa lạ. Mọi người.
“Nếu không có những thiện tâm kia, nhiều phần, con của Me khó thể sống sót đến hôm nay!”
(California, 12- 30 – 2010.)
One Comment
Chu Việt
Thơ, văn Du Tử Lê đã là “cổ điển” đi vào văn học sử Việt Nam như thơ Huy Cận, tùy bút Nguyễn Tuân. Bài này chỉ có một chi tiết cần sửa cho hậu thế: Đầu thập niên 50 ở Hà Nội chỉ có trường tiểu học Nguyễn Du ở phố Hàng Vôi (Amiral Courbet), không có trường Hàng Vôi ở phố Nguyễn Du. Tôi ở phố Lò Sũ kế bên nên biết chắc. Và cũng học ở trường Nguyễn Du cuối thập niên 30.