Đại Văn Hào Anh William Shakespeare (1564 – 1616)
Với Bi Kịch ROMÉO & JULIET
William Shakespeare (1564-1616) là nhà viết kịch và nhà thơ bậc nhất của nước Anh, đồng thời cũng là tác giả danh tiếng nhất trên Thế Giới. Không một nhà văn nào có các tác phẩm được nhiều người tại nhiều quốc gia tìm đọc hơn William Shakespeare bởi vì Đại Văn Hào Shakespeare đã hiểu rõ bản chất của con người, đã nhìn rõ các hoàn cảnh đặc biệt mà con người sinh hoạt, đã tạo ra các nhân vật trong các vở kịch mang nhiều ý nghĩa ra ngoài thời gian và không gian. Những nhân vật này đã tranh đấu giống như mọi người trong đời sống hàng ngày, đôi khi họ thành công, nhưng cũng có khi họ gặp thất bại cay đắng, bi thương.
William Shakespeare đã có một kiến thức rộng rãi về nhiều đề tài gồm cả Thánh Kinh, Luật Pháp, Chính Trị, Lịch Sử, Nghệ Thuật, Âm Nhạc, Thể Thao, Săn Bắn, Thủ Công… đó là sự hiểu biết của một học giả nhưng ông lại chỉ có kinh nghiệm về Sân Khấu. William Shakespeare đã viết ra 37 vở kịch, được chia thành ba loại là hài kịch, lịch sử và bi kịch với mọi loại nhân vật như vua chúa, tướng lãnh, các nhà triết học, các kẻ chăn cừu, các tay nghiện rượu, các kẻ móc túi… cho đến những tên giết mướn. Các vở kịch của William Shakepeare đã được phổ biến khắp nơi, gây nên ảnh hưởng lớn lao về Văn Hóa trên toàn Thế Giới. Nhiều từ và câu trong các vở kịch và bài thơ của William Shakespeare đã ở trong câu nói hàng ngày của nhiều dân tộc. Các tác phẩm của William Shakespeare đã giúp công vào việc hình thành Văn Chương của tất cả các quốc gia nói tiếng Anh và không nói tiếng Anh như hai nước Đức và Nga.
Các ý tưởng của William Shakespeare về các vấn đề như tình yêu lãng mạn, tính anh hùng hay bản chất của bi kịch đã tạo ảnh hưởng tới thái độ của hàng triệu người. Hơn nữa, các hình ảnh do William Shakespeare mô tả như Julius Caesar, Mark Anthony và Cleopatra đã gây ấn tượng đến chúng ta hơn các cuốn sách dạy về Lịch Sử.
Các vở kịch, các bài thơ của William Shakespeare đã được in thành sách, dịch sang các ngôn ngữ khác nhau và hàng ngàn học giả vẫn nghiên cứu các tác phẩm của William Shakespeare cũng như các nhà soạn nhạc đã dựa vào các câu chuyện và nhân vật của William Shakespeare để soạn ra các nhạc kịch danh tiếng. Ngày nay, đã có các bộ sách nghiên cứu đặc biệt, các thư viện đặc biệt với chuyên đề là William Shakespeare như Thư Viện Folger Shakespeare tại Thủ Đô Hoa Thịnh Đốn, Thư Viện và Viện Bảo Tàng Nghệ Thuật Henry E. Huntington tại San Marino, Calif., Viện Bảo Tàng Anh Quốc (the British Museum) tại thành phố London, Thư Viện Bodleian của Đại Học Oxford, nước Anh, đồng thời các nhà làm phim đã chuyển các vở kịch của William Shakespeare thành các bộ phim hấp dẫn trình chiếu khắp nơi trên Thế Giới.
1. Cuộc đời của William Shakespeare
Vào thời đại của Nữ Hoàng Elizabeth Đệ Nhất, người dân nước Anh chỉ quan tâm đến các sự việc liên quan tới nhà thờ và quốc gia. Các chi tiết về tiểu sử, nhất là tiểu sử của một nhà soạn kịch, lại càng không được chú ý, ngoài ra nghề viết kịch không phải là một nghề cao quý trong xã hội. Vì thế khi nghiên cứu về cuộc đời của William Shakespeare, các học giả đã phải dùng tới các lời ghi trong sổ khi làm lễ tại nhà thờ hay các bản biên chép những thương lượng tài chính. Do thiếu các tài liệu chính xác, nhiều người cùng tin rằng William Shakespeare sinh vào năm 1564, năm thứ 6 của triều đại Nữ Hoàng Elizabeth I và được rửa tội có lẽ vào ngày 26 tháng 4 tại Stratford-upon-Avon, trong khu vực Warwickshire nằm cách thành phố London 120 cây số về phía tây bắc.
William Shakespeare là người con thứ ba của ông John và bà Mary Arden Shakespeare. Hai người chị của William đã qua đời trước khi William sinh ra và các người em khác là Gilbert, Joan thứ hai, Anne, Richard và Edmund. Chỉ có em gái Joan thứ hai sống lâu hơn William.
Ông John Shakespeare, cha của William, vốn là một người thợ thuộc da và sản xuất găng tay rồi về sau nhờ có tiền bạc, đã giữ vài chức vụ địa phương như đại biểu khu vực, thị trưởng. Mẹ của William là bà Mary Arden, là con gái của một chủ trại giàu có hơn, theo đạo Thiên Chúa Catholic. Hai ông bà kết hôn vào năm 1557.
Stratford-upon-Avon là một thị xã thịnh vượng và tiến bộ, hãnh diện vì có một trường tiểu học gồm nhiều thầy giáo tốt nghiệp Đại Học Oxford. William bắt đầu đi học vào tuổi lên 7, có lẽ theo học trường tiểu học Stratford với các trẻ em cùng giai cấp. Trường tiểu học thời đó duy trì kỷ luật nghiêm minh, học sinh phải học 9 giờ một ngày và học về tiếng La Tinh, vì đây là ngôn ngữ cần thiết để bước vào các ngành như luật khoa, y khoa hay đi tu. Tiếng La Tinh còn là biểu hiệu của một người có giáo dục trong xã hội. Ngoài tiếng La Tinh, học sinh học Toán Pháp và đọc các tác phẩm của các tác giả La Mã Cổ như Cicero, Ovid, Seneca, Vigil… Lối học nhồi sọ này chắc chắn đã làm cho không khí học tập buồn nản và không có tài liệu cổ xưa nào cho biết có giáo sư nào khơi dậy bên trong tâm trí của William Shakespeare trí tưởng tượng hay sự hiểu biết về tâm lý học?
Vào cuối thế kỷ 16, thị xã Stratford có dân số vào khoảng 1,500 tới 2,000 người nhưng lại là nơi họp chợ quan trọng của cư dân các vùng chung quanh. Stratford có các con đường lộ rộng rãi, dọc theo đường lộ là các căn nhà ở, cửa hàng và quán ăn. Cuộc sống của người dân nơi thị xã này khá tấp nập nhờ các buổi họp chợ, nhờ các đoàn kịch đến trình diễn các vở hát như Robin Hood với nhóm dân du kích. Bên ngoài thị xã là các cánh đồng, các khu rừng nơi đây người dân đi săn, đặt bẫy các thú vật. Ngoài ra gần thị xã còn có giòng sông Avon, là nơi có nhiều người câu cá, thả lưới. William Shakespeare đã yêu mến thiên nhiên và đời sống nông thôn với chim muông, sâu bọ và các người dân quê hiền lành, nên về sau đã phản ánh những tình cảm này qua các bài thơ và các vở kịch.
Vào năm 1576, ông John Shakespeare đã gặp một tai nạn hay một sự việc bất lợi, khiến cho ông phải bán đi nhiều tài sản và William không thể theo học được nữa. Ông John đưa con trai nhỏ về nhà để phụ giúp cửa hàng. Một sự việc bất lợi khác xẩy ra khiến cho William phải cưới vợ vội vã vào tuổi 18, khi đó cô dâu Anna Hathaway 26 tuổi, là con gái của một chủ trại giàu có, sinh sống trong làng Shottery, cách Stratford vào khoảng một dặm đường. Họ đã có con gái đầu lòng tên là Susanna, được rửa tội vào ngày 26-5-1583 rồi tới đầu năm 1585, một cặp sinh đôi đã ra chào đời là Hamnet, con trai, sau này qua đời vào năm 1596 ở lứa tuổi 11, và Judith, con gái.
Trong khoảng thời gian từ năm 1585 tới năm 1592, đã không có chi tiết nào ghi về cuộc đời của William Shakespeare và các học giả gọi giai đoạn này là các năm bị thất lạc (the lost years). William Shakespeare đã làm gì trong thời gian này? Có thể ông ta đã dạy học tại một trường tiểu học, làm việc tại một văn phòng luật sư, phục vụ cho một nhà giàu về bất động sản hay đi nhiều nơi vì một công ty của các diễn viên? Một câu chuyện kể lại rằng William Shakespeare và vài người bạn đã bị bắt khi săn hươu bất hợp pháp trong vùng đất đai của Sir Thomas Lucy, gần Warwick, và vì thế bị bắt buộc phải đi khỏi thị xã Stratford. Một câu chuyện khác lại nói rằng William Shakespeare sống tại thành phố London vào năm 1588, làm nghề coi ngựa cho chủ rạp hát và cũng làm người hầu.
Từ năm 1592, William Shakespeare đã nổi danh trong giới kịch nghệ của thành phố London. Một nhà văn tên là Robert Greene đã viết một tài liệu mỏng với nhan đề Greene’s Groathworth of Wit, xuất bản vào năm kể trên, đã chỉ trích các chủ rạp hát, diễn viên và nhà văn như William Shakespeare, vì đã xử dụng bất hợp pháp tài năng của các nhà soạn kịch có trình độ đại học như ông ta chẳng hạn.
Trong khoảng thời gian từ 1594 tới 1608, William Shakespeare hoàn toàn dấn thân vào sinh hoạt kịch nghệ của thành phố London ngoài vai trò của một diễn viên và của người có cổ phần trong công ty kịch nghệ “The Lord Chamberlain’s Men”. Đây là đoàn hát danh tiếng thường hay trình diễn trong triều đình của Nữ Hoàng Elizabeth I. Các mẩu giấy ghi số tiền trả cho William Shakespeare vào giai đoạn này đã chứng nhận sự tham gia của ông ta. Trung bình mỗi năm William Shakespeare sáng tác được hai vở kịch và là nhà soạn kịch danh tiếng nhất của thành phố London. Trong cuốn sách có tên là “Palladio Tamia: Witt’s Treasury”, xuất bản vào năm 1598, nhà văn trẻ tuổi Francis Meres đã viết về William Shakespeare như sau:”Giống như Plautus và Seneca nổi danh về các hài kịch và bi kịch viết bằng tiếng La Tinh, Shakespeare là tác giả người Anh xuất sắc nhất về cả hai loại kịch kể trên dùng cho sân khấu”. Lời khen ngợi của Francis Meres đã xác nhận rằng vào cuối thập niên 1590, William Shakespeare đã là nhà văn hữu hạng dù cho vào thời gian này, ông chưa viết ra các vở bi kịch danh tiếng như Hamlet, Othello, Vua Lear và Macbeth.
Từ năm 1592 tới năm 1594, bệnh dịch đã khiến cho các rạp hát tại thành phố London phải đóng cửa. Nhu cầu về các vở kịch giảm đi. Vào lúc này, William Shakespeare quay sang làm thơ bởi vì thơ phú được coi trọng hơn việc soạn kịch. Năm 1593, tập thơ dài của William Shakespeare với tên là “Venus và Adonis” được in ra bởi Richard Field, một người quen tại thị xã Stratford khi trước. Shakespeare đã đề tặng tập thơ này cho Henry Wriothesley, Hầu Tước miền Southampton vì ông tin rằng do việc đề tặng này, ông sẽ nhận được sự yểm trợ của vị Hầu Tước trẻ. Tập thơ “Venus và Adonis” đã sớm thành công. Sau đó Richard Field còn in vào năm 1594 tập thơ dài thứ hai của William Shakespeare có tên là “Cuộc Hiếp Dâm Nàng Lucrece” (the Rape of Lucrece). Shakespeare cũng đề tặng tập thơ này cho Hầu Tước Southampton, có lẽ vì phần thưởng tài chính mà nhà thơ đã nhận được do tập thơ trước. Trong cuộc đời của William Shakespeare, cả hai tập thơ này đã được in lại nhiều lần, nhưng đã không làm cho Shakespeare sao lãng việc sáng tác ra các vở kịch và William Shakespeare quả thực là nhà văn của Thời Đại Elizabeth I theo đuổi sân khấu như một nghề nghiệp.
Vào cuối thập niên 1590, không những là một nhà văn danh tiếng, William Shakespeare là một nhà kinh doanh giàu có nhờ các cổ phần khai thác bằng các đoàn kịch. Năm 1597, William Shakespeare đã mua được tòa nhà New Place, một trong hai kiến trúc lớn nhất của thị xã Stratford. Năm 1599, Shakespeare cùng với 6 người hùn cổ phần, đã mua lại Rạp Hát “Hoàn Cầu” (The Globe) xây dựng do ông James Burbage vào năm 1576 tại ngoại ô của thành phố London. Đây là rạp hát mới, loại ngoài trời, rất rộng lớn, có thể chứa tới 3,000 khán giả. Cũng vào năm 1599, một thợ in tên là William Jaggard đã xuất bản một tập thơ với tên là “The Passionate Pilgrim” (Kẻ Hành Hương nóng nẩy) gồm 20 bài thơ trong số này chỉ có hai bài thơ loại Sonnet và ba bài khác của Shakespeare, trích từ hài kịch “Love’s Labour ‘s Lost”, có lẽ nhà in đã dùng danh tiếng của William Shakespeare để mong sách được bán chạy và điều này đã chứng tỏ William Shakespeare là nhà văn được nhiều người biết đến.
Năm 1603, Nữ Hoàng Elizabeth I qua đời. Nối ngôi là một người trong họ của Nữ Hoàng, là Vua James VI của xứ Tô Cách Lan (Scotland). Khi lên làm vua nước Anh, James VI trở thành James I và nhà vua này rất ưa thích sân khấu nên đã trợ giúp các đoàn kịch. Vua James I cũng cho phép đoàn kịch của Shakespeare được trình diễn trong triều đình vì vậy đoàn kịch này trở thành “The King’s Men” hay “Đoàn Kịch của Nhà Vua”, một loại người giúp vui chuyên nghiệp cho Triều Đình Anh. “The King’s Men” đã thực hiện được nhiều thành công và là đoàn kịch dẫn đầu của thành phố London. Năm 1608, đoàn kịch này đã thuê Rạp Hát Blackfriars trong 21 năm. Đây là một sân khấu tọa lạc tại một khu vực rất đông dân của thành phố London. Rạp Hát Blackfriars có ánh sáng nhân tạo, có lẽ có hệ thống sưởi ấm và là nơi trình diễn vào mùa đông, còn về mùa hè, đoàn kịch “The King’s Men” dùng Rạp Hát “Hoàn Cầu” (The Globe).
Trong các năm từ 1599 tới 1608, William Shakespeare đã hoạt động tích cực, đã viết ra nhiều hài kịch và hầu như tất cả bi kịch, do đó danh tiếng của ông đã vang lừng. Năm 1609, một nhà xuất bản tại thành phố London tên là Thomas Thorpe đã cho ra đời một cuốn sách có nhan đề “Các bài thơ Sonnet của Shakespeare”. Cuốn này gồm hơn 150 bài thơ loại 14 câu mà Shakespeare đã làm trong nhiều năm. Vào 8 năm cuối đời, William Shakespeare đã viết 4 vở kịch là Cymbeline, Henry VIII, “Bão Tố” (the Tempest) và “Câu chuyện của Mùa Đông” (the Winter ‘s Tale). Có học giả cho rằng “Bão Tố” viết xong vào khoảng năm 1610, là vở kịch cuối cùng của William Shakespeare, vào lúc mà ông hoàn toàn rút về cư ngụ tại căn nhà tiện nghi “New Place” thuộc thị xã Stratford. Tuy nhiên vở kịch Henry VIII có thể được soạn xong vào năm 1613. Ngoài ra vào năm này, William Shakespeare còn mua một căn nhà trong khu Blackfriars thuộc thành phố London. Có thể ông đã dành thời giờ cho đời sống riêng tư tại Stratford và đời sống công cộng tại thành phố London.
Vào ngày 10 tháng 2 năm 1616, người con gái nhỏ của William Shakespeare tên là Judith, lập gia đình với Thomas Quiney, con trai của một người hàng xóm. 6 tuần lễ sau đó, Shakespeare viết di chúc rồi trong vòng một tháng, ông qua đời và được chôn tại nghĩa trang của nhà thờ Stratford. 7 năm về sau, tức là vào năm 1623, các tác phẩm lừng danh của Đại Văn Hào William Shakespeare bắt đầu được in thành sách và được phổ biến.
2. Bối cảnh xã hội của thời Shakespeare
Các tác phẩm của William Shakespeare đã phản ảnh các hoàn cảnh văn hóa, xã hội và chính trị của thời đại Elizabeth I. Càng hiểu rõ các hoàn cảnh này càng làm gia tăng mức độ thấu hiểu các vở kịch và bài thơ của Shakespeare. Vào cuối thế kỷ 16 tại nước Anh, phần lớn dân chúng vẫn còn tin tưởng vào các hồn ma, các mụ phù thủy và các nhà quỷ thuật (magicians). Không có tài liệu nào chứng tỏ Shakespeare có các niềm tin như thế nhưng Đại Văn Hào Shakespeare đã dùng các dị đoan trong các tác phẩm của ông một cách hữu hiệu như hồn ma đóng vai trò quan trọng trong các vở kịch Hamlet, Julius Caesar, Macbeth và Richard III, các mụ phù thủy là những nhân vật chính trong vở kịch Macbeth, và Prospero là một nhà quỷ thuật trong vở kịch “Bão Tố” (The Tempest).
Vào thập niên 1580, thành phố London với dân số vào khoảng 150,000 người, đã trở nên một nơi thị tứ sầm uất của châu Âu. Trên giòng sông Thames đã có hàng ngàn con tầu buôn với 3 cột buồn lớn xuôi ngược và đôi khi Con Phà Hoàng Gia (the Royal Barge) rực rỡ cũng xuất hiện trên giòng sông này. Cây Cầu London (the London Bridge) cũng là nơi danh tiếng với trên đầu cầu về phía nam có Tháp London (the Tower of London), nơi hay trưng bày các đầu lâu của những kẻ bị xử tội phản bội và đây là dấu tích của cảnh bạo lực thuộc Thời Đại Nữ Hoàng Elizabeth I. London có hơn 100 nhà thờ mà danh tiếng nhất là ngôi giáo đường St. Paul cổ kính. Ngoài ra về phía tây, còn có Inns of Court là một trường đại học đào tạo các luật sư, còn có Lâu Đài Hoàng Gia Whitehall (the Whitehall Royal Palace) và Cung Điện Westminster.
Tới cuối thập niên 1580, Nữ Hoàng Elizabeth I đang ở trên đỉnh cao danh vọng. Cuộc âm mưu của người Tây Ban Nha tìm cách ám sát Nữ Hoàng đã gặp thất bại và Nữ Hoàng Mary of Scots đã bị hành quyết vào năm 1587. Hạm Đội Armada hùng hậu của Tây Ban Nha đã bị tan tác vào năm 1588. Cảnh thịnh vượng, sang trọng của triều đình Anh là dấu hiệu về quyền lực của Triều Đại Elizabeth I.
Trong Thời Đại Elizabeth I, Văn Chương đã phát triển. Triều Đình Anh đã trợ cấp cho các nhà văn, nhà thơ khi viết ra các tác phẩm. Một số nhà văn quý tộc như Sir Walter Raleigh, Sir Philip Sidney… cũng sáng tác ra các áng văn thơ phản ánh vẻ rực rỡ của triều đại, đồng thời các nhà thơ có nguồn gốc bình dân cũng được bảo trợ như Christopher Marlowe, Edmund Spencer và Michael Drayton. Trong hoàn cảnh kinh tế, xã hội này, ngành Kịch Nghệ đã phát triển và bắt nguồn từ hai chiều hướng. Chiều hướng thứ nhất hoàn toàn thế tục, bình dân, kể lại các truyền thuyết cổ, các câu chuyện trong Thánh Kinh, các mẩu chuyện Lịch Sử cổ kim, còn loại thứ hai do các sinh viên của Trường Inns of Court, họ là các cựu sinh viên của Viện Đại Học Oxford hay Cambridge, đã từng hiểu biết Lịch Sử và Kịch Nghệ của các Thời Đại Hy Lạp, La Mã. Sự phối hợp nền văn học cổ điển với loại sân khấu bình dân hiện đại đã cho ra đời vào năm 1587 các vở kịch xuất sắc như “Tamburlaine” của Christopher Marlowe, hay “Bi Kịch Tây Ban Nha” (the Spanish Tragedy) của Thomas Kyd…
Về môi trường sống, thành phố London vào năm 1600 có độ 200,000 dân. Theo các tiêu chuẩn hiện nay thì thành phố này rất đông người và thiếu vệ sinh, sự việc này đã dẫn tới các bệnh dịch, gây tử vong cho hàng ngàn người. Phần lớn nhà ở của dân chúng đều chật hẹp, các căn phòng tối tăm, ẩm thấp. Thành phố London vào thời kỳ này quá đông dân cư bởi vì nơi đây là trung tâm thương mại và ngân hàng của nước Anh và cũng là một trong vài trung tâm mậu dịch chính của Thế Giới. Vì là thủ đô của nước Anh, London đã thu hút đủ mọi loại người tới đây tìm các cơ hội thăng tiến: các quan chức, thầy giáo, nghệ sĩ, nhạc sĩ, sinh viên… và các nhà văn. Việc dấn thân sâu xa vào đời sống của thành phố London của William Shakespeare đã khiến ông hiểu biết rất rộng rãi, nhờ đó ông đã tạo ra được nhiều nhân vật đa dạng trong các vở kịch.
Vào cuối thế kỷ 16, khi Shakespeare bắt đầu viết các kịch bản, người dân nước Anh mang vẻ lạc quan. Năm 1588, nước Anh vừa chiến thắng Hạm Đội hùng hậu Armada của Tây Ban Nha, tinh thần ái quốc của người dân Anh lên cao. Qua đầu thế kỷ 17, khi Nữ Hoàng Elizabeth I qua đời vào năm 1603, tại nước Anh đã xuất hiện nhiều vấn đề kinh tế và xã hội, các cuộc chiến nhỏ với vài nước khác đang diễn ra, các bệnh dịch lan tràn, giết hại hàng trăm người. Đời người trở nên bị đe dọa, ngắn ngủi. Các vụ xáo trộn chính trị đã gây nên nhiều pháp trường với cảnh chặt đầu các kẻ phản bội, cảnh treo cổ các phạm nhân nơi công cộng. Vì thế các kịch bản của William Shakepeare cũng phản ảnh sự thay đổi, từ lạc quan sang bi quan. Các hài kịch không còn thấy xuất hiện mà thay vào là các bi kịch như vở “Measure for Measure” (Mạt cưa, mướp đắng) hay vở “All’s Well that Ends Well” (Cây lành cho quả ngon). Bi kịch “Vua Lear” đã là một tiếng kêu trong thất vọng.
Nền văn chương của Thời Đại Elizabeth I phản ảnh các cảnh bạo lực (violence) hay cảnh chết chóc nên đồng thời, các bi kịch của Shakespeare cũng hàm chứa các cảnh tự sát hay giết người của các nhân vật chính trong kịch. Nhưng, dù cho mang đặc tính tàn bạo, người dân của thời đại này vẫn nhậy cảm đối với vẻ đẹp và thơ mộng. Văn Chương đã mang nhiều hình thức, kể cả kịch thơ (poetic drama), chuyện giả tưởng và các bài tham luận (essays). Người dân nước Anh vẫn yêu thích Âm Nhạc với các nhạc sĩ tài danh của nước Anh đứng ngang hàng với các nhạc sĩ của châu Âu. Âm Nhạc dùng nhạc cụ, các bài hát và các bài nhẩy múa là ba yếu tố quan trọng trong các vở kịch của Thời Đại Elizabeth I.
Cho tới năm 1576, các diễn viên kịch nghệ chưa có các rạp hát cố định, họ trình diễn trong các ngôi nhà lớn của thành phố. Do Nữ Hoàng ưa thích các vở kịch từ đầu thập niên 1570 nên các diễn viên được nâng đỡ và các rạp hát bắt đầu được xây dựng. James Burbage vốn là một thợ mộc, đã trở thành một diễn viên và mở ra rạp hát “The Theatre” vào năm 1576 tọa lạc tại vùng đông bắc của thành phố London. Con trai của ông James Burbage tên là Richard Burbage, là một diễn viên hữu hạng và cũng là bạn của William Shakespeare. Một rạp hát thứ hai tên là “The Curtain” được xây dựng vào năm 1577. Tại bờ phía nam của giòng sông Thames, vào năm 1587 Philip Henslowe đã dựng nên rạp hát thứ ba tên là “The Rose Theater” (Rạp Hát Hoa Hồng) rồi rạp hát thứ tư “The Swan Theater” (Rạp Hát Con Thiên Nga) mở cửa vào năm 1596. Cho tới năm 1596, William Shakespeare đã cư ngụ tại Bishopgate, gần các rạp hát và đã theo một trong các công ty kịch nghệ từ trước năm 1594. Các công ty này sinh lời nhờ tiền bán vé.
Các rạp hát ban đầu là các tòa nhà bằng gỗ, hình tròn, ở giữa là một sân rộng và khán giả (gọi là groundlings) đứng tại sân coi hát. Nếu chịu mua vé đắt tiền hơn, khán giả có thể ngồi trên ba khán đài (galleries) có mái che nắng và che mưa. Vào thời kỳ đó, khán giả là loại người bình dân, thường uống rượu, nói năng ồn ào và có cử chỉ thô tục khi coi hát. Người viết kịch có tài thỉnh thoảng phải xen vào các pha khôi hài để làm cho khán giả vui thích. Các buổi trình diễn thường được tổ chức vào ban ngày, khi thời tiết tốt và để báo cho dân chúng quanh vùng biết có đoàn hát tới trình diễn, một lá cờ được kéo lên trên đỉnh tháp của rạp hát.
Trên sân khấu của rạp hát vào thời đó, không có màn, không có phông cảnh, trên mái có vẽ các ngôi sao tượng trưng cho bầu trời và từ phần lầu của rạp hát (gọi là heavens) có thể hạ xuống sân khấu một thiên thần ngồi trên một cái ghế buộc bằng các sợi dây thừng. Rạp hát cũng có phần dưới sân khấu (gọi tên là hell) nhờ đó một diễn viên có thể xuất hiện hay biến đi khi vở kịch đòi hỏi. Mặc dù thiếu cảnh trí, sân khấu thời đó cũng dùng tới các dụng cụ phụ như bàn, ghế, ngai vàng, gươm súng, cờ xí, lều… Cũng có kèn, trống và các nhạc cụ khác. Tiếng sấm được tượng trưng bằng tiếng động do lăn mạnh các trái cầu bằng sắt. Có khi một khẩu đại bác bắn ra mà không có đạn, gây nên tiếng nổ lớn nhưng cũng dễ gây ra hỏa hoạn. Khi một vở kịch được trình diễn, một chậu cây tượng trưng cho một khu rừng và đôi khi có một người cầm một tấm bảng viết hàng chữ như “tại một khu rừng gần thành phố Athens”, hay một diễn viên bước ra sân khấu và nói lớn “nơi đây là khu rừng Arden”.
Y phục của các diễn viên thời đó cũng khá lịch sự. Theo tục lệ, các nhà quý tộc khi qua đời, thường để lại các y phục cho kẻ hầu trung thành và những người hầu này đã bán loại quần áo đó cho đoàn hát. Vào thời đại Nữ Hoàng Elizabeth I, các vở kịch thường hay trình bày cảnh giết người nên diễn viên đeo sẵn một bọc máu heo bên trong áo ngoài nhờ đó khi nạn nhân bị đâm, mới có cảnh đổ máu trông giống như thực.
Cũng vào thời đại Nữ Hoàng Elizabeth I, Thanh Giáo (the Puritans) là nhóm tôn giáo có thế lực mạnh nhất. Họ rất nghiêm khắc về vấn đề đạo đức và cho rằng các vở kịch chỉ trình bày các cảnh tội lỗi, không thánh thiện, các rạp hát là nơi tụ họp của đám đông thiếu kỷ luật và các tội phạm. Cũng do ảnh hưởng của nhóm Thanh Giáo, các rạp hát chỉ được xây dựng bên ngoài biên giới của thành phố London và họ muốn chấm dứt hoạt động của các đoàn kịch nhưng Nữ Hoàng Elizabeth I và một số quan đại thần lại ưa thích kịch nghệ và đã bảo vệ các diễn viên. Do một đoàn kịch được một nhà quý tộc bảo trợ nên họ có tên là “The Admiral ‘s Men” (Các người của Ngài Đô Đốc) hay “Lord Chaimberlain ‘s Men” (Các người của Hầu Tước Chaimberlain), và đôi khi chính Nữ Hoàng cũng có các diễn viên riêng, được gọi là “The Queen ‘s Men” (Các người của Nữ Hoàng). Tên của người bảo trợ từ đó đi theo đoàn kịch khi họ trình diễn tại các rạp hát hay khi họ đi lưu diễn tại các tỉnh. Mỗi đoàn kịch thường gồm 12 người đàn ông vừa là diễn viên, vừa chung cổ phần với nhau trong nhiều năm và cũng có các trẻ em học nghề, các người phụ việc. Thời đó, phụ nữ không được làm diễn viên và vai đàn bà do các em trai đóng nhờ giọng nói thanh và không có râu. Đoàn hát cũng mướn các nhạc công và các vở kịch với cốt truyện hất dẫn, với các bài thơ hay, được viết ra do những người có học, hay nhóm nhân tài, được gọi tên là “The University Wits” (các bậc trí thức đại học). Nhà viết kịch danh tiếng nhất thời bấy giờ là Christopher Marlowe.
3. Một số vở kịch của William Shakespeare
Phần lớn các học giả đồng ý rằng có 37 vở kịch do William Shakespeare viết ra. Bởi vì vào thời đại của Nữ Hoàng Elizabeth I, đã không có hồ sơ nào ghi rõ năm tháng trình diễn của các vở kịch và đã không có các báo chí nói về buổi ra mắt các vở kịch mới. Các kịch bản của William Shakespeare cũng được in thành sách nhưng ngày xuất bản không hẳn là ngày đầu tiên vở kịch được trình diễn trên sân khấu.
Để xếp lại thứ tự các vở kịch, các học giả phải căn cứ vào các chứng cớ lịch sử và văn học, gồm cả các giấy tờ ghi chép ngày trình diễn, các lời ghi chú nói về nhiều vở kịch của các nhà văn cùng thời và căn cứ cả vào lối hành văn của tác giả. Các vở kịch của William Shakespeare được chia thành ba loại: hài kịch, lịch sử và bi kịch, mỗi loại ra đời tùy theo thị hiếu của khán giả. Cốt truyện của các vở kịch được căn cứ vào các tác phẩm lịch sử và văn chương đã được phổ biến, nhưng nhờ thiên tài, William Shakespeare đã làm biến đổi các tài liệu gốc đi mượn, thành các tác phẩm đặc biệt khác lạ và hấp dẫn hơn.
Thời gian sáng tác ra các vở kịch của William Shakespeare được chia thành 4 giai đoạn: (1) các năm cho tới 1594, (2) các năm từ 1594 tới 1600, (3) các năm từ 1600 tới 1608 và (4) giai đoạn cuối cùng là thời gian sau năm 1608. Giai đoạn sáng tác thứ nhất của William Shakespeare là thời kỳ học nghề, vào tuổi từ 26 tới 30. Shakespeare đã dựa theo các hài kịch và bi kịch La Mã, đặc biệt là loại bi kịch của Seneca (Senecan tragedy) hay “bi kịch có máu” (tragedy of blood), đã bắt chước văn phong của các nhà viết kịch thời trước và đương thời, và có thể tác giả cũng cộng tác với Christopher Marlowe. Các vở kịch của giai đoạn này nhấn mạnh tới các biến cố (events) hơn là diễn tả hình ảnh và nội tâm của các nhân vật.
Giai đoạn sáng tác thứ hai của William Shakespeare nổi danh vì các vở kịch như “Roméo và Juliet”, “Người lái buôn thành Venice” (the Merchant of Venice), và “Vua Henry IV”, với vở hài kịch xuất sắc tên là “Giấc Mộng Đêm Hè” (A Midsummer Night ‘s Dream). Văn phong của William Shakespeare trưởng thành, hàm chứa sức mạnh và chứng tỏ thiên tài của tác giả do các vở kịch vui tươi, châm biếm các mối tình lãng mạn, với nhiều bài thơ mô tả xúc tích.
Vở kịch “Hamlet” viết vào khoảng năm 1601, mở đầu cho giai đoạn thứ ba. Trong 8 năm, William Shakespeare đã thăm dò các điều ác, và thế giới của kinh hãi được trình bày bằng các bi kịch lớn vì tác giả đã bi quan trước các tư tưởng tuyệt vọng của con người, trước các hoàn cảnh đau thương của xã hội. Trong giai đoạn thứ tư và cũng là giai đoạn cuối cùng, William Shakespeare dùng tới một thể văn mới, đó là bi hài kịch (the tragicomedy) hay tình yêu lãng mạn bi thương (dramatic romance). “Bão Tố” (The Tempest) có lẽ là vở kịch hay nhất của thời kỳ này, đã kết hợp cả sức mạnh và sự khôn ngoan.
Các tình tiết, cốt truyện và tâm lý các nhân vật trong các vở kịch chứng tỏ William Shakespeare là một người uyên bác, hiểu rõ về con người, biết phối hợp kỹ thuật kịch với khả năng thơ phú, tất cả đã khiến cho ông trở nên nhà viết kịch bậc nhất (the greatest of playwrights). Nghệ thuật của William Shakespeare thì hiện thực (realistic), tức là hàm chứa sự thực của đời người và đây là sự thực mang tính vĩnh cửu (eternally true). Các nhân vật trong các vở kịch vừa sống động, vừa có tính ba chiều, họ có thể là tốt, là xấu, cao cả hay tầm thường, và gồm đủ mọi hạng người: các vua chúa, quan lớn, nhân viên hàng giáo phẩm, các kẻ gian tà, mơ mộng, điên khùng, các kẻ hoạt động… nam cũng như nữ, quê cũng như tỉnh… Cách mô tả các anh hùng của Shakespeare thực là tuyệt vời, và ngay cả các nhân vật phụ cũng thế, chẳng hạn như 20 phụ nữ trẻ trong các vở kịch đã được tạo dựng nên với tuổi tác gần bằng nhau, gần có cùng quá trình xã hội, gần có cùng lối sống bên ngoài, nhưng 20 phụ nữ này lại khác hẳn nhau trong đời thực. Các vở kịch của William Shakespeare đã làm cho khán giả coi kịch bị xúc động mạnh, đã gây ảnh hưởng sâu xa tới độc giả khiến họ phải đọc lại các kịch bản nhiều lần, thí dụ như vở kịch “Vua Lear” được coi là bi kịch bậc nhất của Shakespeare.
Cuộc đời của William Shakespeare đã không có các biến cố đáng kể. Shakespeare là một con người chăm chỉ, điều độ, thuộc giai cấp trung lưu, biết chăm lo gia đình và chịu khó kinh doanh. Nhiều người đã tin rằng một người với cuộc đời bình thường như vậy, với thời gian đi học ngắn ngủi như vậy, không thể viết ra được các vở kịch xuất sắc, không thể có được chiều sâu tư tưởng, làm sao biết được ngôn từ và các tư cách của giai cấp thượng lưu, không thể biết được các môn thể thao, săn bắn của giới quý tộc… Vì thế kể từ các năm 1800, đã có một số người không chịu tin tưởng rằng “người diễn viên của thị xã Stratford” là tác giả thực sự của các vở kịch lừng danh. Những người không chịu tin này được gọi là “anti-Stratfordians” và họ đã đề nghị vài nhà văn khác của thời đại Nữ Hoàng Elizabeth I, là tác giả đích thực, bởi vì các tác phẩm kịch lừng danh phải do một người học cao, uyên bác, thuộc giai tầng thượng lưu.
Trong nhiều năm và cho tới ngày nay, nhân vật được đề nghị là Sir Francis Bacon. Đã có rất nhiều sách vở viết về đề tài tranh luận này. Sau Sir Bacon là Edward de Vere hay Hầu Tước Oxford thứ 7, được cho là tác giả không chịu đứng tên. Ngoài ra còn có các nhân vật được đề nghị khác như Roger Manners, Hầu Tước Rutland thứ 5, William Stanley hay Hầu Tước Derby thứ 6 và ngay cả Sir Walter Raleigh. Và cũng lại có người cho rằng tác giả chính là Christopher Marlowe. Nhưng, biện luận rằng một “con người bình thường của thị xã Stratford” không thể trở nên một “đại văn hào” tức là đã quên đi các điều bí ẩn của một thiên tài! Kiến thức của một thiên tài không phải là thứ học được nơi trường học. Thiên tài học ít, hiểu nhiều, là người biết áp dụng trí tưởng tượng thiên phú, cách nhạy cảm về nghệ thuật, sự hiểu biết sâu rộng về con người vào các sáng tạo và đã từng có một số nhà văn danh tiếng mà học vấn còn thấp hơn William Shakespeare. Hơn nữa, có vài người quen biết William Shakespeare như Francis Meres vào năm 1598 và Ben Jonson vào năm 1623, đã vài lần xác nhận William Shakespeare là một nhà văn có tài trong số các nhà văn thường hay tụ họp tại quán rượu Mermaid (the Mermaid Tavern) và William Shakespeare đã được nhiều người khác nể trọng vì tài năng, yêu mến vì lòng tử tế.
4. Bi kịch “Roméo và Juliet”
a) Các nhân vật trong vở kịch: Hầu Tước và bà Montague, Hầu Tước và bà Capulet thuộc hai gia đình quý tộc, sống tại thành phố Verona, nước Ý, họ căm thù nhau qua nhiều thế hệ. Roméo: con trai của gia đình Montague, Juliet: con gái của gia đình Capulet. Bà vú của Juliet: một người thực tế, ưa thích vui đùa, đã nuôi dưỡng Juliet. Tybalt: người họ hàng nóng nẩy của Juliet. Mercutio và Benvolio: các bạn của Roméo và cũng là kẻ thù của gia đình Capulet. Escalus: Hoàng Tử cai trị thành phố Verona. Cha Lawrence: một nhà tu và là cố vấn tôn giáo của Juliet. Bá Tước Paris: người theo đuổi Juliet. Các công dân thành phố, các người chứng kiến…
b) Cốt truyện của bi kịch. Ngày xưa, tại một thành phố nóng nực của nước Ý tên là Verona, người dân đã đối xử tồi tệ với nhau và họ còn khuyên nhắc vợ con, bạn bè phải thù ghét lẫn nhau, và các mối thù được truyền đi từ thế hệ này qua thế hệ khác. Cũng tại thành phố Verona có hai gia đình Montague và Capulet căm thù nhau: các người già cãi nhau om sòm ngoài đường phố, làm mất nhân cách còn các người trẻ đánh nhau nơi công cộng khiến cho có kẻ mất mạng. Sự ngu xuẩn của hai gia đình này làm cho Hoàng Tử của thành phố tức giận, ông ta đã ra một đạo luật ngăn cấm việc gây lộn ngoài đường phố và kẻ phạm pháp sẽ bị xử tử hình. Hai gia đình Montague và Capulet đành phải phục tùng luật lệ nhưng thực ra, mối thù vẫn còn bên trong lòng của họ.
Khi thấy con trai Roméo không dính dáng vào các vụ tranh chấp, Hầu Tước và bà Montague rất vui mừng nhưng họ không hiểu tại sao con trai quý của họ không được vui tươi. Họ hỏi thăm Benvolio, người trong họ và cũng là bạn của Roméo thì sau đó, Benvolio mới khám phá ra rằng Roméo đang yêu. Và người yêu của Roméo là Rosaline, một cô gái rực rỡ, lại chẳng đáp lại mối tình này. Để làm cho Roméo vui lên, Benvolio đề nghị cả hai người nên cải trang, bí mật tham dự buổi dạ hội của gia đình Capulet. Rosaline cũng sẽ tới đó và Benvolio hứa rằng sẽ tìm cho Roméo một cô gái đẹp, xuất sắc hơn Rosaline. Nghe đề nghị này, Roméo linh cảm thấy một sự nguy hiểm nhưng rồi cũng đồng ý ra đi, cùng với Benvolio và Mercutio, một người bạn khôn khéo.
Tối hôm đó, gia đình Capulet tổ chức dạ hội lớn vì Bá Tước Paris sẽ tới hỏi Hầu Tước Capulet xem có thể xin kết hôn với Juliet, cô con gái duy nhất hay không. Bá Tước Paris là một người có họ hàng với Hoàng Tử Escalus và là nhân vật độc thân sáng giá nhất của Thành Verona. Gia đình Capulet nói rằng Juliet mới 13 tuổi, chưa từng biết yêu và còn quá nhỏ, chưa tới tuổi lấy chồng. Dù sao, Hầu Tước Capulet cũng xúc động và bảo con gái phải làm vui lòng Bá Tước Paris khi gặp nhau lúc khiêu vũ.
Vào đêm dạ hội đó, Juliet đã gặp Roméo. Paris và Rosaline đều bị bỏ quên. Hai người trẻ kể trên đã nhìn thấy nhau, gặp mặt nhau và khi ôm nhau hôn, họ đã yêu nhau sau đắm. Nhưng một người bà con của Juliet tên là Tybalt đã nhận ra Roméo. Tybalt là người nóng tính, cho rằng một người thuộc gia đình Montague đến dự dạ hội mà không được mời, và đây là một điều xỉ nhục, anh ta thề sẽ trả thù. Sau khi buổi dạ hội chấm dứt, Roméo và Juliet cùng tìm hiểu về người yêu mới. Khi Roméo tránh xa các bạn bè ồn ào và ẩn mình dưới một tàng cây thì không ngờ, địa điểm này lại ở ngay dưới cửa sổ căn phòng của Juliet. Rồi trên ban công thơ mộng, hai kẻ yêu nhau đã thề thốt với nhau và quyết định kết hôn trong vòng bí mật.
Cha Lawrence, một tu sĩ giòng Franciscan và là cha sưng tội của Roméo, rất bận tâm về sự say mê đột ngột của hai người trẻ nhưng cuối cùng đồng ý sẽ làm lễ cưới cho đôi trẻ với niềm hy vọng rằng cuộc hôn nhân của chúng sẽ chấm dứt mối hận thù lâu đời giữa hai gia đình. Thế nhưng, thế giới tình yêu bí mật của Roméo và Juliet lại sớm bị tổn thương nặng nề. Tybalt đang tìm cách trả thù và đã gặp Roméo cùng đi với Mercutio và Benvolio. Tybalt đã gọi Roméo là tên đểu giả và thách đấu gươm, nhưng Roméo đã từ chối, gọi Tybalt là “người anh em bà con” và thề rằng đã yêu danh tiếng của gia đình Capulet như thanh danh của gia đình mình. Các bạn của Roméo đều ngạc nhiên về lời khước từ của Roméo và anh chàng nóng tính Mercutio đã nhận sự thách đố. Khi Roméo xông tới ngăn cản cuộc đấu gươm thì Tybalt đã đâm chết Mercutio.
Roméo cảm thấy có tội về biến cố mới xẩy ra, lại giận dữ vì cái chết của người bạn thân, nên đuổi theo Tybalt. Một trận đấu gươm sinh tử đã diễn ra và Roméo đánh thắng. Chỉ sau khi Tybalt đã chết, Roméo mới nhận ra sự liều lĩnh của mình nên tìm cách lẩn trốn.
Juliet lúc này rất phấn khởi vì đám cưới sắp tới, thì được bà vú báo tin xấu: người anh họ Tybalt đã bị giết và Hoàng Tử Escalus đã cấm Roméo không được lai vãng trong thành Verona. Bà vú cũng cho Juliet biết hiện nay Roméo đang trốn trong phòng của Cha Lawrence. Juliet lại vui mừng vì sẽ được xếp đặt một buổi tối thương yêu với Roméo trước khi chàng này trốn đi khỏi Verona.
Thế rồi sự việc lại đi từ xấu đến xấu hơn. Hầu Tước Capulet rất đau buồn vì cái chết của Tybalt và cho rằng ông sẽ làm cho mọi người trong gia đình vui lên khi sắp đặt đám cưới của Juliet lấy Bá Tước Paris. Juliet lại đau khổ! Sự từ chối cuộc hôn nhân này sẽ làm cho cha mẹ cô đau khổ và ngay cả bà vú nuôi cũng khuyên cô nên lập gia đình với Bá Tước Paris. Không biết trông cậy vào ai, Juliet đành chạy đến nhờ vả Cha Lawrence.
Cha Lawrence chỉ còn một niềm hy vọng, nhưng đây lại là một chương trình mạo hiểm. Cha cho Juliet một liều thuốc, uống vào sẽ làm cho nàng tắt thở, có vẻ chết trong 42 giờ và trong khoảng thời gian này, Cha Lawrence sẽ cho người đi Mantua tìm kiếm Roméo và rồi Cha và Roméo sẽ tới ngôi nhà mồ, nơi mà Juliet sẽ sống lại. Roméo sẽ mang nàng đi xa và Cha Lawrence sẽ an ủi mọi người, sẽ công bố cuộc hôn nhân của đôi trẻ để họ có thể trở lại vui sống tại Verona. Juliet nhận sẽ uống liều thuốc.
Sáng ngày hôm sau, khi bà vú nuôi tới chuẩn bị cho Juliet mặc thử áo cưới thì thấy nàng đã thành cái xác không hồn. Niềm vui của gia đình Capulet đổi ra nỗi buồn vô hạn bởi vì đám cưới của cô con gái duy nhất, nay trở thành một đám tang.
Trong khi đó, Cha Lawrence gửi một người thông tin đi tìm kiếm Roméo thì người này lại bị phong tỏa giữa đường vì bệnh dịch đồng thời, kẻ hầu Balthasar của Roméo lại báo tin cho Roméo biết rằng Juliet đã chết. Roméo bèn đi tìm mua thuốc độc và cấp tốc tới ngôi nhà mồ của gia đình Capulet. Tới nhà mồ, Roméo thấy Bá Tước Paris đang than khóc cạnh xác Juliet và khi Paris từ chối không để Roméo đi qua, hai người đã đánh nhau và cuối cùng, Roméo đã giết chết Paris. Lời yêu cầu cuối cùng của Bá Tước Paris này là được chôn gần Juliet. Trong nhà mồ, Roméo khấn cầu Tybalt tha thứ nhưng rồi vẻ đẹp của Juliet đã làm cho Roméo thẫn thờ, không muốn sống. Chàng thề nguyền sẽ sống bên người yêu mãi mãi nên đã uống liều thuốc độc và tắt thở.
Khi đến giờ Juliet tỉnh dậy, Cha Lawrence tới nhà mồ thì đã thấy Paris và Roméo nằm chết nên sợ quá, Cha đã bỏ chạy. Tỉnh dậy, Juliet nhìn thấy người yêu đã chết rồi trong khi các người khác đang đi tới phía bên ngoài, nàng phải hành động gấp bằng cách dùng cây dao găm của Roméo và tự sát.
Cái chết bi thương của hai người trẻ tuổi đã đoàn kết lại hai gia đình trong nỗi sầu muộn. Không phải bằng cuộc sống mà bằng cõi chết, hai kẻ thương yêu nhau đã mang lại hòa bình cho các gia đình của chúng.
5. Vài nhân vật trong Bi Kịch “Roméo và Juliet”
Truyền thuyết về Roméo và Juliet đã được kể lại nhiều lần hơn 100 năm trước khi William Shakespeare viết thành kịch bản. Vào năm 1476 trong cuốn sách Ý nhan đề là Il Novellino, tác giả Masuccio Salernitano đã kể về mối tình vụng trộm, về vụ giết người, vụ đầy đi khỏi xứ, về một nhà tu sẵn lòng giúp đỡ và cả về đám cưới của hai gia đình thù nghịch. Năm 1530, Luigi da Porta cũng kể lại câu chuyện tình này, gắn cho các nhân vật trong truyện các tên Ý và nơi diễn ra nghịch cảnh là thành phố Verona. Theo truyện của Da Porta, đôi tình nhân này cũng tự sát. Tới năm 1562 tại nước Anh, nhà thơ Arthur Brooke đã dùng đề tài này trong tập thơ dài “The Tragical Historye of Romeus and Julius” (Lịch sử bi thương của Romeus và Julius), đã đề cập tới một thứ đam mê không thánh thiện, một thứ tình yêu vụng trộm, sự không vâng lời cha mẹ và bất tuân luật pháp. Ngôn ngữ trong tập thơ của Brooke thì khô khan, thiếu hấp dẫn dù cho tác giả có cảm tình với cặp uyên ương.
Tới khi William Shakespeare dùng câu chuyện tình kể trên làm chất liệu cho vở bi kịch, thì Đại Văn Hào đã làm cho các nhân vật hành xử giống như chúng ta ngày nay: họ có các ưu điểm và khuyết điểm, có lúc nổi giận, có lúc khôi hài… Vở kịch “Roméo và Juliet” là một chuyện tình và một định mạng bi thương. Các nhân vật trong vở kịch đã suy nghĩ như thế nào, tại sao họ đã chọn các cách hành động như vậy?
Trong vở kịch “Roméo và Juliet” của Shakespeare, có hai loại nhân vật: loại chuyển biến (maturing characters) và loại thụ động (static characters). Các nhân vật chuyển biến đã phát triển và thay đổi qua thời gian, đã hành động theo nhiều cách tùy theo các hoàn cảnh khác nhau, gồm có Juliet, Roméo, Cha Lawrence, Hoàng Tử Escalus. Loại thụ động không thay đổi, hành động theo lề lối chúng ta có thể đoán ra được, gồm có bà vú nuôi, Mercutio, Hầu Tước và bà Montague, Hầu Tước và bà Capulet, Tybalt, Benvolio, Paris …
1) Juliet là một thiếu nữ trẻ, đang dần dần trở thành phụ nữ. Theo cốt truyện Ý, Juliet 18 rồi qua tập thơ của Arthur Brooke, cô ta 16 xuân xanh nhưng trong vở kịch của Shakespeare, Juliet mới 13 tuổi, thơ ngây và ôm nhiều hy vọng. Juliet rất đẹp và Roméo đã bị mê hồn lúc mới gặp nàng. Rồi ngay cả khi nằm trong ngôi nhà mồ, khi ngắm nhìn xác của Juliet, Roméo đã phải than rằng “Tử Thần đã hút đi mật ngọt trong hơi thở của em, nhưng bất lực trước sắc đẹp của em!”.
Juliet là một con người thực tế trong khi Roméo thuộc loại người lãng mạn. Trên bao lơn thơ mộng, Roméo thốt ra các lời yêu đương thì Juliet nói tới hôn nhân, bàn về lúc gặp nhau sắp tới và cách thông tin cho nhau. Juliet đã lớn lên bên cạnh bà vú nuôi và bà mẹ, đã muốn chiều lòng mẹ cha trong cuộc hôn nhân mai sau, nhưng nàng đã suy nghĩ và hành động cho chính mình khi gặp Roméo. Nàng biết rằng có nhiều vấn đề trên đời này, nhưng vẫn tin rằng “tình yêu” có thể giúp cho con người vượt qua được mọi trở ngại. Juliet đã không còn là một cô gái dễ vâng lời, mà là một phụ nữ trẻ chịu trách nhiệm về cuộc đời của chính mình.
2) Roméo là một thanh niên lương thiện, tốt bụng, lịch sự, đẹp trai, đã hôn tay Juliet một cách kính mến và gọi người đẹp là nàng tiên. Nhiều người đã ưa thích Roméo như Mercutio, Benvolio, bà vú của Juliet và ngay cả Hầu Tước Capulet đã gọi chàng là “người trẻ đức hạnh, biết kiềm chế”. Cha Lawrence cũng yêu mến Roméo và cố gắng làm cho chàng hạnh phúc. Không được nàng Rosaline đáp lại tình yêu, Roméo trở nên lẩn thẩn, đã từng lang thang trên đường phố hay giam mình trong căn phòng cô đơn. Nhưng tới khi gặp Juliet, Roméo mới khám phá thấy chính mình và tình yêu đích thực đã làm cho lời nói của Roméo trở thành các lời thơ! Tới khi phải bỏ trốn, đi cầu cứu Cha Lawrence, Roméo đã đánh mất chính mình, không còn khả năng hành động đúng cách. Tới khi biết rằng Juliet vẫn còn yêu mình, Roméo lại trở nên con người của hành động. Và trong ngôi nhà mồ, Roméo đã nói sẽ hành động như thế nào và tại sao. Thật là bi thương khi tình yêu trở thành sâu đậm nhất ! Roméo đã tìm thấy chính mình khi tự sát.
Ngoài hai nhân vật chính, còn có nhiều người khác như Cha Lawrence, một tu sĩ Cơ Đốc (Catholic) được kính trọng, có các đức tính và các yếu điểm, thường cố vấn cho Roméo bằng các lời dạy của Chúa và cố gắng dùng địa vị của mình để chấm dứt mối hận thù lâu đời. Hoàng Tử Escalus là một nhà cai trị Thành Verona, là người đại diện cho trật tự và luật pháp. Escalus đã ban hành các quy luật và mong đợi người dân tuân theo kỷ luật. Trước mối tình ngang trái của Roméo và Juliet, Hoàng Tử Escalus đã không hiểu rõ các tình tiết của sự việc và đã chấp nhận rằng chính mình không phải là thẩm quyền cuối cùng, và phán xét cuối cùng phải thuộc về Thượng Đế.
“Roméo và Juliet” là vở kịch có các chủ đề (themes) là tình yêu của hai người trẻ đối với mối hận thù của hai gia đình, tình yêu giả hiệu (false love) giữa Roméo và Rosaline khi Roméo tạo ra các tình cảm nhân tạo đối với người đẹp, tình yêu lãng mạn (romantic), đích thực (true love) và thuần chất (pure) giữa Roméo và Juliet. Hai người trẻ này đã gắn bó với nhau qua hôn nhân, sẵn lòng chết vì nhau hơn là bất trung với nhau. Cõi chết đã tới với hai kẻ yêu thương say đắm bởi vì “số mệnh” (fate): Roméo đã bị đưa đường tới dạ hội của gia đình Capulet do một tên bạn mù quáng, các kế hoạch xây dựng của đôi trẻ đã gặp thất bại phải chăng là do “Thượng Đế ” (Providence) đã an bài?
Ngoài ra trong vở kịch “Roméo và Juliet”, còn thấy rất nhiều tình tiết về trật tự công cộng đối nghịch với các xáo trộn ngoài xã hội, sự vô tội của đôi trẻ trước các lời khuyên bảo của bậc cha mẹ và các người cố vấn, các kinh nghiệm của những nhân vật khác trong kịch bản… Vở kịch đã trình bày tình cảm cô đơn khi Roméo và Juliet thấy Mercutio và Tybalt đã bị giết, và khi đó đôi trẻ mới hiểu rõ các tai nạn bi thương, các thất bại của con người và sự tàn ác trên thế gian! Và cô đơn là hoàn cảnh Juliet bị bỏ rơi trước những người thân như cha mẹ, bà vú nuôi, Cha Lawrence và cuối cùng là người yêu Roméo.
Trong vở kịch “Roméo và Juliet”, mỗi nhân vật đã nói bằng thứ ngôn ngữ riêng, chứng tỏ giai cấp xã hội của từng người. William Shakespeare đã dùng ba thể văn khác nhau để diễn tả các nhân vật, với thể hài kịch (comedy) mô tả lúc các người trẻ gặp nhau, yêu nhau, có các bạn bè vui vẻ và các người hầu thô tục. Đại Văn Hào còn dùng tới thể văn kiểu Ý (commedia del l’ arte) để nói về các bậc cha mẹ ngăn cách những kẻ mới biết yêu, nói về các người hầu bình luận về tình dục.
“Roméo và Juliet” là vở kịch chứa đựng bên trong rất nhiều loại bài thơ lãng mạn (different types of Romantic poetry) bởi vì trước đó tác giả mới viết xong hai tập thơ lãng mạn dài loại tường thuật (long narrative Romantic poems) cũng như các bài thơ loại Sonnet.
6. Bối cảnh lịch sử của Bi Kịch “Roméo và Juliet”
William Shakespeare đã viết 10 vở kịch lịch sử liên quan tới các vua nước Anh và giới quý tộc. 9 trong các vở kịch này đề cập tới các biến cố từ năm 1398 tới thập niên 1540. Sự hiểu biết về lịch sử của nước Anh vào thời gian này sẽ khiến cho các vở kịch của Shakespare đễ được hiễu rõ hơn.
100 năm trước khi Elizabeth I trở thành Nữ Hoàng, nước Anh đã gặp các tranh chấp hung bạo về chính trị và tôn giáo và ngai vàng của nước Anh đã bị lung lay. Từ năm 1455 tới năm 1485, các trận nội chiến đã làm tan nát đất nước và được gọi là “Cuộc Chiến Tranh của các Hoa Hồng” (the Wars of the Roses). Hoàng gia Anh đã chia thành hai phe phái kình chống nhau kịch liệt. Một phe nhóm các hầu tước, bá tước, chủ trương ủng hộ giòng họ Lancaster, con cháu của Henry Bolingbroke, người tự xưng là Vua Henry-4, trị vì từ năm 1399 tới năm 1413 và lấy biệt hiệu là “Hoa Hồng Đỏ”.
Phe nhóm thứ hai, cũng vì quyền lợi riêng của các bá tước, đã phò tá cho giòng họ York với biểu hiệu là “Hoa Hồng Trắng” và vào năm 1461, họ đã đặt lên ngai vàng của nước Anh Vua Edward-4, trị vì từ năm 1461 tới năm 1483. Vua Edward-4 chết sớm, người con trai nhỏ là Edward-5 bị bắt giam trong Tháp London bởi người chú là Vua Richard-3, trị vì từ năm 1483 tới năm 1485. Henry Tudor từ nước Pháp đã xâm lăng nước Anh, đánh bại Vua Richard-3 tại mặt trận Bosworth Field vào năm 1485 rồi lên làm Vua nước Anh, tức là Vua Henry-7, trị vì từ năm 1485 tới năm 1509. Vua Henry-7 lập gia đình với người đàn bà nối dõi giòng họ York vì thế chấm dứt mối hận thù giữa hai gia đình, nhà vua cũng hạn chế các tự do vô chính phủ của giới quý tộc phong kiến của nước Anh.
Vào năm 1502, Hoàng Tử Arthur của Vua Henry-7 đã cưới công chúa Catherine, con gái của Vua và Hoàng Hậu nước Tây Ban Nha. Nhưng không may, Arthur qua đời sớm. Vua Henry-7 bèn quyết định rằng góa phụ Catherine sẽ lấy người em chồng, người sẽ lên ngai vàng trong tương lai. Sở dĩ có vấn đề này bởi vì Công Chúa Catherine khi đi lấy chồng, đã mang theo một số hồi môn rất lớn, vào khoảng 5 triệu Mỹ kim của thời nay. Nếu Catherine trở về xứ Tây Ban Nha, số hồi môn đó sẽ không còn nằm trên đất Anh.
Năm 1509, Vua Henry-7 chết, nối ngôi là Vua Henry-8. Vị vua mới này không muốn lập gia đình với Công Chúa Catherine bởi vì không yêu và bà này lại hơn nhà Vua 6 tuổi. Nhưng vì quyền lợi của Ngai Vàng, Henry-8 phải chấp nhận.
Các nhà viết sử của thời kỳ đó đã mô tả Henry-8 là một thanh niên đẹp trai, thông minh, một nhạc sĩ có tài lại biết rành các tiếng Pháp, Tây Ban Nha và La Tinh. Henry-8 rất giỏi về thể thao, cưỡi ngựa… và lại là một con người sùng đạo. Khi Martin Luther bắt đầu thuyết giảng về Đạo Tin Lành, Vua Henry-8 bị giao động mạnh nhưng đã không tin vào các giáo điều mới nên đã viết ra một tập sách mỏng, lên án lời rao giảng của Martin Luther. Việc bảo vệ niềm tin Cơ Đốc Giáo (the Catholic faith) đã làm vừa lòng Giáo Hoàng La Mã và Vua Henry-8 được Giáo Hoàng phong tặng danh hiệu là “Người Bảo Vệ Niềm Tin” (Fidei Defensor = the Defender of the Faith).
Khi đã làm Vua nước Anh, Henry-8 cần tới con trai để cho Triều Đại Tudor có thể tiếp tục. Người con trai đầu tiên do Hoàng Hậu Catherine sinh ra, đã chết yểu. Sau đó là ba công chúa có số mạng ngắn ngủi. Người con gái cuối cùng với Hoàng Hậu Catherine là Công Chúa Mary đã sống được, nhưng tới năm 1525 chấm dứt mọi hy vọng có thêm con. Lúc đó Hoàng Hậu Catherine đã 40 tuổi và Vua Henry-8, 34 tuổi.
Công Chúa Mary lớn lên và đính hôn với vị Vua tương lai của nước Pháp. Nếu Vua Henry-8 không có con trai, sau này Vua nước Pháp sẽ trở thành Vua của nước Anh và tương lại của Ngai Vàng nước Anh sẽ ra sao? Người dân nước Anh không bao giờ chấp nhận Vua nước Pháp cai trị họ. Các xáo trộn chính trị sẽ xẩy ra.
Muốn tránh các biến cố chính trị về sau, Vua Henry-8 đã thực hiện một quyết định quan trọng. Để có con trai mong muốn, nhà Vua phải ly dị Hoàng Hậu Catherine và lập gia đình với một người đàn bà khác. Vua Henry-8 đã xin phép Giáo Hoàng được quyền làm điều này. Nhưng khi đó Giáo Hội La Mã không chấp nhận việc ly dị và Giáo Hoàng cũng không dành cho Vua Henry-8 một ngoại lệ.
Vì tức giận trước việc từ chối của Giáo Hội La Mã nên vào năm 1533, Vua Henry-8 đã cưới bà Anne Boleyn, người mà nhà Vua yêu thương rồi sau đó, Nghị Viện nước Anh công bố rằng cuộc hôn nhân với Hoàng Hậu Catherine là bất hợp pháp và lần lập gia đình của nhà Vua với bà Anne Boleyn mới được coi là chính thức.
Việc coi thường quyền uy của Giáo Hoàng bởi Vua Henry-8 và Nghị Viện Anh đã gây nên rạn nứt giữa chính quyền Anh và Giáo Hội La Mã. Việc cắt đứt liên lạc này trở nên vĩnh viễn vào năm 1534, khi Nghị Viện Anh cho Vua nước Anh quyền bổ nhiệm mọi nhân vật đứng đầu tôn giáo và quyền thu nhận mọi lợi tức của Nhà Thờ trên đất Anh. Sau đó, Nghị Viện Anh cũng thông qua “Đạo Luật Tối Thượng” (the Act of Supremacy) và từ nay, Vua nước Anh trở nên “Nhà Lãnh Đạo Tối Cao của Nhà Thờ Anh Quốc” (the supreme head of the Church of England). Như vậy Vua Henry-8 đã trở thành “Giáo Hoàng” của Anh Cát Giáo và nhà Vua đã giải tán các tu viện trên đất Anh, ban phát tài sản của những nơi này cho các người tuân phục mình. Vì không chấp nhận Đạo Luật Tối Thượng, vị Thủ Tướng thời bấy giờ là Sir Thomas More đã bị chặt đầu vào năm 1535. Dân chúng nước Anh đã đứng về phía nhà Vua, vì niềm tự hào quốc gia. Cũng từ nay, tiếng Anh được dùng thay tiếng La Tinh trong các lễ nghi tôn giáo.
Vua Henry-8 lấy bà vợ thứ ba là Jane Seymour, sinh ra Hoàng Tử Edward-6, nhưng vị Hoàng Tử bệnh hoạn này đã qua đời vào tuổi 16 và người con gái lớn của Vua Henry-8 tên là Mary trở nên Nữ Hoàng của nước Anh vào năm 1553. Công Chúa Mary này khi trước được nuôi dạy theo Cơ Đốc giáo (Catholic) nhưng phải hứa không được lật đổ Nhà Thờ Anh Quốc. Thế nhưng, các cố vấn của Công Chúa Mary đã thuyết phục được Công Chúa kết hôn với Vua Philip của nước Tây Ban Nha và đặt Nước Anh trở lại tầm tay của Nhà Thờ Cơ Đốc (the Catholic Church). Rồi sau cuộc hôn nhân ngoại giao kể trên, Vua Philip rời khỏi nước Anh, và dưới quyền lực của Nữ Hoàng Mary, với tục danh gọi là “Mary đẫm máu” (Bloody Mary), các cuộc thanh trừng những người Tin Lành đã diễn ra, với hơn 400 tu sĩ bị hành quyết cho tới khi Nữ Hoàng Mary Tudor qua đời vì bệnh ung thư vào năm 1588. Tới lúc này, đất nước Anh thuộc về người em gái cùng cha khác mẹ của Mary là Công Chúa Elizabeth.
Khi trở thành Nữ Hoàng của nước Anh, Elizabeth I đã cho phép các thuyền trưởng người Anh đánh cướp các con tầu của Tây Ban Nha và Nữ Hoàng cũng trợ giúp các người Tin Lành nổi loạn tại xứ Hòa Lan. Vua Philip vì thế coi những người Anh này là các kẻ thù chính. Vào năm 1588, Vua Philip hạ lệnh cho Hạm Đội Armada gồm hơn 130 chiến thuyền lớn, ra khơi để tấn công và xâm lăng nước Anh. Hải Quân Anh khi đó chỉ gồm các con tầu nhỏ, nhưng nhanh hơn, lại được chỉ huy do các thuyền trưởng gan dạ như Sir Francis Drake, John Hawkins và Martin Frobisher… Một phần nhỏ của Hạm Đội Armada của Tây Ban Nha đã bị Hải Quân Anh phá hủy trên Eo Biển Channel, số còn lại tan tác vì một trận bão lớn.
Chiến thắng của Nữ Hoàng Elizabeth I đối với nước Tây Ban Nha đã mang lại hai thắng lợi: nước Anh được tự do và theo đạo Tin Lành, rồi từ đó, Hải Quân Anh trở thành một lực lượng hùng mạnh bậc nhất của châu Aâu và Thế Giới.
Đại Văn Hào William Shakespeare đã viết ra Bi Kịch “Roméo và Juliet” vào năm 1596, 9 năm sau khi Nữ Hoàng Elizabeth I ra lệnh chặt đầu Nữ Hoàng Mary, Queen of Scots, và Bi Kịch này là phản ảnh của mối hận thù từ trong gia đình hoàng gia, đã làm chia rẽ đất nước Anh và đã gây ra hàng ngàn vụ giết người. Đại Văn Hào còn mô tả các nguy hiểm cho đất nước do một ông vua yếu hèn trong vở kịch Richard-II, hay từ một nhà cai trị tàn ác và bất chính như trong vở kịch Richard-III.
Ngày nay, mối hận thù trong vở kịch “Roméo và Juliet” có thể tượng trưng cho những người Cơ Đốc và Tin Lành hiện đang tranh chấp nhau, thù nghịch nhau trên mảnh đất Ái Nhĩ Lan (Ireland).
Phạm Văn Tuấn