Đơn Tố Cáo Và Yêu Cầu Truy Tố
về 2 tội PHẢN QUỐC và BÁN NƯỚC
Việt Nam, ngày 21 tháng 12 năm 2010
Kính gửi:
Ông Chánh Án Tòa Án Nhân Dân Tối Cao Trương Hòa Bình,
48 Lý Thường Kiệt, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội.
Đồng kính gửi : – Ông Bộ trưởng Bộ Tư pháp Hà Hùng Cường,
– Ông Bộ trưởng Bộ Công an Lê Hồng Anh,
– Ông Viện trưởng Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao Trần Quốc Vượng,- Bà Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp Quốc hội khóa XII Lê Thị Thu Ba,
– Đồng bào Việt Nam quốc nội và hải ngoại,
– Các Tổ chức, Hội đoàn và Đảng phái Việt Nam quốc nội và hải ngoại,
– Các Cơ quan Truyền thông và Báo chí Việt Nam.
– Các Tổ chức quốc tế và các Cơ quan Truyền thông quốc tế.
Tadeo Nguyễn Văn Lý, Linh mục Công giáo Tổng Giáo phận Huế,
69 Phan Đình Phùng, Huế.
Những người Việt quốc nội và hải ngoại cùng đứng đơn kiện:
– Chân Tín, Linh mục Công giáo Dòng Chúa Cứu Thế, 38 Kỳ Đồng, Sài Gòn.
– Lê Văn Cao, Linh mục Công giáo Tổng Giáo phận Huế, 69 Phan Đình Phùng, Huế.
– Hồ Văn Quý, Linh mục Công giáo Tổng Giáo phận Huế, Quản xứ Diên Sanh, Quảng Trị.
– Nguyễn Hữu Giải, Linh mục Công giáo TGP Huế, Quản xứ An Bằng, Thừa Thiên-Huế.
– Phan Văn Lợi, Linh mục Công giáo Giáo phận Bắc Ninh, 16/46 Trần Phú, Huế.
– Lê Trần Luật, Luật sư, Sài Gòn.
– Lê Thị Công Nhân, Luật sư, 316, A7 VP Chính phủ, Phương Mai, Đống Đa, Hà Nội.
– Nguyễn Văn Ngọc, ấp 1, xã Long Thọ, Nhơn Trạch, Đồng Nai.
– Nguyễn Ngọc Quang, giáo xứ La Ngà, Định Quán, Đồng Nai.
– Đinh Xuân Minh, Linh mục Công giáo Giáo phận Mainz, Đức Quốc.
– Nguyễn Sơn Hà, số 12 rue de la Lutte – 95170 Deuil de la Barre, Pháp quốc.
– Nguyễn Trung Kiên, số 269 Avenue Daumesnil – 75012 Paris, Pháp quốc.
2. Các Công dân Việt Nam trong vai trò Thành viên Bộ Chính trị BCH/TƯ/ ĐCSVN đương nhiệm khóa X (2006-2011), Ông Nông Đức Mạnh TBT/BCH/TƯ và các đồng lõa.
3. Các Ông Nguyễn Minh Triết Chủ Tịch Nước, Nguyễn Tấn Dũng Thủ Tướng Chính phủ, Nguyễn Phú Trọng Chủ tịch Quốc hội Nước Cộng hòa XHCN Việt Nam và các đồng lõa.
III – Tội danh:
Căn cứ trên Hiến pháp (HP) Nước CHXHCN Việt Nam năm 1992 được bổ sung năm 2001 và Bộ Luật Hình sự (LHS) năm 1999 của Nước CHXHCN Việt Nam, được bổ sung năm 2009 :
1- Tội phản bội Tổ quốc (điều 78 LHS): “Những công dân cấu kết với nước ngoài nhằm gây hại cho độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ và lãnh hải của Tổ quốc“.
2- Tội xâm phạm an ninh lãnh thổ (điều 81 LHS): “Làm sai lệch đường biên giới (lãnh thổ và lãnh hải) Quốc gia Việt Nam,… gây phương hại cho an ninh lãnh thổ (và lãnh hải) của Đất nước…”.
3- Tội bán Nước. Mặc dù trong Hiến pháp và trong Bộ Luật Hình sự của Nước CHXHCN Việt Nam không có điều khoản nào nói về tội bán Nước. Nhưng những hành vi chúng tôi liệt kê dưới đây sẽ minh chứng tội bán Nước căn cứ theo truyền thống 4 ngàn năm dựng Nước và giữ Nước của Dân tộc Việt Nam.
4- Tội cấu kết làm tay sai ngoại bang: che giấu sự thật và ngăn cấm tinh thần yêu nước liên quan đến vấn đề ngoại bang xâm chiếm lãnh thổ lãnh hải (điều 69 HP).
5- Tội không trưng cầu ý Dân (điều 2 HP): “Nhà nước … là Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về Nhân dân“. Thế mà Dân không được biết, không được bàn, không được làm, không được kiểm tra !
Là những người yêu Nước và có trách nhiệm với Tổ quốc, căn cứ các tội danh nêu trên và căn cứ điều 44 HP: “Bảo vệ Tổ quốc… là sự nghiệp của Toàn Dân”, điều 77 HP: “Bảo vệ Tổ quốc là nghĩa vụ thiêng liêng và quyền cao quý của Công Dân”, điều 75 § 1 HP: “Người VN định cư ở nước ngoài là bộ phận của Cộng đồng Dân tộc VN”, và điều 74 HP: “Công Dân có quyền khiếu nại, quyền tố cáo….về những việc làm trái pháp luật của cơ quan nhà nước…”, chúng tôi đồng ký tên vào đơn kiện này để kiện các bị cáo đã có những hành vi vi hiến và phạm pháp sau đây:
2- Ký Hiệp định Biên giới Lãnh thổ trên đất liền, ngày 30.12.1999 và Quốc hội phê chuẩn ngày 09.06.2000.
3- Ký Hiệp định Biên giới Lãnh hải vịnh Bắc Việt và qui định vùng đánh cá chung ngày 25.12.2000 và Quốc hội phê chuẩn ngày 15.06.2004.
4- Không hề đưa ra lý do vì sao phải:
– Hủy bỏ Hiệp định Pháp-Hoa (Convention de Fournier) ký ngày 18.05.1884 và 09.06.1885 tại Thiên Tân, rồi tự ý phân định lại biên giới lãnh thổ và lãnh hải dưới áp lực của ngoại bang.
– Hủy bỏ Hiệp định Pháp-Hoa (Convention de Brévié) ký ngày 26.06.1887 quy định về Vịnh Bắc Việt rồi tự ý phân chia lại Vịnh này dưới áp lực của ngoại bang.
– Che giấu bí mật hoàn toàn đối với toàn Dân về việc chuẩn bị, xúc tiến, hoàn thành, ký kết văn bản 2 Hiệp Ước nói trên.
5- Nộp hồ sơ về thềm lục địa Việt Nam cho Liên Hiệp Quốc ngày 07-05-2009 mà lại tự giới hạn chủ quyền của Việt Nam tại Biển Đông.
6- Trao nhượng đất, rừng, biển dưới nhiều hình thức (Boxit, thuê rừng, bờ biển,…).
Trong khi không điều nào trong Hiến pháp hoặc Luật pháp cho phép Chính phủ, Quốc hội và đảng Cộng Sản Việt Nam được toàn quyền về lãnh thổ và lãnh hải Việt Nam, được thụt lùi địa giới hải giới vô căn cứ, đặc biệt là khi không có sự đe dọa quân sự của đối phương, tự ý tạo điều kiện cho ngoại bang đưa “dân” của chúng ồ ạt vào chiếm đóng lâu dài trên Đất Việt qua các kế hoạch khai thác boxit ở Tây Nguyên, thuê các rừng đầu nguồn và các bờ biển, mà toàn Dân không hề biết hoặc đồng thuận.
B. Căn cứ điều 17 HP: “Đất đai, rừng núi,… tài nguyên trong lòng đất, nguồn lợi ở vùng biển, thềm lục địa,… đều thuộc sở hữu của toàn Dân“. Nếu điều 17 này được hiểu như là toàn Dân có quyết định tối cao và tối hậu về toàn bộ Đất đai của Quốc gia thì khi đưa ra công hàm, ký kết và phê chuẩn 2 hiệp ước nêu trên, mà không trưng cầu ý Dân, thì Quốc hội, Chính phủ và đảng CSVN đã phạm các tội:
1- Phản Quốc và bán Nước vì làm mất tài sản đất đai của toàn Dân mà Quốc hội, Chính phủ và ĐCSVN hoàn toàn không có quyền sở hữu (điều 34, 47 HP).
2- Làm sai lệch biên giới lãnh thổ và lãnh hải Quốc gia (điều 81 LHS), gây ra hậu quả đặc biệt nghiêm trọng cho: toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quốc gia, sinh mạng người dân, tài nguyên đất nước.
3- Lạm dụng quyền lực và làm tay sai Ngoại bang: vượt quá quyền hạn mà Hiến pháp đã quy định khi đàm phán về biên giới quốc gia, tạo điều kiện cho ngoại bang đưa “dân” của chúng ồ ạt vào chiếm đóng lâu dài trên Đất Việt, không thông báo sự thật về các vụ đàm phán và ngăn cấm tinh thần yêu nước phản đối ngoại xâm (điều 69 HP).
4- Không trưng cầu ý Dân (điều 84 § 14 HP) về những thay đổi liên quan tới lãnh thổ và lãnh hải.
5- Phản Quốc và bán Nước vì không làm tròn nhiệm vụ gìn giữ an ninh quốc phòng
(điều 83 § 3 HP).
6- Không chu toàn nhiệm vụ giám sát (Quốc hội đối với Chính phủ) (điều 83 § 4 HP).
7- Không tuân thủ Hiến pháp Việt Nam do chính Quốc hội đặt ra (điều 84 § 2 HP).
8- Ngăn cấm tinh thần yêu nước của giới trí thức, giới đối kháng và giới dân oan yêu nước qua việc hăm dọa đánh đập, vu khống chụp mũ, kết án giam cầm các công dân đã lên tiếng phản đối Giặc Tàu xâm lược và tố cáo não trạng thái thú, tinh thần nô lệ của đảng và nhà cầm quyền CSVN.
2. Tổn hại lãnh thổ – lãnh hải của Tổ quốc ngàn đời :
Các hành vi vi phạm nêu trên đã gây hậu quả hết sức nghiêm trọng, có thể biến Tổ quốc của chúng ta thành thuộc địa của Trung Cộng, biến Dân tộc ta thành nô lệ của Bắc phương. Chúng tôi có đầy đủ cơ sở để khẳng định rằng hậu quả tai hại đó là : dưới chế độ Cộng sản, Tổ quốc Việt Nam chúng ta đã :
– mất từ 760 km2 đến 1.000 km2 ở vùng biên giới lãnh thổ phía Bắc.
– mất từ 11.000 km2 đến 20.000 km2 ở vùng biên giới lãnh hải Vịnh Bắc Việt.
– mất nhiều địa điểm mang tính lịch sử như Ải Nam Quan, Bãi Tục Lãm, phân nửa thác Bản Giốc… và nhiều cao điểm chiến lược quan trọng về an ninh quốc phòng.
– mất Quần đảo Hoàng Sa và phần lớn quần đảo Trường Sa, là tài nguyên về khoáng sản, hải sản và là tiền đồn phía Đông Tổ quốc.
– mất quyền kiểm soát vùng Tây Nguyên do việc để cho Trung Cộng khai thác bôxit, mất quyền kiểm soát hơn 300 ngàn hecta rừng đầu nguồn và hàng chục ngàn hecta duyên hải do việc để cho Trung Quốc thuê mướn lâu dài.
Với những hậu quả hết sức nghiêm trọng vừa nêu, các hành vi nói trên đã hiển nhiên đủ yếu tố cấu thành các tội: tội phản Quốc, tội bán Nước và tội xâm phạm an ninh lãnh thổ (điều 78, 81 LHS). Tội này thuộc về hầu hết các thành viên của Quốc hội, Chính phủ, thuộc về toàn thể Bộ Chính trị đảng CSVN. Do đó Quốc hội, Chính phủ và Bộ Chính trị BCH đảng CSVN không còn xứng đáng làm đại diện và lãnh đạo Dân tộc Việt Nam, trái lại cần phải bị đem ra trước công lý.
– Mặc dù các vùng đất, biển, đảo xưa kia thuộc Việt Nam và nay thuộc Trung Cộng do các văn kiện phi pháp nói trên cống hiến hay do việc Trung Cộng xâm lấn, chúng vẫn luôn mãi là tài sản của Dân tộc và Đất nước Việt Nam.
– Ý chí của Toàn Dân Việt là không thể cắt đất, dâng biển cho ngoại bang, không thể tạo điều kiện cho ngoại bang chiếm giữ những điểm chiến lược quan trọng trong việc phòng thủ Đất nước mà xưa nay Cha ông, Tiên tổ chúng ta đã đem xương máu giữ gìn.
Kết luận:
Chúng tôi tha thiết yêu cầu thẩm quyền tư pháp Việt Nam, đặt biệt là Bộ Công an và Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao sớm khởi tố vụ án chính trị hết sức nghiêm trọng này, đưa những kẻ phản Quốc và bán Nước ra trước vành móng ngựa, xét xử nghiêm minh để bảo vệ danh dự và sự tồn tại của Dân tộc chúng ta. Yêu cầu xét lại và thả ngay vô điều kiện tất cả các công dân có thái độ yêu nước đã bị bắt giam, quản chế vì bị vu khống, chụp mũ; yêu cầu bồi thường cho họ xứng đáng.
Trong trường hợp quyết định không khởi tố vụ án thì yêu cầu quý vị sớm trả lời cho chúng tôi bằng văn bản lý do vì sao.
Chúng tôi cam đoan rằng những lời tố cáo của chúng tôi là hoàn toàn đúng sự thật. Chúng tôi trách nhiệm việc chúng tôi làm trước lịch sử Tổ quốc, trước Tổ tiên Dân tộc và trước Hồn thiêng Sông núi.
Trân trọng kính chào!
Việt Nam, ngày 21 tháng 12 năm 2010
Nguyên cáo:
(đã ký tên)
Nguyễn Văn Lý, Linh mục Công giáo Tổng Giáo phận Huế,
69 Phan Đình Phùng, Huế.
– Chân Tín, Linh mục Công giáo Dòng Chúa Cứu Thế, 38 Kỳ Đồng, Sài Gòn.
– Lê Văn Cao, Linh mục Công giáo Tổng Giáo phận Huế, 69 Phan Đình Phùng, Huế.
– Hồ Văn Quý, Linh mục Công giáo Tổng Giáo phận Huế, Quản xứ Diên Sanh, Quảng Trị.
– Nguyễn Hữu Giải, Linh mục Công giáo TGP Huế, Quản xứ An Bằng, Thừa Thiên-Huế.
– Phan Văn Lợi, Linh mục Công giáo Giáo phận Bắc Ninh, 16/46 Trần Phú, Huế.
– Lê Trần Luật, Luật sư, Sài Gòn.
– Lê Thị Công Nhân, Luật sư, 316, A7 VP Chính phủ, Phương Mai, Đống Đa, Hà Nội.
– Nguyễn Văn Ngọc, ấp 1, xã Long Thọ, Nhơn Trạch, Đồng Nai.
– Nguyễn Ngọc Quang, giáo xứ La Ngà, Định Quán, Đồng Nai.
– Đinh Xuân Minh, Linh mục Công giáo Giáo phận Mainz, Đức Quốc.
– Nguyễn Sơn Hà, số 12 rue de la Lutte – 95170 Deuil de la Barre, Pháp quốc.
– Nguyễn Trung Kiên, số 269 Avenue Daumesnil – 75012 Paris, Pháp quốc.
http://thangtien.wordpress.com