Từ tháng Năm, một văn bản ngoại giao cũ lại được Việt Nam và Trung Quốc nhắc đến trong khi quan hệ trở nên căng thẳng vì vụ giàn khoan Hải Dương 981.
Công hàm ngày 14/9/1958 của Thủ tướng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Phạm Văn Đồng nhằm phúc đáp công hàm về chiều rộng lãnh hải của Trung Quốc của Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai.
Văn bản này lại được Trung Quốc nêu ra để khẳng định chủ quyền với Hoàng Sa, trong lúc Việt Nam cũng nhiều lần lên tiếng bác bỏ.
Quan điểm Trung Quốc
Trang web Bộ Ngoại giao Trung Quốc hôm 8/6, khi liệt kê các “bằng chứng” về việc Việt Nam công nhận chủ quyền của Trung Quốc, dẫn lại văn bản này.
Trên China Daily, một nhà nghiên cứu, Wu Yuanfu, nói Việt Nam “Việt Nam chỉ thay đổi lập trường sau khi thống nhất Bắc-Nam năm 1975 và kể từ đó luôn cố diễn giải sai lệch và chối bỏ lập trường chính thức đã được nêu rõ trong công hàm”.
Còn Trần Khánh Hồng, Viện Nghiên cứu Quan hệ Quốc tế Hiện đại Trung Quốc, lại nói văn bản cho thấy “chính phủ Việt Nam công nhận quần đảo Tây Sa và Nam Sa là lãnh thổ của Trung Quốc”.
Trung Quốc còn đưa ra một số luận cứ khác để nói Việt Nam trước những năm giữa thập niên 1970 đã “luôn công khai và chính thức công nhận” Hoàng Sa thuộc về Trung Quốc. Nhưng như tác giả Ling Dequan viết trên China Daily, hai bằng chứng “quan trọng nhất” cho sự thừa nhận của Việt Nam là công hàm 1958 và Tuyên bố của chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngày 09/05/1965 liên quan tới vùng chiến đấu của quân đội Hoa Kỳ tại Nam Việt Nam.
Việt Nam phản bác
Sau nhiều năm tránh nhắc về Công thư 1958, Việt Nam đã nhiều lần công khai bác bỏ giá trị của văn bản này kể từ khi xảy ra căng thẳng hồi tháng Năm, và gọi đây là “công thư”.
Hôm 23/5, tại cuộc họp báo ở Hà Nội, Phó chủ nhiệm Ủy ban Biên giới quốc gia, Trần Duy Hải, nói khi văn bản của Thủ tướng Phạm Văn Đồng gửi cho Trung Quốc, Hoàng Sa, Trường Sa đang được quyền quản lý của Việt Nam Cộng hòa.
“Việt Nam tôn trọng vấn đề 12 hải lý nêu trong công thư chứ không đề cập tới Hoàng Sa Trường Sa vì thế đương nhiên không có giá trị pháp lý với Hoàng Sa và Trường Sa.”
“Bạn không thể cho ai thứ mà bạn chưa có quyền sở hữu, quản lý được. Vậy nên điều đó càng khẳng định công văn của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng không có giá trị pháp lý,” theo ông Hải.
Trong một cuộc phỏng vấn, Tiến sĩ Trần Công Trục, nguyên Trưởng ban Biên giới Chính phủ, nói: “Trong công thư đó, Việt Nam chỉ ủng hộ tuyên bố lãnh hải 12 hải lý của Trung Quốc thôi, không hề nhắc tới chủ quyền của Trung Quốc đối với hai quần đảo này.”
“Phía Trung Quốc thì luôn luôn dùng các thủ thuật, thủ đoạn để gán ghép các sự kiện lại với nhau nhằm giành lấy một sự công nhận mặc nhiên về chủ quyền ở đây.”
Một nhà nghiên cứu trong nước, thạc sĩ Hoàng Việt, cũng cho rằng văn bản này “mang một sự cam kết về mặt chính trị hơn là về pháp lý”.
“Đây cũng là một hình thức mà các nước xã hội chủ nghĩa thường hay sử dụng để thể hiện tình đoàn kết trong tinh thần anh em trong phong trào vô sản quốc tế.”
‘Một phần có lý’
Tuy vậy, trong giới nghiên cứu người Việt ở nước ngoài, có một số ý kiến khác.
Một nhà nghiên cứu gốc Việt cho rằng Trung Quốc không hoàn toàn vô lý khi viện dẫn lá thư của Thủ tướng Phạm Văn Đồng năm 1958, nhưng ông cho rằng đó chỉ là một nửa sự thật.
Ông Dương Danh Huy, sống ở Anh và là một người Việt nghiên cứu về tranh chấp biển đảo, nói với BBC hôm 20/6.
“Khó nói rằng lập luận Trung Quốc đã đưa ra từ thập niên 1980, mà ngày nay họ đang đưa ra với thế giới một cách mạnh mẽ, về công hàm của ông Phạm Văn Đồng và những hành vi bất lợi khác của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là hoàn toàn vô lý.”
“Sẽ chính xác hơn nếu cho rằng lập luận của Trung Quốc cũng có lý về một nửa vấn đề.”
Ông Huy nói tiếp: “Nửa đó là giả sử như năm 1974 Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Trung Quốc ra Tòa về Hoàng Sa, và Tòa phân xử, khả năng là Tòa sẽ công nhận rằng vào năm đó danh nghĩa chủ quyền của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa với hai quần đảo này yếu hơn của Trung Quốc.”
Nhưng, ông Huy cho rằng còn “một nửa khác của sự thật” mà Trung Quốc bỏ qua.
“Đó là giả sử như năm 1974 Việt Nam Cộng Hòa và Trung Quốc ra Tòa về Hoàng Sa, và Tòa phân xử, khả năng là Tòa sẽ công nhận rằng vào năm đó danh nghĩa chủ quyền của Việt Nam Cộng Hòa với quần đảo này mạnh hơn của Trung Quốc.”
“Do đó, phản biện của Việt Nam phải vận dụng nửa này của sự thật, tức là phải vận dụng danh nghĩa chủ quyền mà Việt Nam Cộng Hòa đã duy trì, và cần lập luận cho rằng khi Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam ra đời năm 1976, quốc gia đó đã thừa kế chủ quyền này.”
Ông Huy cho biết ông đã bày tỏ quan điểm này với các nhà nghiên cứu và phóng viên trong nước. Ông cho rằng trong những thập niên qua Việt Nam cũng biết rằng lập luận về Hoàng Sa, Trường Sa cần có ba điều. Thứ nhất, những tuyên bố và hành động chủ quyền của Việt Nam Cộng Hòa phải có giá trị trong luật quốc tế. Thứ nhì, CHXHNCVN phải thừa kế danh nghĩa chủ quyền mà Việt Nam Cộng Hòa đã duy trì. Thứ ba, phải giảm thiểu giá trị trong luật quốc tế của công hàm của ông Phạm Văn Đồng.
Ông Huy cho rằng thông thường thì điều thứ nhất đi đôi với việc trong quá khứ Việt Nam Cộng Hòa là một quốc gia, nhưng cho đến gần đây truyền thông Việt Nam ít nói thẳng ra. Tuy vậy, trong năm nay đã có ít nhất ba bài trên báo Việt Nam nói thẳng trong quá khứ Việt Nam Cộng Hòa là một quốc gia, và một số quan chức và cựu quan chức Việt Nam trả lời phỏng vấn cũng nói rằng trong quá khứ Việt Nam Cộng Hòa là một chủ thể trong luật quốc tế có chủ quyền lãnh thổ.
Theo ông Huy, “Chủ thể trong luật quốc tế có chủ quyền lãnh thổ là quốc gia.”