Các Hiến Pháp Tây Âu là những Hiến Pháp nhân bản, thừa hưởng gia tài tinh thần nhân bản từ Tuyên Ngôn Độc Lập Hoa Kỳ 1776 và Tuyên Ngôn Nhân Quyền và Quyền Công Dân Cách Mạng Pháp 1789. Và đây là những hạt ngọc của hai văn bản vừa kể:
– ” Tất cả mọi người đều được dựng nên bình đẳng như nhau.
Tất cả đều được Đấng Tạo Hoá ban cho một số quyền bất khả nhượng.
Trong các quyền nầy, quyền được bảo toàn mạng sống, quyền tự do tìm kiếm hạnh phúc là những quyền thượng đẳng?”(Tiền Đề Tuyên Ngôn Độc Lập Hoa Kỳ1776).
– ” Các Đại Diện đồng thanh tuyên bố rằng: các quyền của con người do Thiên Phú, bất khả nhượng và cao qúy?” ( Tiền Đề Tuyên Ngôn Nhân Quyền và Quyền Công Dân Cách Mạng Pháp 1789).
Tinh thần nhân bản đó, từ trên 200 năm nay là nền tảng trên đó các quốc gia Tây Âu được xây dựng và phát triển đến phú cường thịnh vượng. Tinh thần nhân bản chúng ta có thể tìm thấy đó đây trong suốt các văn bản Hiến Pháp của họ.
Một số Hiến Pháp nêu lên tính cách nhân bản của Hiến Pháp ở ngay phần Tiền Đề, như Hiến Pháp 1958 hiện hành của Pháp Quốc chẳng hạn để nói lên tính cách quan trọng và long trọng của nền tảng Quốc Gia mình:
– ” Dân tộc Pháp long trọng tuyên bố trung thành với các quyền con người và các nguyên tắc tối thượng Quốc Gia, được Tuyên Ngôn 1789 định nghĩa và được Hiến Pháp 1946 xác nhận ở Tiền Đề” ( Tiền Đề Hiến Pháp 1958 hiện hành Pháp Quốc).
Cùng với xác tín rằng nhân bản là nền tảng căn bản trên đó Quốc Gia được thiết lập, nhưng thay vì đặt tầm quan trọng vào tính cách long trọng hay kém long trọng, một số Quốc Gia như Ý và Đức đặt nặng hiệu lưc của lời tuyên bố hơn.
Do đó thay vì tuyên bố tính cách nhân bản của thể chế Quốc Gia ở Tiền Đề như các văn bản vừa kể, các nhà soạn thảo Hiến Pháp Ý Quốc ( 1947) và Cộng Hoà Liên Bang Đức ( 1949)
– đặt tinh thần nhân bản vào chính thân bài của Hiến Pháp,
– bằng cách tuyên bố thành những điều khoản luật có tính cách bắt buộc.
Qua những khái niệm về đặc tính của các Hiến Pháp Tây Âu vừa trình bày, chúng ta thử xem người Tây Âu quan niệm như thế nào về con người trong Hiến Pháp của họ.
1) Địa vị con người trong Hiến Pháp– Như chúng ta vừa nói, các Hiến Pháp Ý ( 1947) và Cộng Hoà Liên Bang Đức ( 1949) tuyên bố địa vị và các quyền liên hệ của con người ngay trong thân bài của Hiến Pháp và tuyên bố thành những điều khoản luật có hiệu lực bắt buộc hay các điều khoản cuả Hiến Pháp là những đạo luật thực định ( lois positives), chớ không tuyên bố ở phần Tiền Đề như là một quan niệm khái quát và long trọng.
– ” Các quyền căn bản được kể sau đây có hiệu lực đối với quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp như là như?ng quyền có gía trị bắt buộc trực tiếp” ( Điều 1, đoạn 3 Hiến Pháp 1947 CHLBĐ).
Hay
– ” Các bổn phận của Quốc Gia ( đối với các quyền đã được liệt kê) trong các điều khoản nầy sẽ được các cơ quan và tổ chức sẽ được thiết lập chu toàn hoặc bổ khuyết”(Điều 38, đoạn 4 Hiến Pháp 1947 Ý Quốc).
Nói cách khác, nếu người dân không được hưởng các quyền và tự do của mình do Hiến Pháp tuyên bố, tổ chức Quốc Gia với các cơ chế lập pháp, hành pháp và tư pháp cũng như các cơ quan được thiết lập để thừa hành sẽ là những chủ thể chịu trách nhiệm trực tiếp trước pháp luật và sẽ bị quy trách với những hậu quả luật định.
Đó là đặc tính tối quan trọng, mà Hiến Pháp phải có, đặc tính bảo chứng:
– ” Hiến Pháp là một văn bản bảo chứng ( garantismo). Ở Âu Châu người dân đòi buộc phải có Hiến Pháp, nếu muốn thiết lập Quốc Gia. Hiến Pháp đối với họ là một văn bản luật pháp nền tảng hay một loạt các nguyên tắc cơ bản, thể hiện một thể chế Quốc Gia, nhằm giới hạn mọi cách hành xử quyền hành tự tung tự tác và bảo đảm cho một Chính Quyền có giới hạn” ( Givanni Sartori, Elementi di Teoria Politica, II ed., Bologna, Il Mulino, 1995, 18).
– Hiến Pháp Ý tuyên bố địa vị và các quyền liên hệ của con người từ điều 2-54, trong khi đó thì Hiến Pháp Cộng Hoà Liên Bang Đức tuyên bố từ điều 1-19, trước khi định nghĩa về thể chế và các phương thức tổ chức Quốc Gia từ điều 20 trở đi ( Hiến Pháp 1949 CHLBD), và từ điều 55 trở đi ( Hiến Pháp 1947 Ý Quốc).
Điều đó cho thấy rằng hai dân tộc Ý và Đức đã dành cho con người địa vị tối thượng và trung tâm điểm của tổ chức quyền lực Quốc Gia.
Con người có trước Quốc Gia. Quốc Gia được tổ chức để phục vụ con người, chớ không ngược lại.
Đó là điều Hiến Pháp Cộng Hoà Liên Bang Đức tuyên bố ở điều 1:
– ” Nhân phẩm con người bất khả xâm phạm . Bổn phận của mọi quyền lục Quốc Gia là kính trọng và bảo đảm nhân phẩm đó” ( Điều 1, Hiến Pháp 1949 CHLBĐ).
Và cũng trong tinh thần đó, đây là điều 2 của Hiến Pháp Ý Quốc:
– ” Nền Cộng Hoà nhận biết ( riconosce ) và bảo đảm các quyền bất khả xâm phạm của con người, con người như cá nhân hay như thành phần xa? hội, nơi con người phát triển nhân cách của mình và đòi buộc chu toàn các bổn phận liên đới không thể thiếu trong lãnh vực chính trị, knh tế và xã hội “( Điều 2, Hiến Pháp 1947 Ý Quốc).
Nếu để ý, chúng ta thấy rằng câu tuyên bố của Hiến Pháp CHLBĐ có tính cách phổ quát và đều khắp. Người Đức không tuyên bố rằng
– ” Trên lãnh thổ Đức hoặc đối với người dân Đức, nhân phẩm con người bất khả xâm phạm”,
mà chỉ bằng một mệnh đề ngắn gọn, có sức mạnh nói lên lòng xác tín của dân tộc họ và có hiệu lực như một mệnh lệnh:
– ” Nhân phẩm con người bất khả xâm phạm” !
Mệnh lệnh đó có hiệu lực đối với bất cứ ai, ở bất cứ nơi nào và có giá trị ở bất cứ thời đại nào.
Ai không tôn trọng hiệu lực của mệnh lệnh trên là người làm tổn thương đến niềm tin của dân tộc Đức, trong cuộc sống chung hòa bình và thân hữu với họ và chắc chắn người Đức sẽ không làm ngơ trước sự chà đạp lên niềm tin của họ như vậy.
Đó là điều mà người Đức thêm vào ở phần kế đến của cùng một điều khoản:
– ” Như vậy dân tộc Đức nhìn nhận các quyền bất khả xâm phạm và bất khả nhượng của con người như là nền tảng của mọi cộng đồng nhân loại, của hòa bình và công chính trên thế giới” ( Điều 1, đoạn 2 Hiến Pháp 1947 CHLBĐ).
– Cũng trong câu tuyên bố ngắn gọn biểu tượng cho xác tín, niềm tin và mệnh lệnh phổ quát trên của điều 1, chúng ta thấy rằng các vị soạn thảo Hiến Pháp Herrenchiemsee ( địa danh nơi Hiến Pháp 1947 CHLBĐ được soạn thảo) đã dùng từ ngữ rất chính xác, như là đặc tính của người Đức.
Các vị đã không dùng từ ngữ ” người công dân” hoặc ” người công dân Đức”, mà là ” con người ” trong câu ” Nhân phẩm con người bất khả xâm phạm”.
Điều đó có nghĩa là đối với người Đức, bất cứ ai là người đều phải được mọi người tôn trọng, không phân biệt màu da, sắc tộc, phái tính, địa vị, tài năng, thế lực?
Đó là điều Hiến Pháp 1949 sẽ tuyên bố kế tiếp ở điều 3:
– ” Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật.
Người nam và người nư? đều ngang hàng nhau đối với các quyền của mình.
Không ai có thể bị thiệt thòi hay được ưu đải do phái tính, sinh trưởng, giòng giống, ngôn ngữ, quốc gia hay nguồn gốc, tín ngưỡng, lòng tin tôn giáo hay chính kiến” ( Điều 3, đoạn 1,2,3 Hiến Pháp 1949 CHLBĐ).
– Cách dùng từ ngữ ” con người” thay vì ” người công dân”,
* ngoài ra đặc tính phổ quát của mệnh lệnh như vừa đề cập,
* từ ngữ ” con người ” còn nói lên địa vị tối thượng và trung tâm điểm của con người trong tổ chức quốc gia. Con người có trước và tự lập đối với tổ chức Quốc Gia. Quốc Gia được tổ chức để phục vụ con người như là cùng đích mà mình được tổ chức.
Con người hiện hữu trước tổ chức Quốc Gia. Do đó khi Quốc Gia được tổ chức, Quốc Gia phải biết nhận ra con người, quyền thượng đẳng của con người trên sự hiện hữu của mình và phục vụ con người như là mục đích chính yếu và là trung tâm điểm của mọi tổ chức quyền lực mà Quốc Gia có được.
Đó là điều mà Hiến Pháp 1947 Ý Quốc long trọng tuyên bố ở điều 2:
– ” Cộng hòa dân chủ Ý nhìn nhận và bảo vệ các quyền bất khả xâm phạm của con người, con người như cá nhân hay như thành phần cộng đồng xa? hội, nơi con người phát huy nhân cách của mình…” ( Điều 2, Hiến Pháp 1947 Ý Quốc).
Và vì con người có trước tổ chức Quốc Gia, nên các quyền tối thượng bất khả xâm phạm của con người
– không do tổ chức Quốc Gia định đoạt,
– mà do Thiên Phú, liên hệ mật thiết với bản tính nhân loại của mình.
Đó là điều mà di sản của Tuyên Ngôn Độâc Lập Hoa Kỳ 1776 và Tuyên Ngôn Nhân Quyền và Quyền Công Dân Cách Mạng Pháp 1789 đa? để lại:
– ” Tất cả mọi người đều được dựng nên bình đẳng như nhau.
Tất cả đều được Đấng Tạo Hoá ban cho một số quyền bất khả nhượng”.
– ” Các Đại Diện đồng thanh tuyên bố rằng các quyền của con người do Thiên Phú, bất khả nhượng và cao qúy” .
Con người có trước tổ chức Quốc Gia. Tổ chức Quốc Gia phải “nhận biết và bảo vệ” địa vị tối thượng đó như là cùng đích của mình.
Đó là tư tưởng mà Linh Mục Luigi Sturzo, vị sáng lập đảng Đại Chúng Ý ( Partito Popolare Italiano), tiền thân của đảng Dân Chủ Thiên Chúa Giáo ( Democrazia Cristiana) xác nhận:
– ” Đối với chúng tôi, bài thuyết trình trong Đại Hội Toàn Quốc đảng Đại Chúng tai Torino ngày 12.04.1923, Quốc Gia là một tổ chức xã hội được tổ chức theo đường lối chính trị để đạt được như?ng mục đích đặc biệt.
Quốc Gia không bóp nghẻn, không tiêu hủy, không tác tạo ra các quyền của con người, của gia đình, của xa? ấp, của đoàn thể, của tôn giáo. Quốc Gia chỉ nhận biết và bảo vệ, phối hợp các quyền đó trong giới hạn hoạt động của mình?
– ” Đối với chúng tôi, Quốc Gia không phải là tự do. Quốc Gia cững không ở trên tự do. Quốc Gia chỉ nhận biết và phối hợp, định chế các giới hạn để người dân xử dụng tự do không làm bằng hoại thành giấy phép?
– ” Quốc Gia là một tập thể lịch sử phức tạp, có nhiệm vụ hoạt động trong liên đới, phát huy các năng động của mình trong cơ chế, trong đó một Quốc Gia văn minh được tổ chức” (Luigi Sturzo, Il Partito Popolare, vol II: Popolarismo e Fascismo ( 1924), Zanichelli, Bologna, 1956, p.107).
– Nếu với từ ngữ ” con người” chúng ta có các đặc tính phổ quát và tối thượng như vừa kể, thì với từ ngữ ” người công dân”, chúng ta có được ý nghĩa hạn hẹp hơn.
Trong chính trị học, khi đề cập đến người công dân là chúng ta nói đến người dân liên hệ đến một tổ chức Quốc Gia cá biệt, có thể chế, luật lệ và tổ chức đặc thù.
Khi nói đến người công dân Ý chẳng hạn, là chúng ta đề cập đến người dân vừa kể liên quan đến tổ chức Quốc Gia Ý. Quyền và nhiệm vụ của người công dân Ý tuỳ theo thể chế và luật pháp Ý quy định.
Trước hết, nếu Hiến Pháp 1947 Ý đề cập đến địa vị, quyền và tự do của con người từ điều 2-34 và Hiến Pháp 1949 CHLBĐ từ điều 1-19, trước khi đưa ra định nghĩa thể chế chính trị và các phương thức tổ chức quyền lực Quốc Gia, để nói lên địa vị tối thượng và chính yếu của con người trong tổ chức Quốc Gia,
thì Hiến Pháp 1977 Cộng Hoà Liên Bang Sô Viết chỉ đề cập đến ” người công dân” khởi đầu từ điều 33 trở đi, sau khi đã đề cập đến
– thể chế chính trị ( 1-9),
– hệ thống kinh tế ( 10- 18),
– phát triển xã hội và văn hóa ( 19-27),
– chính sách ngoại giao ( 28-30)
– và chính sách bảo vệ quốc gia xã hội chủ nghĩa( 31-32).
Điều đó cho thấy người dân được ý thức hệ Cộng Sản ban cho một chổ đứng nào trong quan niệm tổ chức Quốc Gia của họ.
Và nếu các Hiến Pháp nhân bản Tây Âu đề cập đến ” con người”, thì Hiến Pháp của các quốc gia Cộng Sản, đặc biệt là Hiến Pháp 1977 Cộng Hoà Liên Bang Sô Viết chỉ đề cập đến “người công dân”, khi bàn về các quyền và bổn phận của người dân:
– ” Nhân dân Sô Viết được hướng dẩn bằng các tư tưởng cộng sản chủ nghĩa khoa học và trung thành với các truyền thống cách mạng, định chắc nền tảng của chế độ xã hội và chính trị của Cộng Hoà Liên Bang Sô Viết, thiết định các quyền , tự do và bổn phận bắt buộc đối với người công dân, các nguyên tắc tổ chức và mục đích cho Quốc Gia Xa? Hội Chủ Nghĩa của toàn dân” ( Tiền Đề, đoạn XIV Hiến Pháp 1977 Cộng Hoà Liên Bang Sô Viết).
Và như chúng ta vừa nói, khi đề cập đến ” người công dân”, là chúng ta đề cập đến người dân có liên hệ với tổ chức Quốc Gia. Quyền và bổn phận của người công dân tuỳ thuộc vào sự quyết định của thể chế Quốc Gia. Đó là điều mà Hiến Pháp 1977 Cộng Hoà Liên Bang Sô Viết tuyên bố:
– ” Nhân dân Sô Viết, thiết định các quyền, tự do và bổn phận bắt buộc đối với người công dân?”.
Điều đó có nghĩa là con người sống trong chế độ Cộng Sản chỉ là người công dân liên hệ với tổ chức Quốc Gia.
– Các quyền và tự do của họ phải do thể chế Quốc Gia Cộng Sản “thiết định” cho mới có, khác với ” con người” trong Hiến Pháp Tây Âu là những chủ thể được Thiên Phú cho các quyền và tự do liên hệ mật thiết với bản tính nhân loại của mình, mà bất cứ ai, ở bất cứ thời đại và không gian nào cu?ng phải tôn trọng.
– Và vì thể chế Cộng Sản có quyền ” thiết định” các quyền và tự do của người công dân họ,
* nên ai sống ngoài tổ chức của Cộng Sản, những ai không chấp nhận thể chế và cơ chế Cộng Sản, là những người dân không được thể chế luật pháp ” thiết định”.
Điều đó có nghĩa là những ai chống đối lại thể chế Cộng Sản sẽ là những người không còn có được một quyền và tự do nào: Cộng Sản có thể tự do tiêu diệt họ.
Nói cách khác vì giới hành quyền Cộng Sản có thể thiết định các quyền và tự do của người công dân, nên họ có thể “thiết định” nhiều ít tùy hỷ và họ cu?ng có thể ” không thiết định”: họ có thể truất mọi quyền làm người của con người sống dưới chế độ Xa? Hội Chủ Nghĩa.
Hay nói như Linh Mục Tiến sĩ Hortz S.J.:
– ” Trong thể chế Cộng Sản không có con người ” ( Hortz S.J., La Nuova Costituzione Sovietica, in Civiltà Cattolica, 1978, p.40).
Trình độ hiểu biết và cuộc sống văn minh của người Cộng Sản chưa bao giờ đạt đến mức sống nhân bản của Tây Âu để cho phép họ biết được thế nào là địa vị cao cả của con người.
2) Nhìn nhận và thực thi
Qua những gì vừa trình bày, chúng ta thấy rằng Hiến Pháp nhân bản các Quốc Gia Tây Âu đặt con người ở địa vị tối thượng và trung tâm điểm các tổ chức quyền lực Quốc Gia.
Nhưng điều quan trọng
– không phải tuyên bố nhiều hay ít,
– tuyên bố long trọng hay không,
– tuyên bố trước hay sau trong thân bài của Hiến Pháp,
– mà là tiên liệu những điều khoản luật có hiệu lực để thực thi và bảo vệ các quyền và tự do mình tuyên bố:
* ” Nền Cộng Hoà nhận biết và bảo vệ các quyền bất khả xâm phạm của con người, con người như cá nhân hay là thành phần xã hội, nơi mỗi cá nhân triển nở con người của mình” ( Điều 2, Hiến Pháp 1947 Ý Quốc).
Bởi lẽ nếu Hiến Pháp chỉ tuyên bố các quyền và tự do của con người ( hay đúng hơn của người công dân, như trong các Hiến Pháp Cộng Sản),nhưng lởi tuyên bố trên chĩ mới là hình thức thuyết lý của dân chủ và nhân quyền ( démocratie formelle), nếu Hiến Pháp không dự trù những điều khoản luật để thực thi và bảo vệ các quyền và tự do mà mình tuyên bố.
Khác với các Hiến Pháp Cộng Sản, Hiến Pháp nhân bản Tây Âu tiên liệu các điều khoản để thực thi và bảo vệ mổi khi tuyên bố quyền và tự do của con người. Đó là tinh thần dân chủ và nhân bản thực hữu ( démocratie substantielle).
Ngay ở điều khoản đầu tiên của Hiến Pháp 1949 CHLBĐ, Hiến Pháp đã tuyên bố một điều luật khái quát bắt buộc, biến tất cả những điều khoản Hiến Pháp kế tiếp về con người thành những điều luật có hiệu lực và xác định chủ thể rỏ rệt được quy trách:
– ” Những quyền căn bản sẽ được kể sau đây có hiệu lực đối với lập pháp, hành pháp và tư pháp như là những quyền có giá trị bắt buộc trực tiếp”. ( Điều 1, đoạn 3 Hiến Pháp 1949 CHLBĐ).
Tĩ mĩ hơn, sau khi tuyên bố quyền bình đẳng của người dân:
– ” Mọi công dân đều có địa vị xã hội ngang hàng nhau và bình đẳng như nhau trước pháp luật, không phân biệt phái giống, chủng tộc, ngôn ngư?, tôn giáo, chính kiến, địa vị cá nhân và xã hội” ( Điều 3, đoạn 1 Hiến Pháp 1947 Ý Quốc).
Quốc Gia Ý tiên liệu những điều kiện để thực thi:
– ” Bổn phận của Nền Cộng Hoà là dẹp bỏ đi như?ng chướng ngại vật về phương diện kinh tế và xã hội, là như?ng chướng ngại vật trong khi giới hạn thực sự tự do và bình đẳng của người dân, cản trở họ có thể phát triển hoàn hảo con người của mình và tham gia một cách thiết thực vào tổ chức chính trị, kinh tế và xã hội của xứ sở” ( Điều 3, đoạn 2 Hiến Pháp 1947 Ý Quốc).
Cũng vậy để thực thi quyền bình đẳng, một trong những hình thức bình đẳng tối thiểu đó là bình đẳng để khởi hành, bình đẳng để bắt đầu khởi công cuộc sống.
Muốn được bình đẳng để mọi người có thể khởi đầu cuộc sống như nhau, mọi người dân phải được đặt trong cùng một số điều kiện như nhau để có kiến thức như nhau.
Nói cách khác , mọi người phải được có cùng điều kiện để được học vấn như nhau, để khởi công cuộc sống trong những điều kiện như nhau. Đó là điều mà Hiến Pháp 1958 Pháp Quốc long trọng tuyên bố ngay ở phần Tiền Đề:
– ” Tổ chức giáo dục công cộng, miển phí và phi tôn giáo ở mọi đẳng cấp, là bổn phận của Quốc Gia” ( Tiền Đề, Hiến Pháp 1958 Pháp Quốc).
Tuyên bố một cách tĩ mĩ hơn, Hiến Pháp Ý đề cập:
– ” Học đường được mở rộng cửa cho tất cả mọi người.
Nền học vấn ở cấp bực thấp, được giảng dạy ít nhứt là tám năm ( đổi thành 12 năm với tu chính án năm 1990) có tính cách bắt buộc và miển phí.
Đối với những ai có khả năng và đáng được trợ giúp, da?u cho thiếu phương tiện, cu?ng có quyền được học hành đến trình độ giáo dục cao nhất.
Cộng Hòa Ý biến quyền được học vấn nầy thành thực hữu bằng cách trợ cấp cho gia đình và mọi hình thức tiền liệu khác, qua việc trợ cấp theo thể thức thi tuyển” ( Điều 34, đoạn 1-4 Hiến Pháp 1947 Ý Quốc).
Dĩ nhiên ” tính cách bắt buộc và miễn phí ” đó, không phải chỉ bắt buộc và miễn phí về phía các học sinh phải chu toàn bổn phận bổn phận của mình ” phải đi học “, mà còn ” bắt buộc và miễn phí ” đối với cơ chế Quốc Gia, phải làm sao tạo điều kiện thích hợp, để giúp cho gia đình và các học sinh thiếu phương tiện có thể chu toàn bổn phận phải đi học của mình, kể cả trợ cấp xã hội cho gia đình các cô chú phải đi học.
Còn nữa, tinh thần dân chủ và nhân bản thực hữu của Hiến Pháp cững được thể hiện qua các quyền về an ninh xã hội:
– ” Mọi công dân không có khả năng làm việc và thiếu phương tiện để sống có quyền được trợ cấp và bảo trợ xã hôi.
Người làm việc có quyền được tiên liệu và bảo đảm bằng các phương tiện thích hợp đáp ứng lại như?ng nhu cầu cần thiết để sống trong trường hợp tai nạn, đau ốm, tàn tật và già nua, bị thất nghiệp ngoài ý muốn.
Những người không có khả năng và những người yếu kém có quyền được giáo dục và huấn nghệ.
Các quyền vừa được liệt kê trong điều khoản nầy sẽ được giao cho các cơ quan và tổ chức được thiết lập để thực thi hoặc được Quốc Gia bổ khuyết” ( Điều 38, đoạn 1-4 Hiến Pháp 1947 Ý Quốc).
3) Tự do tiêu cực và tự do tích cực
Đọc bất cứ Hiến Pháp Tây Phương nào, chúng ta cũng thấy quyền và tự do con người hay người dân được tuyên bố dưới hình thức tiêu cực:
– ” Tự do cá nhân là quyền bất khả xâm phạm?” ( Điều 13, Hiến Pháp 1947 Ý Quốc).
– ” Gia cư bất khả xâm phạm?” ( Điều 14, id.)
– ” Tự do và bí mật thư tín cũng như tất cả các hình thức truyền thông khác là những quyền bất khả xâm phạm?” ( Điều 15, id.). Tuyên bố các quyền và tự do dưới hình thức tiêu cực có nghĩa là người dân được tự do khỏi ( liberté de…) sự can thiệp không chính đáng của Quốc Gia đối với các quyền được Hiến Pháp công bố.
Tuyên bố dưới hình thức tiêu cực các quyền và tự do của người dân hàm chứa “bổn phận phía bên kia, phía bên chính quyền có bổn phận tôn trọng.”
” Tự do cá nhân là quyền bất khả xâm phạm” đồng nghĩa với việc ” chính quyền không được” xâm phạm tự do cá nhân.
Đó là tinh thần ” Quốc Gia Pháp Định” ( État de droit) phát xuất từ Cách Mạng Pháp Quốc 1789 hay hơn nữa, trong tinh thần common Laws của người Anh.
Nhưng Hiến Pháp nhân bản Tây Âu không phải chỉ có vậy. Bản Tuyên Ngôn Độc Lập Hoa Kỳ 1776 và Tuyên Ngôn Nhân Quyền và Quyền Công Dân của Cách Mạïng Pháp 1789 đa? qua trên 200 năm nay.Từ đó đến nay, tinh thần dân chủ và nhân bản của người Tây âu đã tiến xa hơn nhiều đối với những gì người ta quan niệm Hiến Pháp chỉ như là văn bản bảo chứng:
– ” Trước hết Hiến Pháp là một văn bản bảo chứng ( garantisme). Ở Tây Âu người dân đòi buộc phải có Hiến Pháp, nếu muốn thiết lập Quốc Gia. Hiến Pháp đối với họ là một văn bản luật pháp nền tảng, hay một loạt các nguyên tắc cơ bản, thể hiện một thể chế tổ chức Quốc Gia, nhằm giới hạn mọi cách hành xử quyền hành tự tung tự tác và bảo đảm một chính quyền có giới hạn”.( Giovanni Sartori, Elementi di teoria politica, cit.).
Hiến Pháp là một văn bản bảo chứng để bảo vệ người dân, ” giới hạn mọi cách hành xử quyền hành tự tung tự tác và bảo đảm một chính quyền có giới hạn” như Gs Giovanni Sartori vừa định nghĩa. Nhưng Hiến Pháp nhân bản Tây Âu không phải chỉ có vậy. Hiến Pháp Tây Âu còn nêu lên những gì tích cực hơn là những câu tuyên bố ” chính quyền không được”.
Điều 49 Hiến Pháp 1947 Ý Quốc, sau khi tuyên bố dưới hình thức tiêu cực quyền tự do gia nhập hội của người dân:
– ” Mọi công dân đều có quyền tự do gia nhập vào chính đảng?” , liền thêm vào ” để cộng tác với phương thức dân chủ thiết định đường lối chính trị quốc gia” ( Điều 49, Hiến Pháp 1947 Ý Quốc).
Cũng vậy ở điều 3, sau khi xác quyết rằng ” mọi công dân đều có địa vị xã hội bình đẳng như nhau và đều bình đẳng truớc pháp luật”, cũng như cấm mọi kỳ thị bất cứ từ đâu đến và vì lý do gì, Hiến Pháp đứng ra đảm nhận tạo điều kiện thuận lợi để người dân có tự do và bình đẳng ” phát triển hoàn hảo con người của mình và tham dự thiết thực vào đời sống chung của đất nước”:
– ” Bổn phận của Nền Cộng Hoà là dẹp bỏ đi như?ng chướng ngại vật về phương diện kinh tế và xã hội, là như?ng chướng ngại vật trong khi giới hạn trên thực tế tự do và bình đẳng của người dân, không cho họ có thể phát huy toàn vẹn con người của mình và tham dự thiết thực vào tổ chức chính trị, kinh tế và xã hội của xứ sở” ( Điều 3, đoạn 2 Hiến Pháp 1947 Ý Quốc).
Cũng vậy ở điều 35 của cùng một Hiến Pháp, không như?ng Quốc Gia tuyên bố mọi công dân đều có quyền làm việc, mà còn quy trách cho mình đứng ra tạo điều kiện thích hợp để người dân có thể thực thi quyền của mình:
– ” Nền Cộng Hòa bảo vệ việc làm dưới tất cả mọi hình thức và áp dụng.
Nên Cộng Hoà chăm lo và thăng tiến chương trình huấn nghệ cho như?ng ai làm việc.
Phát triển và dành mọi de? da?i cho các hiệp ước cu?ng như các tổ chức quốc tế nhằm hợp thức hoá và điều hợp mọi quyền làm việc?” ( Điều 35, Hiến Pháp 1947 Ý Quốc).
Qua những gì vừa trình bày, chúng ta thấy rằng Hiến Pháp nhân bản Tây Âu không những chỉ giới hạn ở các tư tưởng sơ khởi về ” Quốc Gia Pháp Trị” của thời Tuyên Ngôn Độc Lập Hoa Kỳ 1776 và Tuyên Ngôn Nhân Quyền và Quyền Công Dân Cách Mạng Pháp 1789 với các điều khoản tuyên bố về nhân quyền dưới hình thức tiêu cực, hay ” tự do khỏi” ( liberté de…).
Hiến Pháp của các Quốc Gia Tây Âu là Hiến Pháp nhân bản tích cực. Quyền lực Quốc Gia không những chỉ bị Hiến Pháp giới hạn bằng những lời tuyên bố tiêu cực, cấ đoán ” tự do khỏi”, Hiến Pháp còn quy trách cho Quốc Gia có nhiệm vụ tạo ra các điều kiện thuận lợi giúp người dân tích cực xử dụng quyền và tự do của mình để ( liberté à…) hoạt động,
– phát triển toàn vẹn con người của mình
– và góp phần phát triển xứ sở, tạo tiến bộ và thịnh vượng cho đồng bào mình:
* “Mỗi công dân có quyền gia nhập chính đảng để cộng tác với phương thức dân chủ, góp phần thiết định đường lối chính trị Quốc Gia”.
– ” Bổn phận của Quốc Gia là dẹp bỏ đi những chướng ngại vật về phương diện kinh tế và xã hội, là những chưóng ngại , trong khi thật sự giới hạn tự do và bình đẳng của người dân, khôn cho phép mỗi cá nhân triển nở hoàn hảo con ngưòi của mình và tham gia thiết thực vào tổ chức chính trị, kinh tế và xã hội của xứ sở”.
– ” Cộng Hoà Ý bảo vệ việc làm, chăm lo và thăng tiến chương trình huấn nghệ, phát triển và dành mọi dễ dãi cho các hiệp ước cũng như tổ chức quốc tế nhằm hợp thức hóa và điều hợp mọi quyền làm việc”.
4 ) Bảo vệ nhân quyền
Hiến Pháp nhân bản Tây Âu xác nhận con người ở địa vị trung tâm điểm và tối thượng của mọi tổ chức quyền lực Quốc Gia.
Hiến Pháp nhân bản Tây Âu đã
– tiên liệu những điều khoản luật có hiệu lực bắt buộc phải thực thi, mỗi khi tuyên bố quyền và tự do của người dân.
– Hiến Pháp nhân bản Tây Âu là Hiến Pháp nhân bản tích cực, quy trách cho Quốc Gia có bổn phận phải đứng ra tạo điều kiện thuận lợi để người dân dùng quyền và tự do mình một cách tích cực ( liberté à…) để triển nở hoàn hảo con người của mình và góp phần xây dựng một Quốc Gia thịnh vượng, tiến bộ cho đồng bào mình.
Nhưng với những kinh nghiệm quá đau thương trong quá khứ về việc con người bị coi như súc vật của thời Benito Mussolini và Rudolf Hitler, bóng ma chập chờn của những con người hành xử uy quyền Quốc Gia một cách bạo trợn lúc nào cũng có thể tái xuất hiện, các vị soạn thảo Hiến Pháp Tây Âuu không thể ngủ yên, nếu không tìm được phương cách
– “…nhằm giới hạn mọi cách hành xử quyền hành tự tung tự tác và bảo đảm một chính quyền có giới hạn” ( Giovanni Sartori, op.cit., id.).
Đó là điều chúng ta cần bước theo tâm tư của các vị, trong viển ảnh tạo ra một Hiến Pháp nhân bản thoả đáng cho đất nước chúng ta trong tương lai:
a) Hiến Pháp cứng rắn.
Đọc các Hiến Pháp nhân bản Tây Âuu, đặc tính đầu tiên ai trong chúng ta cũng thấy được, đó là tính cách cứng rắn ( rigide) của Hiến Pháp. Điều đó có nghĩa là muốn tu chính một hay nhiều điều khoản của Hiến Pháp, chúng ta cần hội đủ những điều kiện gia trọng mà Hiến Pháp đã tiên liệu.
Sở dĩ Hiến Pháp đặt ra các điều kiện gia trọng là để cho ai muốn sửa đổi, cắt bỏ hơặc thêm thắt vào Hiến Pháp sẽ gặp phải những điều kiện khó khăn.
Điều đó khiến cho Hiến Pháp khó sửa đổi và như vậy Hiến Pháp được bền vững, để bảo đảm hữu hiệu những gì Hiến Pháp xác tín như là lý tưởng và không muốn bị cắt xén, sửa đổi, thêm bớt.
Điều kiện gia trọng vừa kể để có thể sửa đổi Hiến Pháp được Hiến Pháp 1949 CHLBĐ tuyên bố:
– ” Một đạo luật như vừa kể ( đạo luật về tu chính Hiến Pháp) phải được sự đồng thuận của 2/3 thành viên Hạ Viện và 2/3 thành viên Thượng Viện” ( Điều 79, đoạn 2 Hiến Pháp 1949 CHLBĐ).
Con số tỷ lệ vừa nói, chúng tôi nghĩ rằng không phải là con số dễ thực hiện. Chúng ta thử so sánh với điều kiện chỉ cần đa số tuyệt đối ( 50%+ 1 phiếu) là Hạ Viện có đủ túc số chọn vị Thủ Tướng ( Kanzler) mới, để thành lập Tân Nội Các và điều khiển Hành Pháp, không cần có sự đồng thuận của Thượng Viện:
– ” Được tuyển chọn ( Thủ Tướng) ai có khả năng quy tựu về phía mình số phiếu của đa số thành viên Hạ Viện” ( Điều 63, đoạn 2 Hiến Pháp 1949 CHLBĐ).
Và trong trường hợp bất khả kháng, ngay cả ai chỉ thu thập được đa số tương đối của Hạ Viện, trong vòng 7 ngày sau cu?ng có thể được Tổng Thống Liên Bang bổ nhiện Thủ Tướng:
– ” Nếu người được tuyên chọn không đạt được đa số vừa kể ( đa số tuyệt đối), trong vòng 7 ngày kế tiếp, Tổng thống Liên Bang có thể bổ nhiệm ông hoặc giải tán Hạ Viện” ( Điều 63, đoạn 2, id.).
b) Các điều khoản bất di dịch.
Ngoài ra tính cách cứng rắn vừa kể của Hiến Pháp, các vị soạn thảo cũng tiên liệu tính cách bất di dịch của một số điều khoản mà các vị cho là cột trụ của cả toà nhà Quốc Gia.
Xóa bỏ đi những nguyên tắc căn bản cột trụ đó, tòa nhà Quốc Gia của Cộng Hoà Liên Bang Đức sẽ không còn nữa, như Hiến Pháp đã từng tuyên bố:
– “Nhân phẩm con người bất khả xâm phạm.
Như vậy dân tộc Đức nhìn nhận các quyền bất khả xâm phạm và bất khả nhượng của con người, như là nền tảng của mọi cộng đồng nhân loại, của hòa bình và công chính trên thế giới” ( Điều 1, đoạn 1 và 2 Hiến Pháp 1949 CHLBĐ).
Tính cách bất di dịch , không ai có thể sửa đổi, với bất cứ điều kiện nào, được Hiến Pháp tuyên bố:
– ” Không thể chấp nhận bất cứ một sự thay đổi nào đối với Hiến Pháp nầy, có liên quan đến sự tương quan giư?a Cộng Hoà Liên Bang ( Bund) và các Tiểu Bang ( Laender), nhứt là liên quan đến việc tham gia của các Tiểu Bang vào quyền lập pháp hoặc liên hệ đến các nguyên tắc đa? được tuyên bố nơi các điều khoản 1 và 20″ ( Điều 79, đoạn 3 Hiến Pháp 1949 CHLBĐ).
Và như chúng ta đều biết điều 1 của Hiến Pháp đề cập đến địa vị và các quyền bất khả xâm phạm của con người, chúng ta đã có dịp đọc qua ở trên, và điều 20 là điều định nghĩa về thể chế chính trị của Quốc Gia Đức:
– ” Cộng Hoà Liên Bang Đức là một Quốc Gia Liên Bang Dân Chủ và Xa? Hội”( Điều 20, id.).
Qua những điều vừa kể, chúng ta thấy rằng hai nguyên tắc căn bản về địa vị tối thượng, bất khả xâm phạm của con người và thể chế liên bang, dân chủ và xã hội của Quốc Gia Đức là những nguyên tắc bất di dịch của toà nhà Quốc Gia Đức.
Nêu lên điều khoản bất di dịch vừa kể là xác định nền tảng bảo chứng để thực thi và bảo vệ địa vị tối thượng bất khả xâm phạm của con người trong tổ chức Quốc Gia Đức.
c) Dành quyền hạn chế cho luật pháp và tăng cường đối với luật pháp.
Một phương thức khác để bảo đảm cho nhân quyền được tôn trọng, đó là hình thức dành quyền quyết định cho luật pháp ( riserva di legge). Hay nói rõ hơn, chỉ có Quốc Hội mới có quyền soạn thảo và chuẩn y luật pháp, có hiệu lực luật định.
Vì Hiến Pháp là văn bản luật pháp tiên khởi trên đó Quốc Gia được xây dựng, nên Hiến Pháp không thể nào dự đoán được tất cả mọi điều khoản luật pháp cần thiết để điều hành cuộc sống Quốc Gia. Do đó ngoài việc nêu lên nhưưng nguyên tắc nền tảng và phương thức để xây dựng thể chế và cơ chế Quốc Gia, Hiến Pháp giao lại cho luật pháp sau nầy xác định những điều khoản liên hệ trực tiếp đến cuộc sống thiết thực.
Đó là điều mà chúng ta thường đọc thấy qua các thành ngữ ” do luật lệ ấn định”, ” theo luật lệ hiện hành”…:
– ” Tự do cá nhân bất khả xâm phạm.
Không thể chấp nhận bất cứ việc bắt giư?, khám xét, lục soát nào đối với cá nhân, cũng như mọi giảm thiểu tự do cá nhân nào, nếu không do án trác có lý chứng của tư pháp và chỉ theo các trường hợp và thể thức đã được luật pháp tiên liệu trước” ( Điều 13, đoạn 1 Hiến Pháp 1947 Ý Quốc).
– ” Mọi người Đức đều có quyền hội họp tự do và không võ trang, không cần báo trước hay phải xin phép.
Các cuộc hội họp ở những nơi công cộng, quyền tự do hội họp có thể bị luật pháp giới hạn hoặc phải tuân theo luật lệ hiện hành” ( Điều 8, đoạn 1-2 Hiến Pháp 1949 CHLBĐ).
Nói thì nói vậy chớ không phải vậy. Mặc dầu các vị soạn thảo Hiến Pháp ủy thác cho ” do luật lệ ấn định”, ” theo luật lệ hiện hành”, nhưng các vị soạn thảo Hiến Pháp Tây Âu cũng chưa ngủ yên, nhớ đến bóng ma độc tài của Benito Mussolini và Rudolf Hitler.
Do đó các vị còn dùng đến kỷ thuật luật pháp thứ hai, đó là cách dành quyền hạn chế tăng cường đối với luật pháp( riserva rinforzata di legge).
Đành rằng đối với cuộc sống thiết thực thường nhật mọi việc đều ” do luật lệ ấn định”, ” theo luật lệ hiện hành”. Nhưng pháp luật không thể ” ấn định” và ” hiện hành” thế nào tùy hỷ. Mussolini và Hitler cũng đả tùy hỷ ” ấn định và hiện hành” quá nhiều, với hàng triệu người bị thảm sát trong các lò sát sinh hoặc dưới các trong các mồ chôn tập thể.
Bởi đó qúy vị phải đứng ra tự mình ” ấn định” và ” hiện hành” thế nào pháp luật trong tương lai phải ” ấn định”: đó là phương pháp ” dành quyền hạn chế tăng cường đối với luật pháp ( riserva rinforzata di legge ) .Hiến Pháp đặt những lằn mức nhằm bảo vệ con người mà cả Quốc Hội khi soạn thảo và chuẩn y luật pháp không thể vượt qua:
” ( Luật pháp) phải có giá trị phổ quát, chớ không riêng cho từng trường hợp cá biệt.
…phải đề cập rỏ ràng đến quyền căn bản và trích dẫn điều khoản của Hiến Pháp liên hệ.
Không thể có trường hợp giới hạn nào, trong đó một quyền căn bản bị vi phạm đến nội dung thiết yếu của mình…” ( Điều 19, đoạn 1-2-3 Hiến Pháp 1949 CHLBĐ).
– ” Mọi bạo lực trên thân xác và hăm doạ trên tinh thần của người bị giảm thiểu tự do đều sẽ bị trừng phạt” ( Điều 13, đoạn 2, Hiến Pháp 1947 Ý Quốc).
– ” Hình phạt không thể nào gồm những phương thức đối xử vô nhân đạo và phải có mục đích nhằm cải hoá phạm nhân ” ( Điều 27 đoạn 3, id.)
– ” Không ai có thể bị thuyên chuyển ra khỏi thẩm quyền của vị quan toà đã được luật pháp thiết định trước ” ( Điều 25, đoạn 1, id.)…
d) Các phương thức phải tuân hành
Áp dụng vào thực tế, khi người dân có thể bị giới hạn quyền tự do của mình, đây là thể thức phải tuân hành:
– ” Tự do cá nhân chỉ có thể bị giới hạn do một điều luật phổ quát quy định và luôn tuân theo thể thức được ghi trong điều luật đó. Người bị bắt giữ không thể bị ngược đải về tinh thần cu?ng như thể xác.
Tính cách có được chấp nhận và thời gian kéo dài của việc truất hữu quyền tự do chỉ có vị thẩm phán có quyền định đoạt. Trong trường hợp quyền tự do bị truất hữu không do tư pháp ra lệnh, cần phải cấp bách yêu cầu quyết định của tư pháp. Cảnh sát tự mình không có quyền cầm giữ ai qúa ngày hôm sau khi bị bắt.Các chi tiếc se? được luật pháp quy định.
Bất cứ ai bị cầm giữ, vì nghi ngờ phạm pháp, có cùng lắm là ngày hôm sau khi bị bắt, phải được da?n đến trước thẩm phán. Vị thẩm phán phải báo cho đương sự biết lý do bị buộc tội, nghe bị cáo trình bày các lý do của mình. Thẩm phán sau khi nghe tường trình phải ra trác án tống giam hoặc trả tự do tức khắc” ( Điều 104, đoạn 1-2-3 Hiến Pháp 1949 CHLBĐ).
Và trong trường hợp ngưòi dân cần được xét xử:
– ” Không thể chấp nhận các tòa án đặc biệt. Không ai có thể bị thuyên chuyển ra khỏi thẩm quyền xét xử của vị thẩm phán được luật pháp tiên liệu.
Tòa án dành riêng cho các vấn đề đặc biệt chỉ có thể được thiết lập do luật lệ định sẳn”.(Điều 101, đoạn 1-2 , id.).
Và đối với các vị thẩm phán có nhiệm vụ xét xử:
– ” Các thẩm phán được độc lập và chỉ phải tuân theo luật lệ.
Các thẩm phán đã nhập ngạch vĩnh viễn và các thẩm phán chuyên nghiệp, chỉ bị giải nhiệm trước định kỳ, hoặc bị cấm hành nghề vĩnh viễn hay tạm thời, thuyên chuyển đi nơi khác hoặc cho về hưu trái với ý muốn của họ, do tư pháp quyết định và vì những lý do được luật pháp định trước” ( Điều 97, đoạn 1-2 , id.).
Về phía người dân:
– ” Ai bị cơ quan công quyền vi phạm đến các quyền của mình, có thể đệ đơn thưa cơ quan đó lên cơ quan tư pháp. Bởi lẽ không cần phải có một cơ quan nào khác. Đó là thẩm quyền của cơ quan tư pháp thường nhiệm” ( Điều 19,đoạn 3, id).
Ngoài ra cơ quan tư pháp, người dân cũng có thể tường trình các oan ức của mình đến Ủy Ban Bảo Vệ Nhân Quyền( Wehrbeauftragte) của Hạ Viện, để xin Hạ Viện can thiệp:
– ” Mỗi người có quyền viết thỉnh nguyện thư hay thư tố giác, đơn phương hay chung với người khác, đến giới có thẩm quyền hay đến các vị đại diện dân cử” ( Điều 12, id.)
– ” Để bảo vệ các quyền căn bản và để có được một cơ quan trợ giúp Hạ Viện trong việc kiểm soát, một Ủy Ban Bảo Vệ Nhân Quyền( Wehrbeauftragte) được Hạ Viện thiết lập. Mọi chi tiếc được tiến hành theo luật định”.( Điều 45b, id).
e) Bảo vệ con người ngay cả trong các tổ chức xã hội trung gian
Đối với các lực lượng chính trị.
Hiến Pháp quyết định bảo vệ địa vị con nguời với các quyền bất khả xâm phạm của mình và thể chế Quốc Gia, phương tiện và môi trường vững chắc trong đó con người đưọc bảo vệ có đước cuộc sống xứng đáng với nhân phẩm của mình.
Bởi đó Hiến Pháp không ngần ngại đặt ra ngoài vòng pháp luật bất cứ lực lượng chính trị nào, giới đương quyền, lực lượng đối lập cũng như nhưng lực lượng thù nghịch ( từ phía Đông Đức), có mưu đồ tiêu diệt thể chế chính trị hiện hư?u của Cộng Hoà Liên Bang Đức:
– ” Các chính đảng hoặc do chủ đích hoặc do hành vi của các đảng viên thuộc hạ nhằm tấn công tiêu diệt thể chế dân chủ tự do, hoặc đe dọa sự tồn vong của Cộng Hoà Liên Bang Đức, là như?ng chính đảng bất hợp hiến. Vấn đề bất hợp hiến sẽ được Viện Bảo Hiến quyết định” ( Điều 21, đoạn 2 Hiến Pháp 1949 CHLBĐ).
Phương thức vừa được điều 21 tuyên bố, được các nhà hiến pháp học ( constitutionalistes) gọi là ” dân chủ tự bảo vệ” ( Streibare Demokratie).
Điều đó cho thấy dân chủ là lối sống thuận hòa, hòa bình giữa người và người. Nhưng dân chủ không có nghĩa nhu nhược, không xương sống, nhứt là khi cần để bảo vệ con người và lẽ phải. Thể chế dân chủ biết cứng rắn để tự vệ và đặt ra ngoài vòng pháp luật như?ng ý đồ bất chính.
f) Bảo vệ con người bằng thành phần đối lập
Và sau cùng tinh thần dân chủ và nhân bản cao độ của Hiến Pháp cũng được thể hiện qua phương thức Hiến Pháp dành cho thành phần đối lập có thực quyền kiểm soát, cắt tỉa, ngăn chận những hành động lạm quyền của giới đương quyền, bằng việc kiểm soát tính cách hợp hiến hay vi hiến các hoạt động của giới đương quyền.
Ở một Quốc Gia Liên Bang như Cộng Hoà Liên Bang Đức, thành phần đa số đang chiếm lập pháp và hành pháp ở cấp độ Liên Bang ( Bund). Nhưng thành phần thiểu đối lập có thể đang điều hành một hay nhiều Chính Phủ các Tiểu Bang ( Laender).
Cũng vậy, đa số đương quyền có thể đang chiếm đa số tuyệt đối trong Hạ Viện (Bundestag) , nhưng việc thành phần đối lập chiếm được 1/3 số ghế ở Hạ Viện là điều có thể xảy ra dễ dàng.
Hiểu được như vậy, chúng ta sẽ thấy rằng ở điều khoản dưới đây Hiến Pháp dành cho thành phần thiểu số đối lập có thực quyền kiểm soát, cắt tỉa, chận đứng và phản kháng đường lối hành xử của giới đương quyền để bảo vệ dân chủ và nhân bản, cũng như lợi ích chung của Quốc Gia:
– ” Viện Bảo Hiến sẽ quyết định, trong trường hợp bất đồng ý kiến hay nghi vấn về vấn đề hợp hiến hay không giữa luật pháp Liên Bang hoặc luật pháp Tiểu Bang đối với Hiến Pháp nầy…, nếu được Chính Phủ Liên Bang, Chính Phủ của một Tiểu Bang hay 1/3 nghị sĩ Hạ Viện Liên Bang yêu cầu” ( Điều 93, Hiến Pháp 1949 CHLBĐ).
Câu nói ” Chính Quyền của một Tiểu Bang ( trên 16 Tiểu Bang ở Đức) hay 1/3 nghị sĩ Hạ Viện” cho thấy Hiến Pháp ủy thác cho thành phần Thiểu Số Đối Lập quyền khả thi thực hữu. Bởi lẽ thành phần Thiểu Số Đối Lập có thể đang chiếm được một vài Chính Quyền nào đó của 16 Tiểu Bang Đức Quốc, cũng như không dễ gì thành phần đa số trong hạ Viện Liên Bang là đa số trên 2/3, bởi đó con số 1/3 hạ nghị sị đối lập là con số không phải khó khăn gì để kiếm được.
Và một khi vấn đề được đệ trình Viện Bảo Hiến, thành phần đa số đương quyền không còn có cơ hội xử dụng thái độ ” cả vú lấp miệng em”, dựa vào thế lực đa số đàn áp thiểu số. Bởi lẽ Viện Bảo Hiến được Hiến Pháp tiên liệu là một Viện hành xử quyền phán quyết của mình một cách hết sức vô tư có thể. Thành Viên của Viện Bảo Hiến gồm các vị thẩm phán:
– 1/2 do Thượng Viện( Bundesrat) cắt đặt,
– 1/ 2 do Hạ Viện ( Bundestag).
Và như chúng ta biết Hạ Viện có thể gồm thành phần đa số của giới đương quyền, nhưng Thượng Viện là Viện Quốc Hội gồm các Thượng Nghị Sĩ là thành viên của chính quyền các Tiều Bang, có thể thuộc các chính đảng có chính kiến đối lập:
” …Các thành viên của Viện Bảo Hiến được tuyển chọn phân nửa do Hạ Viện và phân nửa do Thượng Viện. Các thành viên của Viên Bảo Hiến không thể là thành viên của Hạ Viện, của Thượng Viện, của Chính Quyền Liên Bang cu?ng như của các cơ quan tương tợ của Tiểu Bang” ( Điều 94, Hiến Pháp 1949 CHLBĐ).
g) Bảo vệ bằng phương thức tản quyền
Phương thức tản quyền cổ điển ai trong chúng ta cũng biết, phân chia quyền lực Quốc Gia
– theo hàng ngang thành cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp để các quyền lực ” kiểm soát và cân bằng” nhau ( checks and balances), bảo vệ con người và các quyền bất khả xâm phạm của mình.
– Ngoài ra phương thức quen thuộc vừa kể các Hiến Pháp nhân bản Tây Âu còn dùng phương thức tản quyền theo hàng dọc, từ trung ương đến địa phương để thực hiện cùng một mục đích trên: Hiến Pháp dành cho các cấu trúc ngoại vi, các công đồng địa phương, vùng, tỉnh, quận, các tổ chức kinh tế, lao động, giáo dục và tôn giáo nhiều quyền hạn rộng rải trong cuộc sống Quốc Gia.
Để tiện việc xưng hô, chúng tôi xin tạm gọi các tổ chức và cơ chế ngoại vi đó ( sánh với tổ chức quyền lực trung ương) là các Cộng Đồng Địa Phương.
Trong tâm thức các nhà soạn thảo Hiến Pháp 1947 Ý Quốc, các Cộng Đồng Địa Phương
– không phải chỉ là tiếng nói của dân chúng tại địa phương, nói lên như?ng nhu cầu và ước vọng của họ liên quan đến các vấn đề địa phương,
– mà cũng có thể là tiếng nói của dân chúng địa phương liên quan đến nhu cầu và ước vọng cho cả đất nước ( E. Spagna Musso, Titolarità diffusa, aperta ed integrativa, in L’iniziativa nella formazione delle leggi italiane, Napoli, 1958,24).
Giao nhiều quyền rộng rãi cho các Cộng Đồng Địa Phương, Hiến Pháp 1947 Ý không những cho chúng ta thấy tính cách đa nguyên của nền dân chủ Quốc Gia họ,
– không những Dân Chủ có nghĩa là chủ quyền thuộc về dân,
– mà là chủ quyền Quốc Gia tản mác trong dân chúng, từ trung ương đến địa phương.
Mỗi địa phương, mỗi tổ chức có những sắc thái, suy tư , quan niệm cá biệt, có thể
– ” khác biệt trong hợp tác, hướng về một mục đích, phong phú đa dạng trong hợp nhất” ( V. Crisafulli, La Sovranità popolare nella Costituzione Italiana, in Studi in memoria di Orlando, 1957, vol.I, 418).
Trái lại độc tài đảng trị là đồng nhất đơn điệu, cùn uẩn và bịt mắt để chỉ nhìn thấy một chiều.
Sau khi trình bày như?ng tư tưởng vừa kể về giá trị cộng tác của Cộng Đồng Địa Phương vào cuộc sống Quốc Gia, chúng ta có thể liệt kể ngắn gọn các vai trò mà Hiến Pháp 1947 Ý dành cho Cộng Đồng Địa Phương và hẹn gặp lại qúy độc giả trong một bài nghiêng cứu xâu xa hơn ở lần khác:
* quyền đề xướng đự án luật Quốc Gia:
– ” ( Cộng Hoà Dân Chủ Ý) trong các ngành phục vụ Quốc Gia, thực thi cách thức tản quyền ( decentramento) quản trị rộng ra?i hết sức có thể, thực thi nguyên tắc và cách thức lập pháp của mình phù hợp với nhu cầu tự lập và phân phối quyền lực” ( Điều 5, Hiến Pháp 1947 Ý Quốc).
– ” Quyền đề xướng luật pháp thuộc về Chính Quyền, mo?i thành viên của Lưỡng Viện Quốc Hội , các cơ quan và tổ chức được Hiến Pháp giao phó.
Dân chúng hành xử quyền đề xướng luật pháp, qua sự yêu cầu của ít nhứt là 50.000 cử tri, bằng một dự thảo luật viết thành điều khoản” ( Điều 71, id.).
– ” Hội đồng Quốc Gia về Kinh Tế và Lao Động có quyền đề xướng luật pháp và có thể góp phần vào việc thành lập luật pháp về kinh tế và xa? hội theo các nguyên tắc và trong giới mức pháp định” ( Điều 99, id.).
-” Hội Đồng Địa Phương ( Vùng) hành xử quyền lập pháp và thiết định quy chế được giao cho địa phương và các vai trò khác do Hiến Pháp và luật pháp quy trách cho.
Hội Đồng Địa Phương có thể trình bày các dự thảo luật dến Lưỡng Viện Quốc Hội” (Điều 121, đoạn2, id.).
* quyền đề xướng trưng cầu dân ý bải bỏ luật Quốc Gia.
– ” Trưng cầu dân ý để bải bỏ toàn diện hay một phần điều khoản luật pháp hoặc sắc lệnh có hiệu lực pháp định se? được đề xướng, khi có 50.000 cư? tri hoặc 5 Cộng Đồng Địa Phương ( Vùng) yêu cầu ” ( Điều 75, đoạn 1 Hiến Pháp 1947 Ý Quốc).
* Quyền Cộng Đồng Địa Phương tham dự bầu cử Tổng Thống.
– “Tổng Thống Cộng Hoà được Quốc Hội Lươ?ng Viện bầu ra trong phiên hợp chung của các thành viên.
Mo?i Cộng Đồng Địa Phương có 3 đại diện được Hội Đồng Vùng tuyển chọn tham dự bỏ phiếu, thế nào cho các thành phần thiểu số cu?ng được đại diện” ( Điều 83, đoạn 1 và 2, id.).
Ai trong chúng ta cũng biết rằng Tổng Thống trong Đại Nghị Chế chỉ là vị nguyên thủ Quốc Gia.
– Ông không có quyền tham dự vào quyền lực của hành pháp,
– càng không có quyền ” chuẩn y hay bác bỏ” của lập pháp.
Tuy nhiên vai trò đứng trên mọi phe phái để phối hợp, điều hòa và cảnh cáo là những quyền lực tối quan trọng cho đời sống Quốc Gia. Do đó quyền Các Cộng Đồng Địa Phương ở Ý được tham gia vào việc tuyển chọn Tổng Thống là quyền tối quan trọng liên quan đến việc lựa chọn chính hướng và hoạt động Quốc Gia.
Còn nữa, nếu chúng ta để ý, chúng ta sẽ thấy rằng các thành viên của Viện Bảo Hiến gồm
– 1/ 3 do Tổng Thống chỉ định,
– 1/3 do Quốc Hội Lươ?ng Viện
– và 1/3 do Tối Cao Pháp Viện:
* ” Viện Bảo Hiến gồm có 15 thành viên, 1/3 do Tổng Thống chỉ định, 1/3 do Lươ?ng Viện Quốc Hội và 1/3 do Tối Cao Pháp Viện và các thẩm phán hành chánh” ( Điều 135, đoạn 1 Hiến Pháp 1947 Ý Quốc).
Như vậy quyền được tham dự chọn Tổng Thống của Cộng Đồng Địa Phương là qưyền kiểm soát hợp hiến hay bất hợp hiến các hoạt động và luật lệ Quốc Gia, qua các thành viên Viện Bảo Hiến được Tổng Thống của mình chọn chỉ định.
Đó là một nút chặn khác chống lại những ai có khuynh hướng độc tài, hành xử quyền lực Quốc Gia tự tung tự tác tùy hỷ, bè phái, đảng trị, bất chấp luật Hiến Pháp.
Nói cách khác, kiểm soát tính cách hợp hiến hay bất hợp hiến chính hướng, chương trình và hành động của giới đương quyền là một bảo chứng thêm nữa cho việc bảo vệ các quyền bất khả xâm phạm của con người, mà Hiến Pháp tuyên bố ở phần đầu của thân bài như là những điều khoản luật bắt buộc.
* quyền thay đổi các điều khoản và bổ túc Hiến Pháp.
Bất cứ một Hiến Pháp nào cũng là một văn bản được soạn thảo trong một hoàn cảnh lịch sử , môi trường sống và những điều kiện cá biệt.
Thời gian trôi qua, những yếu tố trên thay đổi. Uớc vọng và nhu cầu của dân chúng có thể thay đổi để đáp ứng với tình thế. Tình thế và hoàn cảnh xa? hội mới hay ” Hiến Pháp Thực Tế” ( Costituzione Materiale) đã đổi khác so với những gì được nêu ra trên ” Hiến Pháp Văn Bản” ( Costituzione Scritta), nói theo ngôn ngư? của các nhà Hiến Pháp Học (Costituzionalista).
Do đó Hiến Pháp đã được viết ra cần được thay đổi hay bổ túc để đáp ứng lại nhu cầu và ước vọng của người dân.
Tiên đoán trước nhu cầu cần thiết vừa kể, các vị soạn thảo Hiến Pháp 1947 Ý Quốc, ngoài ra việc giao phó cho những ai có trách nhiệm phải lo liệu, các vị còn giao trọng trách trên cho cả Cộng Đồng Địa Phương, để cho nhu cầu và ước vọng của mọi thành phần dân chúng ở mọi phần đất trên lãnh thổ Quốc Gia đều có tiếng nói của mình, góp phần định hướng và la?nh đạo Quốc Gia:
– ” Các luật pháp về sửa đổi Hiến Pháp và các luật hiến pháp khác được mỗi Viện Quốc Hội áp dụng, đều phải được Quốc Hội bỏ phiếu tán đồng qua hai cuộc bỏ phiếu trong thời gian không duới ba tháng. Các luật vừa kể phải được tán đồng của mỗi Viện Quốc Hội với đa số tuyệt đối ( 50%+1 phiếu) ở lần bỏ phiếu thứ hai.
Các luật trên có thể dược đưa ra trưng cầu dân ý, nếu trong vòng 3 tháng sau ngày công bố có 1/5 số Nghị Sĩ của một Viện Quốc Hội, 50.000 cử tri hoặc 5 Cộng Đồng Địa Phương (Vùng) yêu cầu. Điều luật bị đưa ra trưng cầu dân ý se? không được công bố, nếu không được đa số chấp thuận…” ( Điều 138, đoạn 1 và 2 Hiến Pháp 1947 Ý Quốc).
* Quyền của Chủ Tịch Cộng Đồng Địa Phương ( Vùng) tham dự các phiên họp Hội Đồng Nội Các.
Vị Chủ Tịch Cộng Đồng Địa Phương ( Vùng) đại diện cho dân chúng trong phần đất của mình, được Hiến Pháp trao cho quyền tham dự các phiên họp Hội Đồng Nội Các Chính Phủ để nói lên tiếng nói của dân chúng trong la?nh thổ mình cho lợi ích Quốc Gia.
Vị Chủ Tịch của mỗi Vùng có vai trò đại diện đối ngoại cho Cộng Đồng Điạ Phương, là người đại diện không phe phái, có nhiệm vụ ” nói lên một cách trung thực các nhu cầu liên hệ đến quyền tự lập của Cộng Đồng Địa Phương vùng mình, như là chủ thể sở hữu chủ quyền lực” ( T.Martines, Lineamenti di Diritto Regionale, Milano, 1977, 99).
Và Nội Quy của vùng Sicilia còn đi xa hơn:
– ” Vị Chủ Tich Vùng, vói tư cách như là Bộ Trưởng tham dự cuộc họp các Bộ Trưởng, với quyền bỏ phiếu quyết định những vấn đề liên quan đến đời sống của Vùng” ( E Spagna, Il Presidente della Regione, Napoli, 1966, 18).
* Quyền người dân có quyền phán đoán giới đương quyền
– duyệt xét hồ sơ, sổ sách để biết được cách hành xử hiệu lực, hiệu năng hay không của giới quản trị ( điều 7, Luật 241/90 Ý Quốc).
Qua những gì chúng ta trình bày, các Hiến Pháp nhân bản Tây Âu
– dành cho con người địa vị tối thượng trong tổ chức Quốc Gia,
– tiên liệu các lời tuyên bố của Hiến Pháp thành luật lệ thực định,
– tiên liệu các điều khoản để thực hành các quyền căn bản, bất khả nhượng mà mình tuyên bố
– và tiên liệu nhiều phương thức để bảo vệ con người tránh lạm quyền.
– ” Nhân phẩm con người bất khả xâm phạm” ( Điều 1, Hiến Pháp 1949 CHLBĐ).
Những điều khoản của các Hiến Pháp nhân bản Tây Âu vừa trích dẫn, phải chăng là những bài học quý giá cho phép chúng ta mơ ước một đất nước nhân bản trong tương lai cho dân tộc Việt Nam?
GS. Nguyễn Học Tập