Nền giáo dục Việt Nam hiện tại đang suy thoái trầm trọng. Sự suy thoái nầy không phải chỉ một sớm một chiều, mà đã bắt đầu khá lâu, có thể mấy chục năm nay, từ khi chế độ cộng sản xuất hiện ở Việt Nam. Nền giáo dục cứ đi xuống từ từ, khó nhận biết. Người ta nói đi xuống theo hình trôn ốc. Nghĩa là càng xuống thì sự yếu kém của nền giáo dục càng rộng ra, từ thế hệ nầy qua thế hệ sau. Kém đến nổi vào đầu năm 2007, hai giảng viên trường Đại học Sư phạm Thái Bình đã phát biểu rằng Tự Lực Văn Đoàn là một đoàn Cải lương và Nhất Linh là một tài tử cải lương.(1) Giảng viên ĐHSP mà như thế thì những người học trò của họ, những giáo sinh ĐHSP, tức những người thầy tương lai của Việt Nam sẽ như thế nào?
1.- CHÍNH SÁCH VĂN HÓA GIÁO DỤC QUA CÁC HIẾN PHÁP
Để tìm căn nguyên suy thoái của nền giáo dục Việt Nam hiện nay, có lẽ cần phải bắt đầu từ đầu, tức đi thẳng vào chính sách giáo dục của chế độ cộng sản Việt Nam.
Hiến pháp năm 1946 nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, được Quốc hội đầu tiên thông qua ngày 9-11-1946, gồm 7 chương với 70 điều, trong đó điều 15, mục B, chương II, ghi rằng: “Nền sơ học cưỡng bách và không học phí ở các trường sơ học địa phương, quốc dân thiểu số có quyền học bằng tiếng của mình. Học trò nghèo được chính phủ giúp. Trường tư được mở tự do và phải dạy theo chương trình Nhà nước.”
Đó là điều duy nhất trong hiến pháp năm 1946 quy định về nền giáo dục. Cần chú ý là lúc đó, tình hình khá căng thẳng, sắp xảy ra chiến tranh, nên tất cả mọi người đều chú trọng vào việc kháng Pháp, việc ngọai giao, quốc phòng… Việc giáo dục chẳng được chú ý là chuyện bình thường, ai cũng lo “xếp bút nghiên theo việc đao cung”.
Sau năm 1954, đất nước bị chia hai. Đảng Lao Động và Hồ Chí Minh cầm quyền ở phía bắc vĩ tuyến 17, tiếp tục chế độ VNDCCH. Hiến Pháp thứ hai của nước VNDCCH gồm 10 chương với 112 điều, được Quốc hội Bắc Việt thông qua ngày 31-12-1959, trong đó các điều 33, 34, 35 thuộc chương III nói về chủ trương văn hóa giáo dục, cũng chỉ trình bày chủ trương tổng quát gần như hiến pháp năm 1946. Có thể vì lúc đó, nhà cầm quyền Hà Nội đang chuẩn bị tấn công miền Nam, nên tránh việc quá lộ liễu “tính đảng” trong văn hóa giáo dục.
Sau khi đánh chiếm toàn bộ miền Nam năm 1975, nhà nước Hà Nội tổ chức bầu cử Quốc hội trên toàn quốc ngày 25-4-1976. Quốc hội họp phiên đầu ngày 24-6-1976 tại Hà Nội. Trong phiên họp hơn một tuần sau đó, ngày 2-7-1976, Quốc hội tuyên bố đổi tên nước thành Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam (CHXHCNVN), thủ đô là Hà Nội. Về phía đảng Lao Động, nay không còn phải tránh né dư luận trong và ngòai nước, đảng Lao Động tự đổi thành đảng Cộng Sản Việt Nam trong Đại hộI IV, từ 14 đến 20-12-1976. Lê Duẩn tiếp tục giữ chức tổng bí thư.
Ngày 27-6-1978, tại Bucarest (thủ đô Roumania), CHXHCNVN gia nhập khối COMECON (Council for Mutual Economic Assistance tức Hội Đồng Tương Trợ Kinh Tế) tức khối kinh tế do Liên Xô đứng đầu. Sau đó, ngày 3-11-1978, Lê Duẩn sang Liên Xô ký với Leonid Brezhnev, tổng bí thư đảng CSLX, “Hiệp ước hai mươi lăm năm hỗ tương và phòng thủ” giữa hai nước.
Nói một cách khác, từ nay, CSVN không cần ẩn danh dưới một hình thức chính trị nào và để lộ hẳn bản chất của một chế độ cộng sản toàn trị. Việc nầy thấy rõ trong chính sách văn hóa giáo dục của nhà nước Hà Nội trong hiến pháp năm 1980. Bản hiến pháp nầy gồm 7 chương với 147 điều, được Quốc hội Hà Nội thông qua ngày 18-12-1980, trong đó chương III nói về văn hóa, giáo dục, khoa học, kỹ thuật.
Về văn hóa, điều 37 ghi rằng: “Nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam đầy mạnh cách mạng tư tưởng và văn hóa, xây dựng nền văn hóa mới có nội dung xã hội chủ nghĩa…” Điều 38 nguyên văn như sau: “Chủ nghĩa Mác-Lênin là hệ tư tưởng chỉ đạo sự phát triển của xã hội Việt Nam. Nhà nước tuyên truyền, giáo dục sâu rộng chủ nghĩa Mác-Lênin, đường lối chính sách của đảng Cộng Sản Việt Nam, Hiến pháp và pháp luật của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam; bảo vệ và phát triển những giá trị văn hóa và tinh thần của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa thế giới; chống các tư tưởng phong kiến, tư sản và ảnh hưởng của văn hóa đế quốc, thực dân; phê phán tư tưởng tiểu tư sản; xây dựng nếp sống xã hội chủ nghĩa, xóa bỏ nếp sống lạc hậu, bài trừ mê tín, dị đoan.”
Về giáo dục, điều 40 ghi rằng: “Nền giáo dục Việt Nam không ngừng được phát triển và cải tiến theo nguyên lý học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất…” Điều 41 thêm vào: “Sự nghiệp giáo dục do Nhà nước thống nhất quản lý…Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, gia đình và xã hội cùng với nhà trường có trách nhiệm giáo dục thanh niên, thiếu niên và nhi đồng.”
Về văn học, điều 44 viết: “Văn học nghệ thuật Việt Nam được xây dựng trên lập trường, quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin và theo đường lối văn nghệ của Đảng Cộng Sản Việt Nam…”
Sau đó, từ năm 1989 đến năm 1991, các chế độ cộng sản ở Đông Âu và Liên Xô lần lượt sụp đổ, chủ nghĩa Mác-Lênin hoàn toàn bị phế thải ở Âu Châu, nên CHXHCNVN chẳng đặng đừng phải thay đổi hiến pháp. Hiến pháp mới được Quốc hội thông qua ngày 15-4-1992, gồm 12 chương và 147 điều, trong đó, chương III nói về văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ, bỏ bớt những từ ngữ liên hệ đến chủ nghĩa Mác-Lênin, nhưng cũng mang tính tòan trị, đại khái như “nhà nước thống nhất quản lý sự nghiệp văn hóa…”(điều 30), “nhà nước thống nhất quản lý hệ thống giáo dục quốc dân về mục tiêu, chương trình, nội dung…”(điều 36).
Như thế, chỉ có bản hiến pháp năm 1946 chấp nhận hệ thống tư thục, còn từ hiến pháp năm 1959 đến hiến pháp năm 1992, là “nhà nước thống nhất quản lý hệ thống giáo dục…”. Tuy rất tổng quát, nhẹ nhàng, nhưng “thống nhất quản lý” là ngôn ngữ hành chánh, ngôn ngữ chính trị, có nghĩa là độc quyền quản lý, hay nói cách khác việc giáo dục thuộc độc quyền của nhà nước, không có hệ thống tư nhân, không có các trường của các tôn giáo hay các hội đoàn. Giống như nhà nước độc quyền chính trị, độc quyền kinh tế, độc quyền tài chánh, độc quyền ngọai thương, độc quyền báo chí…
2.- CHỦ TRƯƠNG GIÁO DỤC PHỤC VỤ CHÍNH TRỊ
Trong bài nói chuyện tại lớp học tập chính trị khoảng 3,000 giáo viên cấp 2 và cấp 3 miền Bắc (dạy từ lớp 6 đến lớp 12), do bộ Giáo Dục tổ chức tại Hà Nội ngày 13-9-1958, Hồ Chí Minh nói: “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người.”(Báo Nhân Dân ngày 14-9-1958.) Câu nầy, Hồ Chí Minh dịch của Quản Trọng thời Xuân thu (722-479 TCN) bên Trung Hoa (thập niên chi kế tại ư thụ mộc, bách niên chi kế tại ư thụ nhân). Như thế, Hồ Chí Minh và đảng CSVN thấy rõ tầm quan trọng chiến lược của việc giáo dục.
Do đó, ngay từ đầu, khi một mình đảm trách nền giáo dục toàn quốc từ sau năm 1946 cho đến nay, bộ Giáo dục nhà nước cộng sản không những chỉ quản lý chặt chẽ nền giáo dục, mà còn thi hành chủ trương giáo dục phục vụ chính trị, phục vụ đảng.
Theo những nhà giáo lớn tuổi, lúc mới chiếm được chính quyền vào tháng 9-1945, nhà nước VNDCCH vẫn còn theo chương trình giáo dục lập ra từ thời chính phủ Trần Trọng Kim. Vị bộ trưởng giáo dục trong chính phủ Việt Minh đầu tiên ngày 2-9-1945 là ông Vũ Đình Hòe. Ngày 3-11-1946, Hồ Chí Minh cải tổ nội các, một tuần trước khi hiến pháp đầu tiên được thông qua. Ông Nguyễn Văn Huyên được đưa lên thay ông Vũ Đình Hòe, giữ chức bộ trưởng giáo dục. Ông Nguyễn Khánh Toàn làm thứ trưởng.
Tuy là thứ trưởng, nhưng mọi quyền hành nằm trong tay ông Nguyễn Khánh Toàn, vì ông là đảng viên cộng sản lâu năm. Nguyễn Khánh Tòan dạy tiếng Việt ở Moscow từ năm 1927, có tên Nga là Minin, có vợ Nga, vào học ở Học viện Thợ thuyền Đông phương (Université des travailleurs d’Orient) từ năm 1928 đến năm 1931. Sau đó, Toàn ở lại Liên Xô. Năm 1939, Nguyễn Khánh Toàn cùng Nguyễn Ái Quốc qua Trung Hoa, cùng đến Diên An, căn cứ của CSTH, năm 1941. Toàn ở lại Diên An, đến năm 1946 mới trở về Việt Nam.(2)
Tất cả những thay đổi trong nền giáo dục bắt đầu khi Nguyễn Khánh Toàn trở về Việt Nam, ứng dụng triết lý giáo dục của Liên Xô, do bộ trưởng giáo dục Liên Xô là Kalenikov (?) đưa ra. Đó là “Giáo dục phục vụ chính trị”, tức giáo dục phải phục vụ chế độ do đảng Cộng Sản điều hành, hay nói cách khác, giáo dục phải có tính đảng và những nhà giáo, giáo viên, phải có lập trường đảng thật vững vàng.
Trong lúc chiến tranh tiếp diễn, Nguyễn Khánh Toàn ra lệnh tổ chức những trại huấn luyện cho giáo viên trong khu vực do Việt Minh cộng sản chiếm đóng, phổ biến nền giáo dục mới tại các liên khu. Trại huấn luyện liên khu 3 tổ chức tại Yên Mô (Ninh Bình) và liên khu 4 tại Cổ Định (Nông Cống, Thanh Hóa).(3) Sau khi được huấn luyện, các cán bộ nòng cốt trở về tỉnh của mình, tổ chức truyền đạt lại cho giáo viên cấp tỉnh, rồi từ tỉnh xuống huyện.
Chính sách giáo dục phục vụ chính trị là chủ trương cốt lõi của chế độ cộng sản, được đảng Cộng Sản (đổi thành đảng Lao Động từ năm 1951, rồi đảng Cộng sản Việt Nam năm 1976) và nhà nước do đảng nầy lập ra, thực hiện hết sức nghiêm chỉnh trong các vùng do Việt Minh kiểm sóat từ năm 1948 đến năm 1954, ở miền Bắc Việt Nam (bắc vĩ tuyến 17) từ năm 1954 đến năm 1975, và trên tòan cõi Việt Nam từ năm 1975 cho đến nay.
Chính sách giáo dục nầy gần đây được củng cố thêm bằng luật số 11/1998/QH10 của Quốc hội Hà Nội, áp dụng từ ngày 2-9-1998, theo đó: “…Nền giáo dục Việt Nam là nền giáo dục xã hội chủ nghĩa có tính nhân dân…lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng.”
3.- ỨNG DỤNG CHỦ TRƯƠNG “GIÁO DỤC PHỤC VỤ CHÍNH TRỊ”
Từ chủ trương chính trị hóa giáo dục, tất cả chương trình học các cấp đều phải theo nhu cầu chính trị của đảng Cộng Sản và của nhà cầm quyền cộng sản. Tiêu chuẩn chọn lựa giáo viên là “hồng hơn chuyên”, có lập trường theo đảng vững vàng hơn là giỏi chuyên môn. Sách giáo khoa do Ban Tu thư Trung ương gồm đảng viên biên sọan, ban Văn hóa tư tưởng đảng duyệt xét, in ấn, trở thành pháp lệnh, bắt buộc giáo viên phải tuân theo.
Nhiều khi sách giáo khoa được viết sai. Ví dụ không ai có thể tưởng tượng nổi sách giáo khoa môn Văn lớp 10, khi bình luận bài “Bình Ngô đại cáo”, đã viết rằng Nguyễn Trãi là nhà bảo vệ môi trường.(Người Việt Online, 7-8-2006, “Sách giáo khoa lớp 10 ở Việt Nam”.)
Dầu vậy, dầu sách giáo khoa viết sai thế nào, giáo viên cũng phải tuân theo, không được dạy khác sách giáo khoa, ngoài sách giáo khoa. Giáo viên và cả học sinh không được suy nghĩ hay phát biểu bất cứ ý kiến gì mới lạ, ngoài những gì cộng sản chủ trương, ngòai những điều đã học ở trường lớp và sách giáo khoa. Nhà nước và nhà trường không chấp nhận cái gì mới ngoài những sách giáo khoa của nhà nước, chủ trương của đảng CSVN. Ai có ý kiến gì khác liền bị quy chụp là xét lại, phản động, chắc chắn sẽ được đưa đi cải tạo, nghĩa là vào tù.
Sách giáo khoa phải luôn luôn đề cao tính ưu việt của chủ nghĩa cộng sản, chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, ca tụng đảng Cộng Sản Việt Nam, ca tụng các lãnh tụ đảng. Không phải chỉ ca tụng đảng Cộng Sản Việt Nam, mà cả các đảng Cộng Sản trên thế giới, từ Liên Xô, Đông Âu, Trung Hoa… Và ca tụng tòan thể các lãnh tụ các đảng CS nằm trong hệ thống Đệ tam Quốc tế.
Trong lãnh vực khoa học, sách giáo khoa cộng sản luôn luôn cho rằng chỉ có những nhà khoa học cộng sản, các nước cộng sản là ưu việt, dầu những lý thuyết của các tác giả Liên Xô hay Đông Âu cộng sản đã quá cũ, đồng thời chê bai, đả kích những nhà khoa học của các nước tư bản, đế quốc.
Có một câu thơ điển hình về việc nầy:
“Người ta dạy tôi
Đồng hồ Liên Xô tốt hơn đồng hồ Thụy Sỹ
Trăng Trung Quốc tròn hơn trăng nước Mỹ,
Tôi đã sống một phần hai thế kỷ
Để hôm nay làm đĩ với tâm hồn.”
(Trích: Cửa mở của Việt Phương)
[Việt Phương từng là thư ký riêng của Phạm Văn Đồng]
Trong lãnh vực địa lý, theo sách giáo khoa của CSVN, chỉ có những nền kinh tế xã hội chủ nghĩa là thực sự phát triển dưới sự lãnh đạo tài tình của đảng CS, trong khi các nền kinh tế tư bản, tự do là bóc lột, phồn vinh giả tạo.
Trong lãnh vực văn chương, người cộng sản chỉ ca tụng những tác giả xuất hiện từ thời cộng sản, ở Liên Xô, ở Đông Âu, ở Trung Cộng. Riêng ở Việt Nam, thì những tác giả cổ điển bị sách giáo khoa cộng sản cho là mang đầy tư tưởng phong kiến, hưởng lạc trong khi nhân dân đau khổ. Thậm chí, Nguyễn Du vẫn còn tư tưởng lạc hậu, phản động, và thân phận nàng Kiều là một bản cáo trạng đanh thép đối với chế độ phong kiến.(4) Văn học sử Việt Nam dưới chế độ cộng sản luôn luôn đề cao Hồ Chí Minh, Sóng Hồng (Trường Chinh), Tố Hữu…Đề thi trung học quanh quẩn giữa các tác giả cộng sản.
Về lịch sử, thì lịch sử đất nước hay lịch sử thế giới đều được sách của chế độ Hà Nội giải thích theo quy trình của chủ nghĩa công sản, từ xã hội nguyên thủy cho đến ngày nay. Lịch sử được vo tròn bóp méo theo nhu cầu của đảng CS. Người ta còn sáng tác những chuyện hoang tưởng rồi đưa vào lịch sử, và bắt học sinh phải học. Như chuyện Lê Văn Tám, chuyện Tôn Đức Thắng ở Hắc Hải, chuyện Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước.
Trần Huy Liệu là người đã sáng tác chuyện Lê Văn Tám trong sách giáo khoa Việt sử của cộng sản. Trước khi chết, ông Liệu hối hận vì mình đã bịa chuyện Lê Văn Tám, nên ông Liệu nhờ ông Phan Huy Lê cải chính. Phan Huy Lê đã công khai cải chính trong một cuộc họp của hãng phim truyền hình Việt Nam tại Hà Nội vào cuối tháng 2-2005, bảo rằng chuyện Lê Văn Tám hoàn toàn không có thật (Người Việt Online, Chủ Nhật 20-3-2005). Tuy nhiên, hiện nay học sinh trong nước vẫn phải học “anh hùng Lê Văn Tám” (?). Tại Sài Gòn vẫn còn công viên Lê Văn Tám trên đường Hai Bà Trưng.
Ở bậc trung tiểu học, các em học sinh Việt Nam phải học “Năm điều bác Hồ dạy”. Đó là: “Yêu tổ quốc, yêu đồng bào. Học tập tốt. Lao động động tốt. Giữ gìn vệ sinh thật tốt. Khiêm tốn, thật thà, dũng cảm.” Trong năm điều nầy, không có điều nào dạy cho trẻ em có hiếu với cha mẹ, thuận thảo với anh chị em, biết kính nễ người lớn tuổi. Người ta còn buộc học sinh học tập theo gương “đạo đức Hồ Chí Minh”(?). Điều nầy làm cho các bậc phụ huynh rất lo ngại, vì các phụ huynh và cả học sinh hiện nay ở trong nước, qua báo chí sách vở hải ngọai, qua internet, đều đã biết Hồ Chí Minh là người như thế nào?
Như thế, ngay từ căn bản, giáo dục dưới chế độ cộng sản đồng nghĩa với giáo dục nhồi sọ, giáo dục giáo điều. Học sinh chỉ biết vâng lời chứ không tập suy nghĩ, không được phê phán, không học suy luận. Từ đó, óc sáng tạo của học sinh bị xơ cứng, dần dần đi đến chỗ thui chột. Sau đây là lời phát biểu của tiến sĩ sử học Phạm Ngọc Tùng, giảng viên Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc Gia Hà Nội: “Quan niệm giáo dục và thực hành sư phạm phổ biến hiện nay vẫn là truyền thụ, “nhồi” một chiều chứ không phải trao đổi kiến thức. HS hiếm khi phải tư duy, khi đến lớp chủ yếu là… chép bài. Đến lúc gặp phải đề thi có chút tổng hợp, liên kết là lúng túng, không biết lắp ráp thế nào.”(báo Tuổi Trẻ, ngày 28-7-2006) (còn tiếp)
4.- NHỮNG CĂN BỆNH CỦA NỀN GIÁO DỤC PHỤC VỤ CHÍNH TRỊ
Chế độ cộng sản độc tài toàn trị cũng như nền giáo dục giáo điều, chỉ có thể tồn tại bằng khủng bố, bạo lực, áp đặt và bưng bít. Tuy nhiên, ngày nay có hai trở ngại chính cho các chế độ độc tài toàn trị là cuộc cách mạng thông tin toàn cầu và xu hướng dân chủ hóa trên thế giới. Các nước trên thế giới đều kêu gọi thực hiện dân chủ, nên bất cứ một hành động độc tài nào đều bi lên án. Hơn nữa, những hành động độc tài không thể che giấu, bưng bít nhờ việc thông tin tân tiến, dễ dàng, thuận lợi và nhanh chóng.
Ngày nay, do mạng lưới thông tin toàn cầu phát triển, những sự thật lịch sử dần dần được đưa ra ánh sáng, nên không còn ai tin những chuyện bịa đặt trong các sách giáo khoa cộng sản Việt Nam. Ngòai ra, trong khi thực hiện chủ trương giáo dục phục vụ chính trị, nền giáo dục Việt Nam lại nẩy sinh ra những tệ nạn đi kèm, những căn bệnh khó có thuốc trị.
Căn bệnh đầu tiên là bệnh lý lịch. Vì giáo dục phục vụ chính trị nên đầu tiên giáo dục phải phục vụ đảng, đảng viên và gia đình đảng viện, tức con em đảng viên, có lý lịch tốt đối với cộng sản. Tất cả các kỳ tuyển sinh đều dựa trên căn bản lý lịch. Lý lịch học sinh được chia thành 14 bậc. Lý lịch càng hồng, càng đỏ thì điểm tuyển càng thấp, nên càng dễ đậu. Con “ngụy quân”, ngụy quyền” ở bậc thứ 13 hay 14, nên có khi điểm rất cao, nhưng vẫn không được tuyển chọn.
Năm 1975, khi mới đánh chiếm miền Nam, những ngành nghề như Sư phạm, Y khoa, chỉ chọn con đảng viên, cán bộ, vì giáo viên là kỹ sư của tâm hồn, bác sĩ là người nắm mạng sống của thiên hạ, nên chỉ những người lý lịch thật tốt mới được học. Trong trường hợp có học bổng, nhất là học bổng ra nước ngoài, lại càng rất khó. Bệnh lý lịch đi kèm theo bệnh thân thế. Con mấy ông càng lớn, thì càng hồng, càng đỏ, càng dễ thi đậu, có thể học dốt cũng đậu.
Bệnh thứ hai là bệnh thành tích, chỉ tiêu. Trường nào, lớp nào cũng phải đạt “chỉ tiêu trên giao”, nghĩa là học sinh phải lên lớp thật đông, phải đậu thật nhiều. Có trường hợp biết con mình học yếu quá, phụ huynh đến xin nhà trường cho con mình ở lại lớp, để học lại cho chắc chắn, liền bị nhà trường quy tội là phá hỏng chỉ tiêu của lớp.
Theo báo điện tử VNExpress, trong cuộc họp lãnh đạo các Sở Giáo Dục và Ðào Tạo trên toàn quốc ngày 22-8-2006, ông Lê Xuân Ðồng, giám đốc Sở Giáo Dục và Ðào Tạo Thanh Hóa, cho biết: “Chúng tôi mắc bệnh thành tích là có phần của bộ. Chỉ tiêu phấn đấu, thi đua do bộ đưa ra, và để đạt được những chỉ tiêu đó, chúng tôi phải mắc bệnh thành tích.”(Người Việt Online ngày 22-8-2006).
Bệnh thứ ba là bệnh nói không đúng sự thật và bất cần thực tế cuộc sống: Căn bệnh thứ ba bắt nguồn từ công tác phục vụ đảng là bất chấp sự thật, bất cần thực tế, chỉ cần theo đúng đường lối chủ trương của đảng. Nói không đúng sự thật hay nói láo để tô hồng chế độ, để hạ thấp giá trị của tất cả những gì không phải cộng sản, để nhồi sọ thanh thiếu niên, để lập thành tích cho nền giáo dục phục vụ chính trị.
Bệnh nầy thấy rõ trong các môn nhân văn, như văn chương, địa lý và sử học. Ông Hà Văn Thịnh, giảng viên Trường Đại học Khoa học Huế, đã viết: “Còn mình thì chỉ một chiều, lúc nào cũng chỉ địch thua ta thắng, địch bao giờ cũng hèn nhát, ta bao giờ cũng cao thượng, dũng cảm. Một chiều như vậy mãi thì HS cũng không thích, thậm chí tạo mặc cảm lừa dối.”( Tuổi Trẻ, 28-7-2006.) “Tất cả những trận đánh mà Cộng sản thực hiện đều “thắng lợi vẻ vang”, tiêu diệt rất nhiều tên địch, phá hủy nhiều phương tiện vũ khí trong khi đó số thương vong của Cộng sản không bao giờ được liệt kê. Phần nguyên nhân của tất cả các cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mĩ bao giờ cũng được dùng để ca ngợi sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng và ông Hồ Chí Minh. Trong khi đó không có một bài nào mô tả cuộc sống và tình hình thực chất ở miền Nam Việt Nam.”(Hoàng Duy, “Vì sao học sinh Việt Nam dốt sử?”, Đàn Chim Việt, ngày 4-8-2006.)
Khi được ký giả Trà Mi hỏi: “Những cái đang đựơc giảng dạy trong nhà trường có phù hợp với những gì đang diễn ra thực tế bên ngoài hay không?” Một sinh viên tên Tòan, cao học chuyên ngành Quản trị kinh doanh thuộc trường đại học kinh tế TPHCM, trả lời rằng: “Nếu sinh viên học theo chương trình của Bộ thì ra ngoài khi đi xin việc làm, các công ty hoặc là phải đào tạo lại từ đầu hoặc cho ra nước ngoài học tập, theo yêu cầu công việc của doanh nghiệp.” (Phỏng vấn của phóng viên Trà Mi, đài RFA ngày 22-11-2006)
Hiện nay, chủ nghĩa Mác-Lênin trở thành đồ phế thải trên thế giới, nhưng ở trong nước, học sinh các khối thi tốt nghiệp trung học phải chọn một trong hai bộ môn sau đây: Thứ nhất: Triết học Mác-Lênin, Chủ nghĩa xã hội khoa học, Kinh tế chính trị Mác-Lênin, Lịch sử đảng CSVN, Tư tưởng Hồ Chí Minh. Thứ hai: Triết học Mác-Lênin, Kinh tế chính trị Mác-Lênin, Chủ nghĩa xã hội khoa học.
“Bộ giáo dục và đào tạo Việt Nam vẫn bắt buộc sinh viên phải học chủ nghĩa Mác-Lê nin, ngay cả các trừơng đại học liên kết giảng dạy tại Việt Nam đều phải có chương trình giảng dạy về các môn này. Thực tế, 99% sinh viên học theo kiểu đối phó vì không hiểu nỗi và học xong không biết để làm gì. Các môn này mang tính chính trị nhằm định hướng tư tưởng người dân. Chính quyền muốn duy trì thể chế nên phải đưa những môn này vào bắt buộc người dân học.”(Sinh viên Toàn trả lời phỏng vấn của phóng viên Trà Mi, đài RFA ngày 22-11-2006.)
Ngòai các căn bệnh căn bản trên đây, nền giáo dục Việt Nam hiện tại còn có những căn bệnh phụ, vừa do chủ trương giáo dục phục vụ chính trị, vừa do hòan cảnh xã hội đói kém, như các bệnh lạm phát bằng cấp, bệnh tham nhũng trong giáo dục…
Do nhu cầu chính trị, các chức sắc từ cấp giám đốc trở lên cần có bằng cấp, học vị, nên theo học chuyên tu hay tại chức. Ở trong nước hiện nay có câu tục ngữ thời danh: “Dốt chuyên tu, ngu tại chức.” Thế mà các ông vẫn có bằng thạc sĩ (tương đương với cao học trước năm 1975) và tiến sĩ. Theo thống kê của nhà nước CSVN, từ sau năm 1975, Việt Nam đào tạo được 8,400 tiến sĩ và 39,000 thạc sĩ, gấp 3 lần Thái Lan. Tuy nhiên, Hội nghị Ban chấp hành Trung ương khóa 9 năm 2002 đã cho rằng: “Ngày nay, giáo dục đại học của ta đang tụt thấp hơn 50 bậc so với đại học Thái Lan.” Trong cuộc họp báo ngày 5-1-2006 ở Hà Nội ông bộ trưởng bộ Giáo dục và Đào tạo thú nhận rằng: “Trong số 8,400 tiến sĩ đào tạo từ năm 1976 cho đến nay, thì đã có 2,500 có trình độ yếu. Bằng cấp đối với nhiều người chỉ làm đẹp hồ sơ, tạo cơ hội cho sự thăng tiến.”(Mai Thanh Truyết, “Giáo dục Việt Nam”, báo Sống, Houston, tháng 3-2006.)
Bệnh tham nhũng không phải chỉ riêng ngành giáo dục, mà đó là bệnh của chung tòan thể bộ máy cầm quyền cộng sản, có thể xem là bệnh xã hội, như bệnh hoa liễu, bệnh Sida (Aids). Bệnh hoa liễu, bệnh Sida chỉ giết một số cá nhân, trong khi bệnh tham nhũng làm hại cho tòan bộ xã hội và bệnh tham nhũng trong giáo dục tác động đến trí óc của trẻ em, gây ảnh hưởng lâu dài trong đời sống văn hóa của đất nước.
Tham nhũng giáo dục xảy ra ở mọi cấp bậc, từ tiểu học lên trung học và đại học. Tham nhũng tiểu học có tính cách “cò con”, như phụ huynh hối lộ để xin con em chọn trường mẫu giáo hay lớp 1, như giáo viên buộc học sinh phải học thêm với mình tại nhà, nếu không thì không được lên lớp… Tham nhũng trung học để học sinh chạy điểm lên lớp, thi lấy bằng. Chuyện nầy báo chí trong nước nhiều lần đề cập đến. Thê thảm hơn nữa, vào đầu năm 2007, lại xảy ra việc sách nhiễu tình dục ở bậc trung học, tại trường trung học Phan Châu Trinh Đà Nẵng. Tham nhũng đại học cũng có nhiều hình thức, từ thi tuyển sinh, đến thi lên lớp hoặc thi tốt nghiệp.
5.- KẾT QUẢ NỀN GIÁO DỤC PHỤC VỤ CHÍNH TRỊ
Trong một nền giáo dục như thế, ngoài việc đào tạo những người biết vâng lời hơn là biết suy nghĩ, thì làm thế nào có thể xây dựng nhân tài được, làm thế nào đất nước có thể tiến bộ được? Kết quả của nền giáo nầy được các báo trong nước sơ kết như sau: “Báo Thanh Niên viết tựa: “Học sinh lớp 6 ở Bạc Liêu chưa biết đọc!” Báo Tiền Phong kể chuyện từ Kiên Giang tới Cà Mau: “Nhiều học sinh Trung Học Phổ Thông không đọc thông, viết thạo,” trong đó có: “Học sinh lớp 7 nhưng đọc chưa thạo,” có đăng cả hình em học sinh đó đang tập đánh vần. Báo Tuổi Trẻ: “Kontum: Học sinh lớp 6 chưa đọc thông viết thạo,” có 18 em như vậy. Báo này đăng hình một học sinh lớp 6 ở Phù Cát, Bình Ðịnh, đứng ngơ ngẩn trước tấm bảng đen vì không biết làm con tính chia đơn giản. Báo Sài Gòn Giải phóng cũng loan tin 26 học sinh lớp 6 ở một trường tỉnh Phú Yên chưa đọc chưa viết được chữ quốc ngữ và chưa biết làm 4 phép tính cơ bản. Có học sinh lớp 6 chưa biết đọc 24 chữ cái, vào lớp “cứ ngồi im thin thít.” Có em khác, cô giáo viết chữ cái lên bảng, bảo em chép lại, cũng không viết được! Một học sinh lớp 6 ở Sóc Trăng không viết được tên mình, làm bài toán cộng 7 + 3 cũng sai. Báo Sài Gòn Giải phóng còn kể chuyện có học sinh lớp 9 ở Việt Trì, Phú Thọ, cũng chưa biết đọc trôi chảy một đoạn trong truyện Sơn Tinh, Thủy Tinh. Báo Người Lao Ðộng kể có những “học sinh tiên tiến” ở một trường tại tỉnh Lâm Ðồng, học lớp 6, nhưng trong số 25 em trắc nghiệm có tới 23 em không làm được những con tính đơn giản, như 1005 chia cho 5! Khi thi viết chính tả, một bài có 39 chữ thì tất cả đều viết sai. Có em viết sai 19 chữ, có em nhìn bạn viết để “cóp pi” thì sau đó chính chữ mà mình mới chép cũng không đọc lại được là gì! Kể những chuyện đó thì kể mãi không hết….” (Người Việt Online, California, ngày 12-12-2006.) Xin lưu ý là không phải chỉ kém ở học sinh hạ tầng, mà dốt cả ở thượng tầng nữa, như trường hợp bà Nguyễn Thị Tâm và bạn của bà, đều là giảng viên trường Đại Học Sư Phạm Thái Bình, đã kể ở trên.
Việc học sinh trong nước yếu kém, hay không chịu học, phần lớn là hậu quả của chủ trương giáo dục phục vụ chính trị. Chúng ta hãy nghe một người trong nước viết ra: “Một em học sinh khi lên mạng và dùng một chương trình tìm kiếm thông dụng như Google để tìm hiểu về lịch sử Việt Nam sẽ có kết quả đầu tiên là bài Lịch sử Việt Nam trên Wiki. Sau khi đọc xong bài sử được viết một cách khách quan và trung lập như thế chắc chắn em học sinh sẽ đặt ra trong đầu rất nhiều câu hỏi về môn học lịch sử: sách giáo khoa viết có đúng không, thầy cô dạy có đúng không? Và càng tìm hiểu thì em học sinh đó sẽ nhận ra rằng sách giáo khoa lịch sử Việt Nam đã viết sai sự thật về cuộc chiến tranh Việt Nam. Phản ứng tất yếu của em học sinh đó sẽ là chán nản và không thèm học lịch sử Việt Nam bởi vì biết rằng mình đang bị “nhồi sọ”. (Hòang Duy, “Vì sao học sinh “dốt” sử”, Đàn Chim Việt ngày 4-8-2006.)
Ở cấp bậc cao hơn, theo World Investment Report của Liên Hiệp Quốc, trong báo cáo “2005 Transnational Corporation & The Internationalization of R&D”, công bố vào tháng 9-2005, nhằm mục đích đánh giá năng lực sáng tạo của một quốc gia qua chỉ số năng lực sáng tạo II (Innovation Index), thì trong 117 quốc gia được thăm dò, Việt Nam đứng hạng thứ 82 và bị xếp vào nhóm các quốc gia còn kém về khoa học phát triển, sau hai nhóm quốc gia có trình độ cao và trung bình trên thế giới gồm 78 nước.(Mai Thanh Truyết, bài đã dẫn.)
Ngoài ra, chúng ta cần chú ý thêm một điểm, người Việt Nam nói chung tương đối đều như nhau về trình độ thông minh, dù ở trong hay ở ngòai nước. Trong nước hiện có trên 80 triệu dân. Nhiều em học sinh lúc nhỏ thật xuất sắc. Ngay từ nhỏ, các em đã đạt được nhiều giải thưởng lớn, hoặc các cuộc thi về toán học quốc tế, các cuộc thi về cờ vua quốc tế, mà ở nước ngoài rất ít em học sinh Việt Nam có thể đạt được. Ở nước ngoài, người Việt hiện lên đến khỏang 3 triệu người, (chưa được một phần hai mươi lăm so với dân số trong nước), sống rải rác khắp thế giới. Lúc nhỏ, các em học sinh hải ngọai học hành bình thường như bao trẻ em khác, nhưng khi lớn lên, học sinh Việt Nam hải ngọai khá xuất sắc, đỗ đạt đủ các ngành nghề và đỗ đạt hạng cao cấp nữa. Một trong những lý do chính có thể vì các em không bị nhồi sọ, không bị ép buộc vào các giáo điều, các em được tự do nghiên cứu, tự do học hành, không bị bất cứ một thứ ràng buộc nào cả.
TẠM KẾT
Kể mãi cũng không hết, nên nếu muốn chấm dứt sự suy thoái của nền giáo dục Việt Nam hiện tại, để đào tạo nhân tài giúp đất nước theo kịp đà tiến hóa trên tòan cầu, thì chỉ còn có các cách:
Thứ nhất, đảng CSVN và nhà nước CSVN phải bãi bỏ chủ trương giáo dục phục vụ chính trị, phục vụ chế độ cộng sản, bãi bỏ việc dạy chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng và đạo đức Hồ Chí Minh, chấm dứt việc nhồi sọ, việc học hành theo giáo điều. Đồng thời bãi bỏ luôn chủ trương lý lịch trong tuyển sinh. Các điều nầy xem ra rất khó thực hiện đối với đảng CSVN hiện nay, nhưng nếu không mạnh tay và can đảm cắt cục ung bướu nầy, thì nền giáo dục Việt nam sẽ tiếp tục trì trệ và suy thóai.
Thứ hai, nếu đảng CSVN và nhà nước CSVN không chịu sửa đổi, thì dân chúng và nhất là thanh niên sinh viên sẽ phải tự tìm lối thóat, đòi hỏi cải cách, vì tiền đồ dân tộc, vì tương lai đất nước. Như sinh viên Pháp vào tháng 5-1968 và sinh viên Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa vào tháng 5-1989. Sinh viên Pháp đã thành công, trong khi sinh viên Trung Cộng bị đàn áp tàn bạo và đẫm máu tại Thiên An Môn. Hình ảnh người thanh niên đứng trước chiếc xe tăng ở Thiên An Môn có lẽ là hình ảnh hào hùng và bi thảm nhất của thanh niên Trung Hoa dưới chế độ tàn bạo của Cộng sản. Ngày nay, CSVN có dám và có đủ sức đàn áp sinh viên Việt Nam như CSTH đàn áp sinh viên Trung Cộng hay không?
Thứ ba, nếu cuối cùng CSVN vẫn cương quyết duy trì chủ trương giáo dục phục vụ chính trị, làm hỏng biết bao nhiêu thế hệ thanh niên đã qua, và làm hỏng những thế hệ sắp đến, thì dân chúng Việt Nam muốn tìm ra sinh lộ tương lai cho chính dân tộc mình, chỉ còn con đường duy nhất là phải tranh đấu chấm dứt chế độ cộng sản. Đây là việc làm khó khăn, nhưng dưới bầu trời nầy, dầu độc tài tàn bạo như Quốc Xã Đức, hay Cộng Sản Liên Xô, rồi cũng có lúc bị quật ngã. Khi chế độ cộng sản không còn, thì chủ trương giáo dục phục vụ chính trị, chủ trương cốt lõi của đảng CSVN, cũng tự nhiên mất luôn.
Những sai lầm về chính trị và kinh tế có thể sửa đổi trong một thời gian ngắn, nhưng những sai lầm về văn hóa phải tốn nhiều thế hệ mới khắc phục được. Lão Tử đã từng bảo: “Làm văn hóa sai thì hại muôn đời.” Đảng CSVN phải chịu trách nhiệm trước lịch sử về tình trạng suy thoái của nền giáo dục Việt Nam hiện nay. Những nhà lãnh đạo CSVN ở trong nước có nghĩ như thế không?
TRẦN GIA PHỤNG
(Toronto, 11-3-2007)
CHÚ THÍCH:
1. Trong chương trình “Ai sẽ là triệu phú?”, đài VT3 của Hà Nội ngày 9-1-2007, khi được hỏi về liên hệ giữa các nhân vật trong Tự Lực Văn Đoàn, ứng viên Nguyễn Thị Tâm, giảng viên trường ĐHSP Thái Bình trả lời rằng TLVĐ là một đoàn cải lương, Nhất Linh là một tài tử cải lương. Người bạn của ứng viên nầy, cũng là một giảng viên ĐHSP Thái Bình, được giới thiệu là rất giỏi về văn học, cũng trả lời không đúng.(Chương trình nầy được đưa lên Internet.)
2. Hòang Văn Chí, Từ thực dân đến cộng sản [nguyên bản Anh văn], Mặc Định dịch, Paris: 1962, tt.79-81.
3. Theo lời kể của giáo sư N.Đ.N. ở San Diego, một người có tham dự trại huấn luyện ở Thanh Hóa.
4. Hà Huy Giáp, “Giới thiệu về Nguyễn Du và Truyện Kiều, trong Truyện Kiều, Hà Nội: Nxb. Đại Học và Trung Học Chuyên Nghiệp, 1973, tt. XXXV và XLI