Trong bài Dân Chủ Thực hữu I, sau khi phân tích và xem xét qua tất cả những bản Hiến pháp Tây Âu hay Bắc Mỹ, chúng ta có thể kết luận. Để có một nền Dân Chủ thực sự, chúng ta đã thấy các chế độ Tây Âu và Bắc Mỹ đã phải có những nét cơ bản sau đây :
1. Điạ vị tối thượng của con người trong tổ chức quốc gia.
2. Nền Dân chủ thực hữu ( démocratie substantielle)
3. Tự do tích cực ( liberté positive) và
4.Dân chủ tham dự ( démocratie participative)
Chúng ta đã nghiên cứu vai trò của con người trong tất cả những Hiến Pháp Âu Mỹ, chúng ta cũng đã nghiên cứu thế nào là Dân chủ thực hữu.
Hôm nay, trong bài viêt nầy chúng ta sẽ đi sâu thêm vào vấn đề, chúng ta tự hỏi :
Và khi đã có Dân Chủ ? câu hỏi tiếp theo sẽ : Có Dân Chủ là có tất cả yếu tố để thực hiện một chánh quyền lành mạnh, một cơ cấu quản trị tốt ?
Chưa hẳn ….
Những khủng hoảng hiện nay tại các nền dân chủ tiên tiến chứng minh cho chúng ta thấy cần phải có một nền dân chủ tham dự (une démocratie participative)
Trong những bài viết qua chúng tôi thường đề cập đến Con người và Môi trường song hành với Đạo Đức là những yếu tố khả dĩ Phát triển và Quản lý tốt một quốc gia tiên tiến
Hiến pháp chỉ là một bản văn, tuy cần thiết nhưng vẫn chưa đủ (nécessaire et non suffisant) bảo đảm cho những Tự do thật sự và một nền Dân chủ thực hữu của quốc gia. Rất nhiều chế độ độc tài trên thế giới vẫn dùng bản Hiến pháp làm chiêu bài để vay mượn danh nghĩa chánh thống cũng như tánh cách hợp pháp. Những nước có chế độ độc tài toàn trị do độc đảng cầm quyền, như Cộng sản Hà Nội, vẫn thường tự gọi là những “Cộng hòa Dân chủ Nhân dân”. Thậm chí, thế giới lúc bấy giờ cũng vẫn dùng chung một từ tổng hợp là “Khối các Dân chủ Nhân dân”.
Ngày nay, ngay tại các quốc gia tiên tiến, nơi có những Tự do căn bản được áp dụng, nhưng phần lớn việc điều hành quyền lực từ các cơ quan hành chánh hay pháp lý vẫn gợi cho những người quan tâm đến tình trạng nhơn quyền và Dân chủ không ít nghi ngờ, khiến phải suy nghĩ và e ngại.
1. Dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện (Démocratie directe, démocratie représentative) :
Khái niệm Dân chủ là một khái niệm trong sáng, nhưng dễ bị lạm dụng khi áp dụng những phương cách thực hiện, trong những thể chế ngày nay.
Định nghĩa của Abraham Lincoln “Dân chủ là do Dân cầm quyền, cho Dân và vì Dân”, bởi thế, chúng ta gọi là Dân chủ trực tiếp. Nghĩa là:
– Người Dân phải cầm quyền trực tiếp, không qua một trung gian nào cả,
– Người Dân cũng vừa là Người Cầm quyền và cũng là Người bị trị (Gouvernant et gouverné),
Nói như vậy, những người xử dụng công quỷ cũng là những người quyết định thâu thuế, và trả thuế. Về mặt lý thuyết thì tạm hiểu, nhưng làm sao áp dụng trên mặt thực hành. Hiện nay, một vài thị xã, hay làng xã của Thụy sĩ, vẫn áp dụng cách thức “Trưng cầu dân ý trực tiếp” về một vài tài khoản thuế vụ có tính cách địa phương.
Những quốc gia tiên tiến ngày nay, đa số áp dụng Dân chủ dưới hình thức Dân chủ đại diện (démocratie représentative). Một tấm bình phong cách ly người dân và người cầm quyền (tạm gọi là quan chức cầm quyền, hay gọi chung là nhà cầm quyền): đó là những đại diện dân, do dân bầu, và phát biểu thay dân về những nguyện vọng của người dân.
Đó là một Dân chủ gián tiếp, người dân không có những quyết định hành xử, quản lý đất nước, người dân chỉ tham dự bầu những đại diện thay mình. Thực tiển, dễ thực hiện, nhưng rất có nhiều hạn chế nguy hiểm, càng ngày càng lộ rõ. Bởi lẽ :
2. Một “thị trường chánh trị”
Cái nguy hiểm ngày nay, là do sự bành trướng của một hiện tượng được gọi là “thị trường Chánh trị”. Định nghĩa này được nhóm “public choices”, một nhóm các nhà nghiên cứu, kinh tế gia, chánh trị gia hay xã hội học Âu-Mỹ, theo dõi những cách thức xử thế, quyết định từ các vị lãnh đạo công cộng của quốc gia (nhà cầm quyền, các vị lãnh đạo các nhóm chánh trị, các vị dân cử và các công chức). Những quyết định ấy thường khi thiếu sự chính xác, không trung thực, bởi lẽ, thay vì các quyết định phải được thoát thai từ kết quả trao đổi giữa hai nhóm người, của hai đối tác, đúng theo luật “cung – cầu”, theo luật “kinh tế thị trường”, thì ngày nay, những quyết định ấy lại là những mặc cả, đã làm mất những “thông tin chính xác, trung thực”, dẫn đến “cái chung chung”, thiếu hẵn phần “trách nhiệm”.
“Thị trường chánh trị” là thị trường của những ứng cử viên với các đại diện dân, một bên, và đối với (versus) cử tri đoàn, một bên.
Trên thị trường này, ứng cử viên và các dân cử nắm quyền chủ động. Cũng như một anh nhà buôn, họ để nghị những “món hàng công cộng” (công viên, trường học, giảm tô thuế, ủng hộ Dân chủ ở VN …) hay những “món hàng chánh trị” (những người mới nhập cư dễ dàng nhập lấy quốc tịch để xử dụng lá phiếu lấy những quyết định cho địa phương, làng xã, nơi mình sanh hoạt và cư ngụ … đổi lấy lá phiếu của người đi bầu của cử tri gốc Việt, gốc Hispanic ở Mỹ, gốc Á-rạp ở Pháp…
Và người nào đề nghị nhiều, hứa hẹn nhiều, thì kẻ ấy có cơ may lượm nhiều lá phiếu.
Xin lấy vài thí dụ : các nhà làm chánh trị hứa sẽ bảo vệ con người, tài sản và quyền lợi con người. Nhưng có ai nói đến bảo vệ bằng cách nào, tổn phí là bao nhiêu ? Khi cần lá phiếu, các ứng cử viên thường có những lời hứa với chương trình thực hiện (sẽ) rất dài. Và cùng trong một lúc đó, các người đi bầu, người cử tri, người dân thường, cũng họp nhau lại thảo những đòi hỏi dài, xin thêm phương tiện hổ trợ, tiền bạc, nhơn danh “phúc lợi công cộng” (intérêt général), nhưng thật sự, đó chỉ là những đòi hỏi rất hạn hẹp có tính cách địa phương và đặc biệt
Và cuối cùng, mọi người cùng ngóng cổ chờ quyết định của Nhà nước, vì sự mặc cả, giữa những người muốn “giảm tiền thuế ”, và những nhóm muốn xin “thêm tiền, để thực hiện những đặc lợi và đặc quyền”, hai nhóm này đều là công dân, và cả hai đòi hỏi đều có lý cả. Vậy phải làm thế nào? Chúng ta thường thấy, theo thông lệ, những nhóm đứng ra đòi hỏi thường là những “nhóm có tổ chức”, biết xuống đường đấu tranh, biết la hét để đòi hỏi. Còn nhóm người bị đóng thuế, như tất cả chúng ta, thường thụ động, im lặng, tuy có rên rỉ đấy, nhưng vẫn phải trả thuế đều đều. Khối thiểu số ồn ào sẽ lấn ép khối đa số thầm lặng.
Những nhà làm chánh trị ở các quốc gia tiên tiến xử dụng cái mâu thuẫn ấy để kiếm phiếu, sẵn sàng hứa thực hiện tất cả những yêu cầu, hứa sẽ giảm các loại thuế, tạo một không khí an lành và gợi cho người dân cảm tưởng là có một “ai đó” sẽ hào phóng chi tiền. Giáo sư trường luật Aix –Marseille Frédéric Martiat từng mô tả hiện tượng ấy vào năm 1968 : “Nhà Nước là cái ảo tưởng xã hội (une fiction sociale) trong con người mà lúc nào cũng mong được sống bám vào những kẻ khác” (L’Etat est une fiction sociale à travers la quelle chacun s’efforce de vivre aux dépens de tous les autres). Và Nhà Nước Bảo Hộ ra đời. (Et l’Etat Providence naquit).
3. Khủng hoảng của Nhà Nước
Vì mọi chuyện đều phải do Nhà nước giải quyết, chúng ta đã đâm đầu vào một cuộc khủng hoảng kinh khủng. Cuộc khủng hoảng nầy đang diễn ra tại các nước tiên tiến.
Mong bài nghiên cứu này đóng góp được những suy nghĩ để các nước chậm tiến như Việtnam, ngày mai không vấp phải.
Khủng hoảng đầu tiên, là khủng hoảng chánh trị: nếu Nhà Nước là tất cả, các nhà cầm quyền và các nhà làm chánh trị là tất cả, thì “tất cả đó” đều đứng trên Pháp luật (Việt Nam ngày nay, Đảng Cộng sản và Nhà Nước là một, ĐCS đứng trên Pháp luật)
Khủng hoảng thứ hai, là những giá trị Đạo đức xã hội hoàn toàn bị xáo trộn. Những thành công đều được đánh giá trên kết quả, mà không cần biết kết quả đó có được là do xảo quyệt, do bè phái, do tham nhũng. Những giá trị thật sự về Đạo đức con người, về giá trị học hành, về hiểu biết, về tri thức đều không được nhìn nhận. (Việt nam ngày nay ?)
Khủng hoảng thứ ba, là kinh tế, của công bị tham nhũng đục khoét, lãng phí, quản lý tồi, dĩ nhiên mất hiệu năng sản xuất, cộng thêm Pháp luật bị chà đạp, sưu cao, thuế nặng … là nguyên nhân đưa đến trì trệ kinh tế. Rồi nạn thất nghiệp gia tăng, mức tiêu thụ giảm lần, tạo nên cái vòng lẩn quẩn, người nghèo vì thất nghiệp càng nghèo thêm, khiến quỹ xã hội thâm hụt nặng, bởi không đủ thương vụ, nghiệp vụ đóng góp.
Khủng hoảng thứ tư, là Pháp lý, Nhà Nước không còn đóng vai trò quản lý, và trọng tài những tương quan thương mại hoặc xã hội. Vì Luật pháp bị xâm phạm, bị cưởng hiếp, không còn được tôn trọng, nên những nhà chánh trị lương lẹo với những dân cử để tham nhũng hay ngồi xổm lên pháp lý, rồi … trẻ con các khu nghèo kéo nhau đi “đốt xe” để … giải trí. (Ở Pháp vừa qua).
Những khủng hoảng nhỏ biến thành một cuộc khủng hoảng nặng nề về thể chế Dân chủ nơi các Nhà Nước tiên tiến. Hậu quả :
– a.- Một cuộc trả lời bằng chân : (exit) bỏ nước ra đi.
– b.- Trả lời bằng phát biểu (voice) la ó, biểu tình, đình công, bạo động.
– c.- Trả lời bằng chịu đựng, sống qua ngày (loyalty), mất ý chí công dân, lơ là quyền phát biểu công dân, lãnh đạm với những cuộc bầu phiếu, bỏ phiếu.
Ba cách trả lời trên không đặt lại vấn đề của Dân chủ đại diện, cũng không làm giảm đi những lố lăng lạm dụng của các tổ chức cầm quyền, có chăng chỉ là những tránh né, chạy quanh. Ngày nay, Dân chủ hay Pháp lý được nói đến nhiều, phải chăng chỉ là một bức màn nhung che những màn ảo thuật chánh trị mà thôi ?!
4. Sự Chuyển tiếp qua trung gian các xã hội dân sự.-Tự do tích cực
Con đường phân chia biên giới giữa quyền lực của giới cầm quyền và xã hội phải được nới rộng.
Để sanh tồn, quyền lực của công lực phải được giảm bớt, những “công hữu” phải được tư hữu hóa. Quản lý những sở hữu hay công nghiệp quốc gia không còn là nghiệp vụ của Nhà nước nữa. Những xã hội dân sự, dần dần nắm quyền quản lý để thay thế. Quản lý khai thác, phân phối tài nguyên quốc gia phải được tư hữu hóa.
Quản lý những sở hữu hay tài nguyên có tánh cách thương mại rất dễ dàng cho các xã hội dân sự. Sản xuất xe hơi, quản lý khí đốt, điện lực, chuyên chở, truyền thông, các tư nhơn và các xã hội dân sự biết làm và còn làm giỏi hơn Nhà nước.
Về những phần hành “dịch vụ công cộng” (Services publics) vẫn là phận sự của Nhà Nước, vì là Công Bộc, như Tổ chức Giáo dục, Tổ chức Y tế, Tổ chức Hưu Trí, Tổ chức Thể Thao, Tổ chức Văn hóa … đành rằng khó khăn, nhưng nếu biết chuyển hướng khéo và quản lý khéo vẫn có thể chuyển dần cho Tư nhơn.
Nhưng, vẫn còn những bộ phận hoàn toàn không thể chuyển nhượng cho thế giới thương mại, như những “tổ chức dịch vụ xã hội tương tế”, hay “dịch vụ phân phối tương trợ”, gọi chung là “dịch vụ xã hội ” (Sercices sociaux) chủ yếu đối với những gia đình nghèo khổ, giúp đỡ người tàn tật, nghiệp vụ cứu thương, cứu hỏa, bảo vệ con trẻ, tổ chức phòng ngừa du đảng, tệ nạn hút sách … Nếu Nhà Nước không làm thì ai đứng ra làm ? Bảo vệ môi sinh, môi trường, Nhà Nước có thể làm luật, nhưng ai kiểm soát ?
Chúng ta có thể trả lời: hãy để cho những “Xã hội dân sự cộng đồng” (des sociétés civiles communautaires). “Xã hội dân sự cộng đồng” là những Hiệp hội, hội đoàn có ý kiến trên một vấn đề đặc biệt: Hội gia đình, Hội bảo vệ các người già, Hội bảo vệ phụ nữ chống tệ nạn bị hành hung, Hội bảo vệ trẻ con … Nhà nước và các Tư doanh không thể lo được. Những hội đoàn ấy tạo sự kiểm soát và đi dần đến quản lý.
Định nghĩa những hội đoàn ấy là “Tương trợ”, “Tự nguyện”, “ Bất vụ lợi”, “Hội tương tế ”
(Solidarité, volontariat, bénévolat, partage, mutualité).
Dĩ nhiên xã hội không thể đòi hỏi những “quý tánh ” ấy. Xã hội phải có những khu vực thương doanh (đa số) và phải có những kiểm soát chế tài pháp lý (càng ít càng tốt).
Chúng tôi nghĩ rằng con người, tức là những công dân và những đoàn thể công dân có thể thay thế Nhà nước điều hành tốt xã hội. Đó là Tự do tích cực (la liberté positive)
5. Hãy tổ chức lại tình tương trợ
“Xã hội chánh trị” (la société politique) đã ngự trị gần một thế kỷ, “Xã hội doanh thương” (la société marchande) và “Xã hội cộng đồng” (la société communautaire) hoàn toàn không có tiếng nói. Đặc biệt tại những quốc gia do độc tài toàn trị cai quản, như Việt Nam. Nhà Nước độc tài đã đè bẹp tất cả những cá nhơn thương nghiệp, hay những “cơ chế trung gian” (les corps intermédiaires). Ngày nay dưới sức bộc phát của kinh tế thị trường, các xã hội doanh thương phục hồi rất nhanh, nhưng trong tình trạng hỗn loạn, vì thiếu một khung pháp lý.
Các công ty quốc doanh được tư hữu hóa khá nhanh và dễ dàng, sự cạnh tranh bắt đầu thực hiện bởi sự thúc đẩy của toàn cầu hóa. Nhưng con người và tâm trạng “cộng đồng” đến chậm hơn.
Bởi lẽ, thời xưa dưới chế độ độc tài toàn trị, quan niệm “tập thể” bị thúc đẩy đến cao độ, nhưng quan niệm ấy chỉ là bề mặt thôi, thật sự lúc bấy giờ, là thời gian của cá thể cao độ, mạnh ai nấy lo, “tôi lo cho tôi và gia đình tôi trước”. Chụp giựt, mạnh ai nấy lo chụp giựt là tâm trạng công dân dưới thời “tập thể” lãnh đạo. Ngày nay, những dấu vết chánh trị ấy vẫn còn, mặc dầu xã hội doanh thương đã hoạt động bình thường. Làm sao có được cái yên tâm để lo cho người khác và lo việc chung ? !
Một chương trình công dân giáo dục phải được nghĩ đến. Những công dân có nhiệt tình, có tinh thần cộng đồng, hãy gánh vác việc tổ chức lại những cơ cấu xã hội và những cơ chế tương trợ cộng đồng. Thoạt tiên là gia đình, ngày nay, tánh cách gia đình đã bị phá vỡ, cộng đồng gia đình là môi trường tạo sự tương trợ và hòa hợp, không nói đến gia đình là phủ nhận nền tảng của xã hội.
Trong khi chờ đợi một quan niệm mới để tổ chức lại gia đình, chúng ta phải cố gắng đào tạo những đức tánh căn bản để phát triển “những tập tục đời sống hội đoàn”,“những sáng kiến tương trợ” và “những hy sanh cá nhơn”.
Phát huy những đức tánh ấy là thực hiện được những đóng góp của công dân đối với nền dân chủ. Đo đó, thể hiện những “đức tánh dân chủ”, và « quyền tự do tích cực » của mỗi công dân của những người công dân mới.
6. Một nền dân chủ tham dự
Nếu “quyền lực chánh trị” đã vượt khỏi phạm vi hoạt động, nếu “nền dân chủ” đã bị tướt đoạt bởi một nhóm người chánh trị toàn quyền, một hệ thống quan liêu, cửa quyền toàn trị hay những nhóm thế lực độc tài; hoặc quan điểm, tư tưởng về nền tảng của “các xã hội tự do”, của “các xã hội công dân” đã bị lãng quên, hay bị tước đoạt, thì sự thờ ơ với “việc công cộng”, “việc chung” (la chose publique) của các công dân đã mặc nhiên giao phó “đời sống công cộng” cho một nhóm “người làm chánh trị”, đó là vô tình quên đi trách nhiệm “cộng hòa” – Cộng hòa từ quan niệm “Res Publica”, nghĩa là pour la chose publique, tức là “việc chung”, việc công cộng.
Cũng dễ hiểu thôi, người công dân ngày nay, đứng quá xa trong hệ thống tổ chức quyền lực. Người công dân nhận thấy những quyết định về thuế má, những luật lệ hành chánh, những đặc quyền và cả những xì – căng – đan đã vượt qua tầm tay của mình. Dân chủ ư ? Quá trễ rồi. Làm sao thay đổi tâm lý và tập tục để có một Quốc hội mới, một Chánh phủ mới ? Hiện tượng bỏ mặc việc chung, việc công cộng, xem “việc chánh trị là việc ở trển” rất phổ thông ! Chúng ta hiểu tại sao, bỏ phiếu trằng, không đi bầu, là điều rất tự nhiên ở các nước tiên tiến, như Huê kỳ, Pháp, Anh, Đức…
Khi “nền Dân chủ chỉ định nghĩa bằng lá phiếu” (La Démocratie réduite au bulletin de vote) như Yves Cannac đã định nghĩa, người dân có cảm tưởng rằng họ chỉ có quyền công dân trước vài tuần có bầu cữ, khi những ứng cữ viên nhớ đến họ, bằng những hứa hẹn.
Chúng ta có thể phá vỡ quan niệm ấy bằng những sanh hoạt cộng đồng, bằng những sanh hoạt hội đoàn. Hãy nhìn xem, rất nhiều công dân nhận xét như chúng ta. Tại sao chúng ta không tập trung những suy nghĩ, những nhận xét ấy lại rồi biến thành hành động chung để ảnh hưởng đến “việc chung” ? Và những hành động cho “việc chung” trong một “xã hội cộng đồng” sẽ đem “xã hội dân sự” và “xã hội cộng đồng” đi vào quản lý “cái việc chung”.
Đó là “dân chủ tham dự”.
Theo thiển ý, hãy tổ chức ngay những bài học công dân giáo dục. Tu Thân, Trị Quốc. Tu thân, nói rõ vai trò của con người và ảnh hưởng của môi trường qua một nền giáo dục, trau giồi Đạo đức công dân. Trị Quốc, bắt đầu bằng những suy nghĩ đóng góp vào cộng đồng xã hội của mình, đầu tiên là đối với gia đình mình: một người con tốt, hiểu rõ bổn phận đối với cha mẹ; cha mẹ cũng thế, thi hành đúng bổn phận đối với con, giảng dạy cho con mình biết thế nào là cộng đồng, là môi trường xã hội, văn hóa và kinh tế … Hãy tổ chức những hội đoàn thiện nguyện ngay trong thời niên thiếu của những con trẻ, những hội đoàn thiện nguyện tại các khu phố của mình. Hãy chứng minh rằng những đường giây thiện nguyện này sẵn sàng làm việc, thay thế những cơ quan xã hội cộng đồng do chánh phủ thành lập. (Việt Nam đã có sẵn những tổ chức Nhà Thờ, Chùa, phục vụ cho cộng đồng tín hữu hay Phật Tử. Đó là truyền thống cộng đồng của dân tộc Việt Nam, vốn có tự ngàn xưa)
Nếu chúng ta biết sử dụng “Xã hội dân sự”, thoạt tiên là những “Cơ cấu tổ chức tương trợ”: cho người khiếm tật, cho trẻ con bị tàn tật, cho các nạn nhơn bão lụt, giúp đỡ và giáo dục trẻ con bụi đời … Các xã hội dân sự có thể đi vào những chương trình to lớn hơn, như giúp đỡ Khoa học thực nghiệm nghiên cứu các bệnh nan trị : ung thư, Alzheimer, Parkinson, sốt rét… hoặc về Văn hóa, như chống nạn mù chữ, dạy nghề cho người nghèo …
Các “Xã hội dân sự ” hay “Cộng đồng” cũng còn vai trò thành lập những “Xã hội Công dân” hay những “Hội đoàn công dân” (les clubs citoyens) nghiên cứu những luật lệ hiện hành để bổ túc ngành hành pháp về luật bảo hiểm; về luật thừa kế; về luật hôn phối để bảo vệ người phụ nữ và con trẻ lúc ly hôn được hài hòa với sự phát triển và thay đổi của xã hội. Về mặt bảo vệ công nhơn, nghiệp đoàn công nhơn phải có vai trò của nghiệp đoàn, là bảo vệ quyền lợi của công nhơn đối với chủ nhơn, Nhà Nước chỉ có vai trò trung gian mà thôi. Mỗi luật lao động phải được thương thuyết với các đại diện nghiệp đoàn, nghiệp đoàn lao động phải có từng ngành, vì mỗi ngành có những đặc biệt và dị biệt đối với ngành nghề ấy. Mỗi mỗi hoạt động xã hội phải có những “Xã hội dân sự”, “Hội đoàn” để bảo vệ. Ý niệm Đạo Đức chánh trị và xã hội phải được nêu cao.
Cũng với ý niệm Đạo đức chánh trị và xã hội, những “Xã hội dân sự Chánh trị” sẽ là những hoạt động xã hội có tánh cách chánh trị được khuyến khích. Những xã hội chánh trị sẽ giúp các nhà cầm quyền đi đến sự quản lý tốt (la bonne gouvernance). Những xã hội chánh trị có thể là những hội đoàn công dân (associations citoyennes), những nhóm nghiên cứu và suy nghĩ (think tanks) hay là những Đảng phái.
Quan niệm Đảng phái “làm” chánh trị để “cướp chánh quyền” là một quan niêm sai lầm. Vai trò đầu tiên của Đảng chánh trị là “tham dự chánh trị”, tham dự chánh trị một quốc gia là “đồng quản lý” (co – gouverner). Tham dự ở ngay hạ từng cơ sở, ở quận, ở xã, ở làng với quan niệm “kiểm soát và đề nghị thay thế” (checks and balances). Đồng quản lý, là dòm ngó, thúc đẩy, đòi hỏi, chỉ trích, bàn tính, đề nghị và thay đổi cách điều hành ngay từ hạ từng cơ sở của xã hội. Đó là sử dụng quyền công dân, sử dụng quyền dân chủ. Trách nhiệm nhà cầm quyền, là điều hành tốt cơ sở từ dưới lên trên, tức từ xã, quận, tỉnh, quốc gia. Bên cạnh cơ quan hành chánh, bên cạnh cơ quan dân cử phải có những “Xã hội công dân” để làm nhiệm vụ kiểm soát, thúc đẩy, đề nghị…
Dân chủ tham dự là như thế. Phải phá vỡ bức tường mà “các nhà chánh trị chuyên nghiệp” đã tạo thành một “thị trường chánh trị”.
7. Một xã hội có trách nhiệm và đạo đức
Không phải chỉ tạo ra những hội đoàn, những xã hội dân sự là chúng ta có dân chủ tham dự. Phải có những “con người thật sự dân chủ”.
Thật sự dân chủ là phải có tinh thần trách nhiệm. Việc đầu tiên là dấn thân, và khi dấn thân ta phải có tinh thần trách nhiệm. Chú ý đến người khác, quan tâm đến tha nhơn, biết lắng nghe ý kiến của kẻ khác trong tinh thần tương kính, tương trọng và đạo đức trách nhiệm. Vạn sự khởi đầu nan, thoạt tiên bao giờ cũng khó, nhưng nếu biết cố gằng sẽ thành tập tục. Và khi đã đi vào tập quán, những người thờ ơ sẽ được cuốn hút đi vào dân chủ cùng với mọi người.
Trách nhiệm và Đạo đức phải được trau giồi từ thuở nhỏ. Dạy con từ thuở còn thơ. Con trẻ được trau giồi tinh thần trách nhiệm, đạo đức công dân, lòng vị tha, tương kính, sẽ là những công dân tốt. Hãy tổ chức ngay vào tuổi thơ những hội đoàn học sanh, biết làm nghĩa vụ công dân, biết quan tâm đến láng giềng, quan tâm đến tình bằng hữu, tinh thần hội đoàn, biết cá nhơn sống và hoạt động trong môi trường của mình, đi thăm người già, đi giúp đỡ người khiếm tật. Ngày nay, ở các quốc gia tiên tiến, và ngay cả ở Việt Nam, những Nhà thờ, những Hội thánh tôn giáo, những nhà Chùa, thường tổ chức những “Hội đoàn thanh thiếu niên” hướng dẫn các con trẻ tín hữu vừa học Giáo lý vừa làm việc thiện. Chúng tôi muốn nói, chúng ta không nên để việc ấy cho các Hội Thánh tổ chức, vì đấy không phải là việc thiện mà là “việc chung” , “việc của cộng đồng”. Tổ chức các “Hội đoàn thanh thiếu niên” là bổn phận giáo dục của nhà trường.
Phải đưa vào giáo dục những quan niệm: “xứng đáng”, “trách nhiệm”, “việc chung ”, “tự trọng”, “ tương kính”. “Con người và môi trường” phải biết sanh hoạt với những “Con người và môi trường”. Sống chung, sống cùng, chia xẻ một khung xã hội phải cần những đức tánh và đạo đức ấy. Sống chung là nhìn nhau, chào nhau và tôn trọng lẫn nhau.
8. Thay lời kết
Việt Nam đã đi vào Tổ chức thương mại quốc tế, Việt Nam ngày nay đã là hội viên của nhiều hiệp hội quốc tế, dầu Nhà cầm quyền Cộng sản có muốn hay không muốn, Dân chủ cũng sẽ đến với Việt Nam. Nhà cầm quyền Việt Nam không thể mãi mãi coi Dân chủ là một món hàng cấm ở Việt Nam. Nhơn dân Việt Nam đang như trăm hoa đua nở, rộ lên những bộc phát, những nhu cầu dân chủ, những đòi hỏi công bằng pháp lý, những nhu cầu phát biểu, ngôn luận, ý kiến… đang dấy lên, điển hình qua những hội đoàn, đoàn thể, đảng phái..Tất cả những ấp ủ thầm kín đè nén đang bừng dậy. Nhà cầm quyền Cộng sản không thể mãi mãi bịt mồm 80 triệu đồng bào được.
Kiểm soát sự Dân chủ đang thức dậy bằng Công An trị, như nhà cẩm quyền cộng sản đang làm ở Việt Nam không phải là một giải pháp. Bắt và đàn áp người đấu tranh đòi dân chủ, bắt và đàn áp người xem mạng internet, bắt và đàn áp những vị luật sư đang hành nghề, vì những vị Luật sư nầy đang lập hồ sơ kiện cáo cho những người đi kiện Nhà Nước, là « phản nhân quyền », « phản dân chủ ».
Quyền được bào chữa là một quyền tối thiểu của con người. Anh có quyền buộc tội, tôi có quyền bào chữa. Anh phải chứng minh tôi có tội, tôi sẽ chứng minh tôi vô tội. Đó là Dân chủ. Nhà cầm quyền phải tạo phương tiện để buộc tội và bào chữa tội : đó là Tòa Án, đó là thẩm phán, nhưng đó cũng là luật sư, mỗi phần hành một vai trò. Trạng sư, thẩm phán, quan tòa. Tòa Án xữ Đại hình thì có Nhơn dân làm quan tòa, đó là bồi thẩm đoàn, các vị bồi thẩm là những công dân được lựa chọn để làm nhiệm vụ xét xữ những vụ án có tánh cách quan trọng, đại hình.
Nhà nước Cộng sản Việt Nam muốn đưa quốc gia Việt Nam đi vào con đường Phát triển, muốn đưa dân tộc Việt Nam vào con đường văn minh, hãy biết soạn mình để chứng tỏ mình là những người lãnh đạo văn minh. Hãy nhìn kỹ và tự xét mình tại sao ngày nay, có những phiền hà, khiếu nại, đòi hỏi của rất nhiều từng lớp nhơn dân trong xã hội Việt Nam như vậy ? Hãy lắng tai nghe những đòi hỏi ấy. « Tự kiểm thảo và kiểm thảo » là một sanh hoạt Đảng cộng sản. Tại sao không làm ? Trái lại, đàn áp, trù dập người dân đòi dân chủ để làm gì ? Hay là đây là một phương pháp « Đàn áp để Dạy dân ».
Giáo dục công dân bằng đàn áp, bằng Công An cũng không phải là một giải pháp. Người dân ngày nay không còn « mê » chủ nghĩa cộng sản nữa, người dân ViệtNam ngày nay không còn « sợ » Công An cộng sản nữa.
Giải pháp tốt là : hãy biết đối thoại, hãy biết lắng tai nghe, mặt nhìn mặt, hãy biết chào đón những lời chỉ trích, đúng thì phải biết nhận và sửa sai, sai hãy chứng minh, nhưng hãy biết nói chuyện với nụ cười, hãy tôn kính người dân. Dân chủ là đối thoại với dân, Dân chủ là đối thoại với đối lập ; Dân chủ tham dự là đón nhận tiếng nói của người dân, của đối lập, và chấp nhận đối lập ; chấp nhận chỉ trích là chấp nhận dân chủ…
Và quan trọng hơn,
Hãy biết cám ơn những nhà đấu tranh dân chủ Việt Nam ngày nay đã biết lựa chọn đấu tranh ôn hòa để sửa sai cái quản lý kém của nhà cầm quyền hiện tại, vì những nhà đấu tranh dân chủ Việt Nam nầy đã biết quan tâm đến sự sanh tồn của đất nước và dân tộc.
Hãy biết cám ơn những nhà đấu tranh dân chủ Việt Nam ngày nay đã biết tạo ra những xã hội công dân để đối thoại, để tạo đối tác chánh trị, để tham dự vào chánh trị, để làm phận sự công dân, lo cho việc chung, tiến tới một nền dân chủ tham dự, pháp trị và hiến định.
Hãy lắng nghe tiếng nói của công dân,
Hãy trả quyền công dân lại cho công dân !
Phan Văn Song
Hồi Nhơn Sơn, 1 tháng 8 2010
Tham Khảo:
Yves Canne : Le juste pouvoir. Essai sur les deux chemins de la Démocratie.
J.Cl Lattès, coll Pluriel Paris 1984.
Anthony de Jasay : l’Etat, la logique du pouvoir politique. Préface de Pascal Salin
Les Belles Lettres, coll Laissez-faire Paris 1994.
Gordon Tullock : Le Marché politique. Analyse économique des processus politiques
Association pour l’économie des Institutions. Economica Paris 1978
Ségolène Royal, Dominque Strauss-Kahn, Laurent Fabius : Programmes politiques pour être candidat du Parti Socialiste à l’élection présidentielle 2007.