Vào những ngày cuối tháng Tám, trước đây 22 năm, Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười và Lê Đức Anh ở Hà Nội đã quyết định phải quay đầu trở lại, xin hợp tác với đảng Cộng sản Trung Quốc (Trung Cộng). Kết quả là hội nghị Thành Đô, ngày 3 và 4 tháng Chín năm 1990, mà Tiến sĩ Hà Sĩ Phu gọi là “Cái thòng lọng thứ hai” buộc vào cổ đảng Cộng sản Việt Nam.
Cái thòng lọng thứ nhất, là quyết định “khai thông biên giới Việt Trung” vào năm 1950 để Cộng sản Việt Nam (Việt Cộng) nhận được viện trợ và đón các cố vấn Trung Quốc sang chỉ đạo. Hà Sĩ Phu viết: “Do vị trí địa-chính trị nên Việt Nam trở thành cửa ngõ mà chủ nghĩa Đại Hán buộc phải chiếm lĩnh để bành trướng về phía nam …” Chủ nghĩa Cộng sản đã cho Trung Quốc “một cơ hội bằng vàng. Họ tận dụng những đặc trưng của Cộng sản để đưa con mồi vào lưới. Con mồi tự tìm đến cái bẫy, nhưng bị tấm màn “Quốc tế đại đồng” che mắt, nhìn cái bẫy thành chốn ruột thịt nương thân.”
Khi đảng Cộng sản Việt Nam tự tìm đến Thành Đô để chui vào cái thòng lọng thứ hai, Hà Sĩ Phu nhận định: Xét trong quan hệ lịch sử giữa hai kẻ thù truyền kiếp thì cuộc cầu hoà này chính là “tuyên bố đầu hàng.”
Mếu biết rõ hơn về hội nghị Thành Đô, chúng ta sẽ thấy quả thật đó là một “cuộc tuyên bố đầu hàng.”
Những sự kiện và ngày tháng kể sau đây dựa trên hồi ký của Trần Quang Cơ, là Thứ trưởng ngoại giao vào lúc đó, với một tài liệu do Trung Cộng công bố, đã được Lý Nguyên dịch từ mạng Hà Bắc tân văn võng ngày 30/10/ 2007, đăng trên mạng Talawas.
Đặng Tiểu Bình 1984
Tháng 10 năm 1989, trùm Cộng sản Lào Kaysone Phomvihane thăm Bắc Kinh, xin gặp Đặng Tiểu Bình với lý do bí mật. Phomvihane chuyển lời Nguyễn Văn Linh xin được làm hòa với Trung Cộng, 10 năm sau khi Đặng Tiểu Bình đã cho quân sang “dậy một bài học” cho Cộng sản Việt Nam. Đặng Tiểu Bình đặt một điều kiện: Trước hết, phải rút hết, rút triệt để quân đội khỏi Cămpuchia. Và Bình còn nói rõ ông không thích Nguyễn Cơ Thạch, lúc đó là Ngoại trưởng.
Nguyễn van Linh – Cố Tổng Bí thư ĐCSVN
Năm đó, Việt Cộng đã rút hết quân về. Ngày 5 tháng 6 năm 1990, Nguyễn Văn Linh, tổng bí thư Cộng sản Việt Nam, gặp Trương Đức Duy, Đại sứ Trung Quốc tại Hà Nội, nhưng cuộc họp có cả Nguyễn Cơ Thạch, chưa nói hết ý. Theo bên Trung Quốc kể lại, ngày 16 tháng Tám năm 1990, Nguyễn Văn Linh sai Hoàng Nhật Tân gặp Trương Đức Duy, đưa một “mật thư,” và nói miệng gửi lời nhắn riêng: “Không cần đi qua Nguyễn Cơ Thạch,” mặc dù đại sứ một nước chỉ được tiếp xúc qua bộ trưởng ngoại giao nước chủ nhà. Trương Đức Duy quyết định liên lạc bí mật qua Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Lê Đức Anh. Ngày 21 tháng Tám, Trương Đức Duy ngồi trên một chiếc ôtô du lịch không cắm cờ Trung Quốc theo nghi thức ngoại giao, lén đến Bộ Quốc phòng bàn riêng với Lê Đức Anh. Và lúc 7 giờ rưỡi, sáng sớm ngày hôm sau, Nguyễn Văn Linh gặp Trương Đức Duy tại nhà khách Bộ Quốc phòng, cả hai bên đều không mang phiên dịch. Linh đề nghị Trương Đức Duy đổi ngồi một chiếc xe khác hôm qua, và vẫn không cắm quốc kỳ. Một tuần sau, Nguyễn Văn Linh (tổng bí thư) và Đỗ Mười (thủ tướng) cũng hội kiến Trương Đức Duy. Chắc đây là buổi họp quyết định. Vì hôm sau, 30 tháng Tám, 1990, Bộ Chính trị họp, Linh đưa ra ý kiến hợp tác với Trung Quốc “để bảo vệ chủ nghĩa xã hội chống đế quốc,” tiến tới bình thường hóa quan hệ Trung – Việt.
Những diễn biến trên cho thấy ba người chủ chốt trong vụ này là Nguyễn Văn Linh, Lê Đức Anh và Đỗ Mười. Nhưng Lê Đức Anh có vẻ được Trung Cộng tin cậy hơn cả. Nhưng tại sao bộ ba này thuyết phục được cả Bộ Chính trị đồng ý với cuộc đầu hàng không điều kiện này? (Chỉ có cố vấn Võ Chí Công không đồng ý). Nguyễn Văn Linh giải thích: Cần hợp tác với Trung Quốc “để bảo vệ chủ nghĩa xã hội chống đế quốc.”
Thực tế là chế độ cộng sản tại Việt Nam đang lâm nguy. Kinh tế suy sụp vì thiếu viện trợ vốn cũng như kỹ thuật của các nước Đông Âu và Nga xô, sau khi cộng sản Đông Âu sụp đổ, Liên Xô đang bị cùng kiệt về kinh tế. Mấy năm trước dân nhiều nơi miền Trung đã chết đói. Cả thế giới đang tẩy chay Việt Cộng, từ năm 1978. Cộng sản Việt Nam biết không còn nương tựa vào đâu, phải cầu cứu tới một nước đã từng gọi là “kẻ thù truyền kiếp.”
Trung Cộng không tiếp phái đoàn Việt Cộng tại thủ đô Bắc Kinh mà chỉ mời đến Thành Đô, thủ phủ tỉnh Tứ Xuyên. Họ giải thích là cần giữ bí mật cho cuộc gặp gỡ này, không cho thế giới biết. Trước khi lên đường, Trương Đức Duy còn yêu cầu phải có mặt Phạm Văn Đồng, cố vấn của Bộ Chính trị, nhìn bên ngoài có địa vị tương đương với “bố già” Đặng Tiểu Bình. Đồng chịu đi vì tưởng sẽ được gặp Bình. Nhưng tới nơi thì không. Sự có mặt của Phạm Văn Đồng có ý nghĩa. Vì trong cuộc họp Trung Cộng có thể đem lá thư ông ta gửi Chu Ân Lai năm 1958, công nhận lập trường của Trung Cộng về Trường Sa, Hoàng Sa. Những gì được ký kết giữa hai bên tới nay vẫn còn giữ bí mật; nhưng chắc phía Trung Cộng họ không dại gì mà không nhắc tới vụ các đảo, sau khi hải quân hai bên mới tử chiến năm 1988, biển vẫn còn tanh mùi máu.
Theo các tài liệu chính thức công bố thì hai bên chỉ bàn chuyện Campuchia. Lúc đầu Việt Cộng đề nghị trong hội nghị đình chiến ở xứ Chùa Tháp, phe Hun Sen và phe chống Việt Cộng, trong đó có Pol Pot, mỗi bên sẽ có 6 người dự vào chính quyền lâm thời ở Campuchia. Trung Cộng đòi có thêm cựu hoàng Sihanouk cho thành 6+6+1, mà ai cũng biết ông hoàng này là người được Trung Cộng nuôi nấng từ 20 năm rồi. Nguyễn Văn Linh cố “bán” ý kiến “Giải pháp đỏ” cho Trung Cộng. Tức là cho hai đảng Cộng sản Campuchia hợp tác đủ rồi, bỏ các phe của Sihanouk ra ngoài. Nhưng Linh thất bại, cuối cùng, bên Việt Cộng không dám cãi, mà cũng không dám đòi hỏi gì; đồng ý sẽ thuyết phục phe Hun Sen chịu “hòa giải” với Pol Pot. Hai bên hứa sẽ giữ bí mật cuộc hội nghị, để các nước khác như Nga, Mỹ, không biết hai chính quyền cộng sản Á châu toa rập. Giang Trạch Dân nói ở Thành Đô: “Các nước phương Tây rất chú ý tới quan hệ của chúng ta. Các đồng chí đến đây, cho đến nay các nước không ai biết, cũng không cho các bên Campuchia biết. Chúng tôi cảnh giác vấn đề này.”
Nhưng ngay sau đó, cả nhóm lãnh đạo Cộng sản Việt Nam thấy ngay mình bị lừa. Khi Nguyễn Văn Linh, Lê Đức Anh sang thuyết phục phe Hun Sen thì bị đám đàn em chống, vì phe này bị lép vế với tỷ số 6/7. Nguyễn Cơ Thạch kể lại: “Trung Quốc đã đưa cả băng ghi âm cuộc nói chuyện với lãnh đạo ta ở Thành Đô cho Phnom Penh. Hun Xen nói là trong biên bản viết là “hai bên đồng ý thông báo cho Campuchia phương án 6+2+2+2+1.”
Trung Cộng đã tiết lộ kết quả cuộc họp cho cả thế giới. Báo Bangkok Post ngày 19 tháng Chín đã đăng công khai Thoả thuận Thành Đô, viết rõ Việt Nam đã đồng ý với Trung Quốc về thành phần chính phủ lâm thời là 6 cộng 7, có Sihanouk! Tạp chí Kinh tế Viễn Đông (FEER) số ngày10 tháng Mười viết về cuộc gặp gỡ “thượng đỉnh” Trung-Việt ở Thành Đô.
Nhưng cay cú nhất là Trung Cộng còn thông báo cho cả Mỹ biết. Ngoại trưởng Mỹ James Baker còn nói với Nguyễn Cơ Thạch rằng Trung Quốc khoe với Mỹ là họ đã “bác bỏ đề nghị của lãnh đạo cấp cao nhất Việt Nam là Việt Nam với Trung Quốc đoàn kết bảo vệ Chủ nghĩa Xã hội chống âm mưu của đế quốc Mỹ xoá bỏ Chủ nghĩa Xã hội.” Ông Trần Quang Cơ than: “Sở dĩ ta dễ dàng bị mắc lừa ở Thành Đô là vì chính ta đã tự lừa ta. Ta đã tự tạo ra ảo tưởng là Trung Quốc sẽ giương cao ngọn cờ Chủ nghĩa Xã hội, thay thế cho Liên Xô, làm chỗ dựa.”
Trong cuộc họp Bộ Chính trị vào tháng 5 năm 1991, đủ mặt 12 người và hai cố vấn, họ bắt đầu than thở và chỉ trích lẫn nhau. Võ Văn Kiệt phê bình việc để Phạm Văn Đồng cùng đi: “chỉ để gặp Giang Trạch Dân và Lý Bằng, không có Đặng Tiểu Bình. Mình bị nó lừa nhiều cái quá! Tôi nghĩ Trung Quốc chuyên là cạm bẫy!” Phạm Văn Đồng than: “Mình hớ, mình dại rồi mà còn nói sự nghiệp cách mạng là trên hết. … Sau chuyến đi Thành Đô, tôi vẫn ân hận sao lại mời thêm tôi. … Anh Mười cho là họ mời rất trang trọng, cơ hội lớn, nên đi!”
Nguyễn Văn Linh lại biện hộ tại sao phải theo Tầu, vì “Âm mưu của đế quốc Mỹ chống phá chủ nghĩa xã hội ở châu Á, cả ở Cuba… dù bành trướng thế nào thì Trung Quốc vẫn là một nước xã hội chủ nghĩa.” Lê Đức Anh mở rộng thêm: “Mỹ và phương Tây muốn cơ hội này để xoá cộng sản. Nó đang xoá ở Đông Âu. Nó tuyên bố là xoá cộng sản trên toàn thế giới. Rõ ràng nó là kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm. Ta phải tìm đồng minh. Đồng minh này là Trung Quốc!”
Rõ ràng, tất cả nhóm người cầm đầu đảng Cộng sản Việt Nam đã đưa cả nước “chui vào cái thòng lọng” của Trung Cộng, vì muốn “bảo vệ Chủ nghĩa Xã hội.” Trong thực tế, là bảo vệ ngôi vị độc quyền cai trị nước Việt Nam!
Hà Sĩ Phu không kể các chi tiết trên đây trong bài tham luận mới “Giải Cộng Nhi Thoát,” nhưng ông đã mô tả “cái thòng lọng Thành Đô” rất cụ thể: “Từ đấy trở đi, chỉ cần 4 năm một lần Trung Quốc khống chế người cầm đầu Việt Nam, tức Tổng Bí thư đảng, là đủ cho kế hoạch xâm lược tiến hành trôi chảy. Muốn vậy phải giữ cho Việt Nam yên vị theo chế độ Cộng Sản, không được dân chủ hoá, không được liên kết chiến lược với Hoa Kỳ.”
Khi hiểu rõ “cái thòng lọng Thành Đô” thì chúng ta cũng hiểu được các hành động của đảng Cộng sản Việt Nam từ năm 1990 đến giờ.
Ngô Nhân Dụng