Trong thời gian nắm quyền tại Liên Xô từ năm 1929 tới năm 1953, Stalin đã theo đuổi một đường lối cách mạng thực tế, không chấp nhận tình cảm ý thức hệ, không cho phép một người nào được thảo luận hay đi lệch ra khỏi chính sách của đảng Cộng Sản và phần lớn các câu nói của Lenin được coi là các châm ngôn, không được phép tranh luận. Stalin đã làm phát triển một thứ tôn sùng cá nhân, tự coi mình là người thừa kế duy nhất của Lenin, là người duy nhất có quyền diễn tả các ý thức hệ của đảng Cộng Sản. Tất cả những kẻ chống lại những giáo điều mới này đều bị coi là phản động.
Stalin đã chủ trương đường lối Xã Hội Chủ Nghĩa trong một quốc gia (Socialism in one country) nhờ đó, mặc dù bị thế giới tư bản bao vây, Liên Xô vẫn sẽ có thể trở thành một xã hội không giai cấp. Để giành được nền độc lập kinh tế trong tương lai không bị lệ thuộc vào các nước tư bản bên cạnh, Liên Xô phải phát triển kỹ nghệ nặng, nhà nước phải mạnh, quyền lực phải được tập trung vào trong tay Stalin, tất cả các kẻ chống đối đều phải bị thanh trừng. Từ cuối thập niên 1930, tại Liên Xô đã diễn ra ba cuộc thanh trừng lớn và rất nhiều vụ xét xử nhỏ qua đó các cựu đảng viên Bolshevik bị tố cáo là phản bội, họ bị hành hình hoặc hành hạ trong các điều kiện sinh sống rất cực khổ.
Vụ tranh trừng hay xét xử đầu tiên bắt đầu vào tháng 8 năm 1936, khi đó Genrikh G. Yagoda làm trùm công an mật vụ. 13 bị cáo bị buộc tội đi theo Léon Trotsky vào năm 1932 trong một tổ chức phá hoại để chống lại Stalin. Đây là các đảng viên Bolshevik xuất sắc của giai đoạn Cách Mạng Tháng 10 năm 1917 với những tên tuổi như Grigory Yevseyevich Zinovyev, Lev Borisovich Kamenev và Ivan Smirnov. Ngày 24-8-1936, họ bị tòa án kết tội và đều bị hành quyết.
Vụ xử thứ hai mở ra vào tháng 1 năm 1937, khi N.I.Yezhov đã thay thế Yagoda làm trùm mật vụ NKVD. 17 bị cáo là những nhân vật danh tiếng như G.L. Pyatakov, G.Y. Sokelnikov, L.P. Serebryakov và Karl Radek. Họ cũng bị kết tội là thuộc trung tâm phản động Trotskít cộng tác với Đức Quốc Xã và quân phiệt Nhật Bản để phá hoại Liên Xô, lật đổ chính quyền Xô Viết để tái lập chế độ tư bản. Họ bị tòa án cộng sản kết tội vào ngày 30-1-1937.
Vụ xử thứ ba vào tháng 3 năm 1938 gồm các bị can Nikolay Ivanovich Bukharin và Aleksey Ivanovich Rykov, là những nhân vật cộng sản xuất sắc của cuối thập niên 1920, gồm cả Genrikh G. Yagoda là trùm mật vụ trước kia và 3 bác sĩ danh tiếng… tất cả 21 bị cáo, bị buộc tội phá hoại và làm gián điệp để phá hủy chế độ Xô Viết và phục hồi chủ nghĩa tư bản. Tất cả đều bị hành quyết.
Ngoài ba vụ xử công khai kể trên, tại Liên Xô dưới thời Stalin còn có hàng ngàn vụ xử kín mà nạn nhân là các nhà trí thức, các sĩ quan cao cấp trong quân đội Xô Viết, các đảng viên bất mãn… Các vụ thanh trừng này đã khiến cho lực lượng quân sự Liên Xô bị suy yếu trong giai đoạn đầu của cuộc xâm lăng Đức Quốc Xã vào tháng 6 năm 1941.
Tại Liên Xô vào cuối thập niên 1920 cũng bắt đầu các công cuộc cải cách ruộng đất. Các phú nông và các nông dân chống lại chính sách tập thể của nhà nước Xô Viết đã bị đưa đến các nhà tù gọi là trại cải tạo lao động (forced-labor camps). Hệ thống trại cải tạo lao động, được gọi tắt là GULAG , được bắt đầu do nghị định Xô Viết ký ngày 15-4-1919, quản lý do cơ quan công an mật vụ OGPU (sau này đổi tên thành NKVD và KGB).
Gulag là chữ tắt của Glavnoye upravleniye lagereiy, có nghĩa là Cơ quan quản lý các trại cải tạo lao động (Chief administration of Corrective Labour Camps). Danh từ GULAG không được Tây Phương biết tới cho đến năm 1973 khi xuất hiện các cuốn truyện Quần Đảo Ngục Tù (The Gulag Archipelago, 1918-56) của nhà văn Alexander Solzhenitsyn và đây là quần thể các trại cải tạo rải rác trên khắp miền đất nước Liên Xô, mỗi trại chứa từ 2,000 tới 10,000 tù nhân. Các tù nhân Gulag gồm rất nhiều thành phần: các nông dân từ các vụ cải cách ruộng đất, các thành phần đảng viên và quân nhân bị khai trừ khỏi đảng Cộng Sản, các nhóm dân thiểu số bị nghi ngờ không trung thành, các nhà trí thức bất đồng chính kiến, các kẻ bị tình nghi phá hoại hay phản động, các người Đức hay tù binh chiến tranh người Nga đã bị Đức bắt, các tội phạm thường và các người dân vô tội, nạn nhân của các vụ thanh trừng do Stalin phát động.
Có 3 đợt tù cải tạo Gulag chính: giai đoạn 1929-32 là các năm cải cách ruộng đất tại Liên Xô, giai đoạn 1936-38 khi chính sách thanh trừng của Stalin lên cao nhất và giai đoạn ba là sau Thế Chiến II. Từ cuối thập niên 1920, số tù cải tạo đã bắt đầu gia tăng tới hàng trăm ngàn người và theo Văn Hào Solzhenitsyn, trong khoảng các năm từ 1928 tới 1953, có vào khoảng từ 40 tới 50 triệu người bị kết án dài hạn và làm lao công trong các quần đảo ngục tù. Làm sao biết được con số thực sự của các nạn nhân, nhưng theo Sử Gia người Nga Roy Medveda ước lượng vào năm 1989, đã có vào khoảng 20 triệu người dân Nga chết vì các lao động cải tạo, vì cải cách ruộng đất, vì bị chết đói hay bị hành quyết, còn các học giả tây phương ước lượng có từ 15 tới 30 triệu người chết trong các trại tù Gulag trong thời gian 1918-56.
Từ năm 1923, Công An Xô Viết đã thiết lập các trại tập trung cải tạo trên đảo Solovetski nằm trên bờ Biển Trắng (the White Sea) rồi sau đó rất nhiều các trại cải tạo được xây dựng thêm tại Karelia, Vorkuta, Pechora, tại miền Cực Khuyên của mạn bắc Liên Xô và tại vùng Siberia băng tuyết. Hệ thống tập trung cải tạo từ nay trở thành một thứ tổ chức lao động vĩ đại trên toàn thể lãnh thổ Liên Xô, ngay cả tại Thủ Đô Moscow, để khai thác công sức của các tù nhân cần thiết cho chính sách kỹ nghệ hóa của Stalin. Lúc đầu, các tù nhân phải lao động trong các kỹ nghệ rừng, kỹ nghệ đánh cá và kỹ nghệ hầm mỏ, sau đó tại các công trình lớn như việc xây dựng kênh đào Biển Trắng – Biển Baltic (the White Sea-Baltic Sea canal). Những tù nhân Gulag này không được ăn uống đầy đủ, không có áo ấm mặc, lại phải làm việc trong thời tiết cực lạnh của miền băng giá nước Nga.
Sau khi Stalin chết vào năm 1953, việc khai thác các tù nhân Gulag mới giảm bớt và các trại cải tạo lao động được sửa đổi vào năm 1955 và quản lý do cơ quan GUITK (Glavnoye Upravleniye Ispravitelno-Trudovykh Kolony = cơ quan quản lý các thuộc địa cải tạo lao động).
Phạm Văn Tuấn