Có một điều mà người Việt Nam, dù là quốc gia hay cộng sản, tiến bộ hay phản động, thường hay nói đến, đó là sự thông minh cuả dân tộc Việt Nam. Phải khách quan mà công nhận rằng, văn minh, văn hoá, kinh tế, chúng ta chưa hơn các nước trong vùng Đông Nam Á Châu như Thái Lan. Cho đến nay, nước ta vẩn chưa có được một nhà tư tưởng, một nhà khoa học thật lớn.
Niềm tự hào không có cơ sở trên đây dường như đã xuất hiện từ lâu lắm. Nó phản ảnh tự ti hơn là tự tôn, chủ yếu đối với Trung Quốc, vưà là mối đe dọa thường trực vừa là mẫu mực không thể vượt được trong mọi lĩnh vực sau hơn một ngàn năm Bắc thuộc. Tình hình đó dẩn đến sự buồn cười sau đây : Về mặt chính trị, nhân dân Việt Nam luôn kiên quyết bảo vệ chủ quyền dân tộc (Nam quốc sơn hà nam đế cư) thì về tư tưởng,học thuật, ngoài Nguyễn Huệ, Hồ Quý Ly, đều tỏ ra khá lệ thuộc đối với Trung quốc, bằng chứng hiển nhiên nhất là việc duy trì chữ Hán như là văn tự chính thức trong suốt hơn chín thế kỷ độc lập.
Trong chừng mực nào đó, suy nghĩ bằng chữ Hán, trí tuệ Việt Nam đã bị ràng buộc, cản trở trong sự phát triễn cuả nó. Kết quả là chỉ thấy người mình thông minh, tài giỏi chủ yếu trong giai thoại, những chuyện vui cười hoàn toàn hư cấu như các cuộc đi sứ sang Tàu hay tiếp sứ Trung Quốc. Mạc Đĩnh Chi đã làm các quan lại và cả vua Nguyên phải phục sát đất vì những câu đối vừa khéo vừa nhanh (nhưng chỉ là trò chơi chữ nghĩa). Những Trạng Quỳnh,Trạng Lợn đã đại náo Thiên triều bằng những thủ đoạn vặt vãnh, trẻ con. Dường như để chứng tỏ sự ưu việt về trí tuệ cuả mình, các tác giả dân gian vô danh cuả chúng ta tưởng tượng ra những cảnh trong đó triều đình Trung Quốc giống như một ngôi đình làng và vua Trung Quốc không oai gì hơn ông vua cải lương, và nhất là hạ thấp trí tuệ của người Tàu. Nhưng cần gì, miễn là các ông Trạng của chúng ta hơn người là được, và chúng ta hả hê trước mỗi thắng lợi giả tưởng vì đó là thắng lợi của mỗi chúng ta.
Những giai thoại về thi hào Cao Bá Quát phần nào cũng phản ảnh niềm tự hào đó. Nhưng dù mến phục Cao chu thần đến đâu đi nửa, ta cũng phãi công nhận rằng lời ca ngợi là quá cường điệu. Cho đến khi người Pháp chiếm sáu tỉnh Nam Kỳ, người mình vẫn còn cho các nước thuộc văn hoá Tàu là văn minh.
Chỉ khi mất nước rồi, đặc biệt là từ đầu thế kỷ hai mươi, một bộ phận cuả sĩ phu ta như các cụ PhanChuTrinh, Huỳnh Thúc Kháng .. mới bừng tĩnh vì thấy được là phương Tây không những hơn về khoa học, kỷ thuật, mà còn hơn cã về tư tưởng, học thuật nửa, nên chủ trương cấp tốc duy tân, mở mang dân trí.
Thế nhưng, sau khi thống nhất năm 1975, thì niềm tự hào cố hữu lại sống dậy mãnh liệt hơn bao giờ hết. Say sưa vì đã đánh bại siêu cường đế quốc số một cuả thế giới, nhất là đã sáng tạo được những luận điệu kinh tế, chính trị tuyệt vời « làm chủ tập thể, ba dòng thác cách mạng, tiến nhanh, tiến mạnh lên chủ nghiã xả hội vv.», các nhà lãnh đạo và các cơ quan truyền thông đại chúng của Việt Nam đã dùng khá nhiều cụm từ “Đỉnh cao trí tuệ” .
Người ta có cảm tưởng là sau năm 1975, thế giới đang bước vào kỷ nguyên Việt Nam, dân tộc ưu việt, tiên phong cuả cả loài nguời. Có một nhà lý luận mác xít cuả Việt Nam đã từng nói : “kiều dân Nhật còn làm tổng thống Pérou được “. Chẳng lẻ cái gène ViệtNam chết mất với người đã ra đi ? Nhiều lĩnh vực cho thấy chủ nghĩa anh hùng truyền thống và óc thông minh cuả Việt Nam sống mãnh liệt trong nhân gian và dân ta tài giỏi hơn kiều dân của Nhật.
Cách đây khá lâu,tiến sĩ (?) Phan Khải đã đi diển thuyết nhiều nơi về di truyền học, có thể tuyển chọn đươc những « gien » thi sĩ, võ sĩ , nhạc sĩ, toán học gia, vật lý học vv.. để cãi thiện giống nòi. Có người biết nhiều hiểu rộng, kể chuyện Nhật Bản cử người lấy Đặng Thái Sơn làm chồng để hứng lấy gien Việt Nam. Nghe mà sửng sốt, kinh sợ cho tài nhìn xa của Nhật.
Đến bao giờ chúng ta mới thấy được rằng sự phát triển không phụ thuộc vào những yếu tố nòi giống di truyền mà thôi nói về sự thông minh cuả dân tộc Việt Nam, bỏ được những tự hào vô căn cứ, và lối đại ngôn «Coi Trời bằng vung».
Đến khi thông qua giai đọan phát triển tư bản chủ nghĩa, tuy không tiến bộ được như Nhật, Nam Hàn, sản xuất xe hơi, tivi, máy vi tính, ViệtNam ta cũng phát triển được cộng nghệ làm nước mắm, tôm khô, bánh tráng và nhiều mặt hàng đông lạnh như mít xoài, thơm,chuối, mảng cầu, vú sửa v.v,mướp đắng phơi khô, trà xanh, trà nhàu,cơm cháy rang mà nhà sản xuất thu mua cơm thừa ở các nhà hàng về tẩy màu,trộn gia vị, sấy khô xuất cảng.
Nhưng đó là những sáng tạo nhỏ bé. Hàng xuất khẩu lớn nhất làm người Việt khắp năm châu hổ thẹn là «Gái Việt Nam». Thời giá xuất khẩu gái Việt ra nước ngoài khoãng 8000 đô Mỹ, qua trung gian bọn con buôn,trong đó có Nhà Nước CSVN,khi đến tay gia đình,chỉ còn vài trăm Đô. Nhưng các cô đành chấp nhận vì khi sang được nước ngoài, sẽ tìm cách làm việc để gởi tiền về giúp gia đình. Đó mới là nguồn lợi chính thức và lâu dài. Số tiền còn lại sẽ vào tay một mạng dịch vụ gồm có cả công an, xã, ấp, tiền hoa hồng, ma cô, giấy chứng nhận, khám sức khoẻ, học ngoại ngữ, tiền đám cưới và di chuyển v.v. Tại Đài Loan, báo chí đã thẳng thắn đã kích việc quảng cáo bán gái Việt như: “Cô dâu Việt còn trinh 20000 tiền ĐàiLoan, nếu không đúng sẽ hoàn lại tiền”!
Trên đây là những món hàng được đi chính thức, có hộ chiếu do các cơ quan công an cấp. Hiện tượng quá rõ ràng nhưng nhà cầm quyền vẫn tránh né hay vờ vịt không biết.
Nói đến đặc sản Việt Nam, người ta nghĩ gì, phải chăng là những điều dối trá,những món hàng phụ nữ rẽ tiền,xấu hổ nhất, độc đáo nhất,không lẩn lộn được với ai, không có bất cứ nước nào,dù nghèo nhất thế giới cũng không có như vô số mặt hàng « Ôm »,bia ôm, karaokê ôm, hớt tóc ôm, ngũ trưa ôm, đấm bốp ôm v.v. .
Ngược lại với sự tự hào cao ngạo cuả đảng cộng sản Việt Nam quang vinh bách chiến bách thắng, ta hãy nhìn lại những thành quả vĩ đại của Dubai, một tiểu vương quốc nhỏ xíu có diện tích 3750 km2 thuộc khối United Arab Emirates gồm bảy tiểu vương quốc nằm ở bờ biển phía Đông Nam cuả bán đảo Á Rập dọc theo vịnh Persian,với 420 ngàn dân có quốc tịch Dubai, một tấm gương phát triển quốc gia khi người lãnh đạo có tầm nhìn xa trông rộng như ông Sheikh Rashied bin Saced al Maktoum (1912-1990) đã hiểu rằng trữ lượng dầu hỏa ít oi sẽ cạn dần,không phải là một nguồn tài nguyên vô tận mà dốc tâm lực vào việc xây dựng một nền kinh tế khiến Dubai có thể đứng vững khi không còn dầu hoả.
Từ hơn thập niên nay, Dubai được biết đến qua những công trình kiến trúc cực kỳ tối tân, sang trọng nếu không nói là liều lĩnh, được xây cất phần lớn tại những khu mậu dịch tự do (free zones),nào là phi trường,hải cảng,những nhà chọc trời với những phòng ốc đầy đủ tiện nghi của thời đại văn minh kỹ thuật cao, những trung tâm mua sấm đồ sộ với đủ thứ mặt hàng xa xí phẩm và miễn thuế (free duty),những khu nghỉ mát sang trọng xây trên những dải đất bồi nhân tạo vươn ra ngoài biển,khi thì hình cây dừa tỏa lá, lúc là hình địa cầu đặc biệt về diện kỹ thuật như khách sạn Burj al Arab cao hơn tháp Eiffel cuả Pháp mang một biểu tượng cuả môt cánh bườm căng gió, toà Dynamic Tower vừa mới khai trương trị giá sơ sơ 30 triệu mỹ kim một căn (condo) khởi xây vào năm 1994 tốn 850 triệu mỷ kim theo National Geographic.
Trong phạm vi phần nầy,người viết chỉ muốn nhấn mạnh tới sự quan trọng cuả việc Dubai có một nhà lãnh đạo có tầm nhìn xa rộng, thay vì đem tiền tiêu phí vào chiến tranh, các cuộc tranh chấp võ ích, dùng lợi tức của dấu hoả mới tìm ra vào năm 1966, để vừa trả nợ trước đó cuả xứ Kuwait, để khởi sự một chương trình phát triển kinh tế đã biến Dubai từ một làng đánh cá, mò trai nghèo nàn thành một trung tâm tài chính và du lịch của Trung Dông, và tạo cho nhân dân nhiều phúc lợi, sống an cư lạc nghiệp, trang trọng và hạnh phúc.
Còn Việt Nam ta, sau khi chiếm được miền Nam, đã chiếm đoạt tài sản, đánh tư sản, cả tiểu tư sản — như một công nhân, nhờ cần cù lao động, mua được một chiếc xe, tự mình lái kiếm miếng ăn cũng thành tư sản luôn. Áp dụng chính sách đổi tiền,có tiền để ngân hàng ,muốn rút tiền ra phải có lý do, và các cơ sở kinh doanh phải làm kế hoạnh rút tiền trước hàng tháng. Dân muốn mua cây đinh cũng phải làm đơn. Công nhân viên chức phải xin xuống lương chết đói, khiến cho dân miền Nam không biết ngày mai sẽ ra sao, đành tìm đường vượt biển tìm tự do và sinh sống ở các nước đã nhận những người tỵ nạn và nhiệt tình giup đỡ.
Nguyễn Bá Thông