Vào giữa thế kỷ 19, quân Pháp bắt đầu việc đánh chiếm Việt Nam bằng cách tạo áp lực buộc triều đình nhà Nguyễn phải nhượng bộ từng bước một: Mở cửa Ðà Nẵng xong, đem quân chiếm ba tỉnh miền Ðông Nam Phần; rồi chiếm nốt ba tỉnh miền Tây; mươi năm sau tấn công tới Bắc Hà; cuối cùng nuốt gọn cả nước bằng cách quyết định người nào sẽ lên làm vua phần nước Việt Nam còn lại! Chiến lược đó, tục ngữ ViệtNam gọi là “Ðược đằng chân lân đằng đầu!” Nắm được cái đầu là ông vua rồi, họ tiếp tục lấn từng bước một, đặt các đại diện của Pháp ở miền Bắc, miền Trung, từ từ xuống tới các tỉnh. Dần dần những người “đại diện ngoại giao” của Pháp lấn lướt các quan lại triều đình để cuối cùng cả guồng máy cai trị lọt vào tay người Pháp.
Quan sát hành vi của Trung Quốc lấn chiếm biên giới và hải phận Việt Nam, ta thấy Trung Quốc theo một chiến lược cao hơn người Pháp. Có thể gọi tên ngược lại, là “Ðược đằng đầu lấn đằng chân!” Nắm cái đầu tức là nắm những người cầm quyền ở nước Việt Nam. Nắm được cái đầu rồi thì sau đó mới lấn dưới chân, và lấn từng bước một, nhẹ nhàng sao cho nó không giẫy giụa! Mỗi lần lấn một bước dưới chân, đôi chân muốn cựa quậy nhưng cái đầu không cho cựa, đau đớn cũng không cho kêu, thì cuối cùng cả thân thể cũng đành chịu! Những cái chân không chạy được nữa, cái miệng của người dân không được nói nữa mà chính quyền muốn nói thì há miệng mắc quai; nắm được cái đầu trong tay, những vụ cướp đất, cướp biển chỉ là những chi tiết chiến thuật.
Nhiều nhà trí thức trong nước cũng nhìn thấy như vậy: Chiến thuật của Trung Quốc khi chiếm các vùng đất và vùng biển nước ta là lấn từng bước một, đặt mọi người trước những “sự đã rồi,” lâu ngày thành quen đi, cái gì cũng “thành bùn” được hết!
Trên đất liền, là những vụ “cắm cọc biên giới.” Nhà báo Huy Ðức mới lục đống báo cũ, nhắc lại rằng trong các báo Nhân Dân và Sài Gòn Giải Phóng, ngày 19 tháng 3, 1979, Bị Vong Lục của Bộ Ngoại Giao Việt Nam đã nói: “Phía Trung Quốc đã ủi nát mốc biên giới số 18 nằm cách cửa Nam Quan 100 mét để xóa vết tích đường biên giới lịch sử rồi đặt cột Km Zero sâu vào lãnh thổ Việt Nam trên 100m.” Cũng Bị Vong Lục năm 1979 viết: “Năm 1955, khi giúp Việt Nam khôi phục đoạn đường sắt từ biên giới tới Yên Viên, phía Trung Quốc đã đặt điểm nối ray (đường sắt) vào vào sâu trong lãnh thổ Việt Nam 300m so với đường biên giới lịch sử.” Bị Vong Lục 1979 cũng tố cáo, “toàn bộ thác Bản Giốc và cồn Pò Thoong là của Việt Nam, Trung Quốc chỉ mới đưa 2,000 người sang cưỡng chiếm từ ngày 29 tháng 2, 1976.”
Trên mặt biển, Trung Quốc đã toan đánh quần đảo Hoàng Sa năm 1958; nhưng khi Hải Quân Việt Nam Cộng Hòa đem tầu chiến ra chống cự thì họ rút lui. Cũng năm đó, chính phủ Bắc Kinh đưa ra một tuyên bố về vấn đề hải phận, thì lại được ông thủ tướng Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ở miền Bắc là Phạm Văn Ðồng gửi thư ủng hộ. Năm 1974, Trung Quốc đánh chiếm Hoàng Sa, bao chiến sĩ hải quân nước ta đã hy sinh trong lúc bảo vệ đất đai của tổ tiên. Chính quyền miền Bắc cũng không hề nói một lời nào để phản đối hành động xâm lăng đó! Lý do chỉ vì với lá thư của Phạm Văn Ðồng năm 1958 thì há miệng mắc quai. Năm 1988, Trung Quốc lại tấn công chiếm các đảo ở Trường Sa, nhưng người kế vị Lê Duẩn đành nuốt hận vì không được Nga Xô cứu giúp; mặc dù chính ông ta đã công nhận Nga là“tổ quốc thứ hai” của mình khi quay mặt chống Trung Quốc.
Gần đây, chiến thuật lấn từng bước lại diễn ra một cách hung tợn hơn. Ðánh đuổi các ngư dân Việt Nam không cho đánh cá; dân Việt không sợ thì tấn công, cướp tầu, cướp máy, đánh đập, bắt cóc, giam cầm, đòi tiền chuộc. Nhiều người Việt đã nhìn thấy chiến thuật lấn chân mới trong vụ Bình Minh 2 và Viking 2, là biến các vùng biển hoàn toàn thuộc Việt Nam thành một vùng xung đột. Sau khi đã biến một vùng không tranh chấp thành vùng có tranh chấp, gây nên tình trạng căng thẳng ngày càng cao hơn khiến thế giới lo ngại, thì lúc đó Trung Quốc sẽ yêu cầu thảo luận, và cuối cùng thì đề nghị “cắt đôi” phần biển của Việt Nam, chia mỗi bên một nửa!
Và tình trạng căng thẳng đang tăng lên thật. Trong tuần này, báo chí khắp thế giới loan tin Hải Quân Việt Nam tập trận bằng súng đạn thật, hỏa tiễn thật, và thông báo cho tầu thuyền các nước khác hãy tránh xa. Ðây là lần đầu tiên một cuộc tập trận trên biển được công bố, như để quảng cáo cho mọi người đều biết! Hà Nội lại nhắc nhở lại trên báo chí luật tổng động viên, làm cho không khí ngột ngạt hơn! Nhưng ngay sau đó, Trung Quốc đã thản nhiên gửi tầu Hải Tuần 31, một trong những chiến hạm tuần tiễu lớn nhất tiến vào vùng biển Ðông, nói đó là một hoạt động bình thường! Thế là cả thế giới theo dõi! Không phải chỉ có những nhật báo quốc tế như Le Monde, New York Times, Independent, Japan Times, hay các báo ở vùng Ðông Nam Á cho tới Ðại Hàn đăng tin này, mà cả những tờ báo ở Pakistan, ở Dubai cũng loan tin, rồi thuật tiếp những phản ứng của chính phủ Mỹ! Và Mark Toner, phát ngôn viên bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ đã chính thức than phiền rằng những biến cố gần đây gây thêm lo ngại đối với an ninh đường biển, và đã làm cho tình hình thêm căng thẳng!
Ðiều đáng ngạc nhiên là tại sao Ðảng Cộng Sản Việt Nam lại chọn cách bày tỏ thái độ như vậy?
Lâu nay, những người cầm quyền trong nước vẫn nói họ sẽ chỉ dùng các biện pháp ngoại giao cho các xung đột ở biển Ðông. Nhưng, sau khi các tầu Bình Minh và Viking liên tiếp bị tấn công một cách ngang ngược, đảng cộng sản lại không hề đưa ra một sáng kiến ngoại giao nào cả! Họ không hề xác định lại một cách chính thức với Bắc Kinh bằng cách phủ nhận lá thư của Thủ Tướng Phạm Văn Ðồng năm 1958 một cách minh bạch và công khai! Họ cũng không mời đại diện các nước Ðông Nam Á và Á Châu tới họp để tìm một chính sách chung đối với sự bành trướng của Trung Quốc!
Tình hình hiện nay đã chín mùi để tổ chức một hội nghị vùng bàn về vấn đề này. Tại hội nghị về an ninh vùng gần đây, một nhân viên an ninh Ấn Ðộ đã nhận xét: “Chúng tôi rất vui mừng trước các lời lẽ hòa hoãn của ông Lương Quang Liệt (Trung Quốc) nhưng cảm tưởng chung hiện nay là các cường quốc Á Châu là họ tiến đền gần nhau hơn chỉ vì thấy phải tìm cách đối phó với chính quyền Bắc Kinh. Một viên chức ngoại giao Nhật Bản cũng đồng ý. Nhật, Nam Hàn và Úc Châu đã đến gần nhau hơn, và đều liên kết với Mỹ. Một cố vấn của tổng thống Nam Hàn, ông Lee Chung-Min, đã nhận xét: “Trung Quốc đang đẩy chúng tôi tiến đến gần nhau hơn. Nước đó lớn quá khó ngăn họ được, nhưng hầu như chúng tôi đã thấy đến lúc phải hành động để ngăn bớt (sự bành trướng của) Trung Quốc.”
Việt Nam là nạn nhân trực tiếp do sự bành trướng của Trung Quốc gây ra. Ðáng lẽ Việt Nam phải đứng ra vận động việc liên minh giữa các quốc gia trong các miền Ðông và Nam Á Châu, về kinh tế, tài chánh và an ninh, để có tiếng nói và hành động chung trước sự bành trướng của Trung Quốc. Và đó là một hoạt cuộc tấn công ngoại giao, không thể coi là khiêu khích về quân sự hay xâm phạm chủ quyền của nước nào cả.
Nhưng đảng Cộng Sản Việt Nam đã không chọn những hành động ngoại giao kể trên, sau khi Trung Quốc leo thang với những vụ cắt dây cáp tầu dò đấy biển. Ngược lại, họ đã “biểu diễn” những màn quân sự, như công bố việc diễn tập hải quân bằng đạn thật, và khoe khoang thêm về luật tổng động viên.
Ai cũng biết rằng hai hành động trên không hề có ảnh hưởng nào trên tương quan lực lượng và không hề thay đổi ngôi vị tương đối giữa hai nước Việt Nam và Trung Quốc. Không một chiếc tầu nào của Trung Quốc bị sứt mẻ. Trong khi đó họ cũng không hề thấy phải nhận lỗi về những vụ leo thang trong ba tuần qua. Hầu như Bắc Kinh hoàn toàn làm ngơ trước những hành động mà người ngoài có thể coi là gây cho tình hình thêm căng thẳng.
Những người lãnh đạo ở Bắc Kinh có thể đã đọc được những ý nghĩ trong đầu giới lãnh đạo đảng Cộng Sản Việt Nam. Họ đã nắm chắc cái đầu đó rồi. Họ đã biết, hoặc đã được báo trước về những hành động sắp diễn ra trong tuần này. Họ hiểu rằng chính quyền cộng sản cần một số màn biểu diễn; bề ngoài như thể đang làm dữ, nhưng trên thực tế không gây ra một hiệu quả nào hết. Những hành động đó hoàn toàn không thay đổi cục diện ở biển Ðông, nhưng có thể cho người dân Việt nhìn thấy là bọn cầm quyền có làm, đang làm một cái gì đó! Mục đích duy nhất là làm nguội bớt không khí đấu tranh của người dân Việt Nam
Ðây là một sách lược đảng Cộng Sản đã theo từ hơn nửa thế kỷ nay. Họ không muốn dân chúng lên tiếng, không được tham dự, không được quyết định. Mọi vấn đề ngoại giao là độc quyền của đảng. Dân Việt Nam chỉ việc ký ngân phiếu trắng, “ký khống” cho các lãnh tụ đảng quyết định mọi chuyện! Từ mấy tuần qua, sách lược này vẫn được sử dụng. Như một ông hiệu trưởng ngăn không cho sinh viên biểu tình, với lý luận rằng việc ngoại giao khó khăn lắm, phải để yên cho nhà nước từ từ giải quyết! Một ông giáo sư bài nêu lên toàn những “quyết tâm” của người Việt Nam, mà không đưa ra một hành động cụ thể nào cả; nhưng ông ta không quên nêu lên một quyết tâm, là “hoàn toàn đoàn kết với đảng và nhà nước!”
Nhân dân đứng, Đảng quỳ
Babui
Nhưng nếu đảng và Nhà nước lại không đoàn kết với dân mà chỉ đoàn kết với người khác, với những đồng chí, anh em của họ thì sao? Như nhà báo Huy Ðức kể, trước cuộc ký kết về biên giới năm 1993, Hà Nội cử những phái đoàn tới quan sát vùng biên giới. Họ đi coi các nơi, rồi họp bàn với các đồng chí Trung Quốc. Nhưng đối với dân thì các phái đoàn này làm việc hoàn toàn trong vòng bí mật. Huy Ðức thuật: “Theo các chiến sĩ biên phòng, thay vì huy động sự góp sức của nhân dân, không hiểu vì lý do gì công việc này đã được tiến hành bí mật.” Một vị đồn trưởng Biên phòng ở Hà Giang nói: “Chúng tôi thuộc địa hình đến từng mili mét nhưng các đoàn khảo sát đã bí mật luôn cả với chúng tôi!” Ðây là một kinh nghiệm cay đắng khi cái đầu của một nước tự tách rời khỏi thân thể!
Khi một chính quyền hành động minh bạch, công khai trước mọi người dân, khi người dân được tự do hội họp, tự do phát biểu, tự do bỏ phiếu chọn những người nắm quyền, thì không ngoại bang nào có thể nắm cái đầu dân nước đó được! Ngược lại, thì bất cứ cường quốc nào cũng chỉ cần nắm lấy cái đầu một nước, rồi từ từ sẽ lấn chân giành đất, giành biển, quốc gia sẽ rơi vào vòng nô lệ khi nào không biết!
Ngô Nhân Dụng