Quyết định mà tôi nói tới ở đây là quyết định dựng tượng Đức Thánh Trần ở Little Saigon. Tôi không rõ trên giấy tờ liên lạc với Toà Thị Chính Thành Phố Westminster ban tổ chức đã dùng danh xưng của tượng là gì nhưng ở đây tôi vẫn dùng danh xưng là Tượng Đức Thánh Trần. Tôi dùng danh xưng Đức Thánh Trần là vì đây là danh xưng mà quảng đại dân gian Việt Nam từ Bắc chí Nam và bây giờ ở Hải Ngoại dùng để vừa tôn kính vừa yêu thương, gần gũi hơn thường gọi Ngài thay vì các danh xưng Hưng Đạo Vương và ngay cả Trần Hưng Đạo dùng nhiều hơn trong học đường và trong sách vở. Có nhiều lý do tôi xin được trình bầy trong bài viết này.
Đức Thánh Trần là nhân vật lịch sử duy nhất được dân gian coi là đã hiển linh che chở giúp đỡ mọi người, chống lại tà ma quỷ quái, từ đó được mọi người coi như một vị Thánh của cả dân tộc
Khác với các nhân vật lịch sử khác như Hùng Vương, Hai Bà Trưng, Triệu Quang Phục, Lý Thường Kiệt, Lê Thái Tổ, Quang Trung …, tất cả đều có đền thờ và được dân chúng địa phương quanh năm hương khói, đến ngày kỵ đều được các quan lại địa phương hàng năm chính thức đến tế. Chỉ riêng có Trần Hưng Đạo ngoài đền thờ còn được coi là đã hiển linh để phủ hộ, giúp đỡ đồng bào của mình, che chở mọi người chống lại tà ma, quỉ quái. Đức Thánh Trần với các con trai và các gia tướng của Ngài như Yết Kiêu, Dã Tượng luôn luôn được truyền tụng là đã hiển linh trong các công tác này. Những chuyện như Phạm Nhan chuyên môn tìm ăn máu dơ của phụ nữ làm cho họ mắc bệnh, mảnh chiếu lấy từ đền thờ của ngài là những chuyện phổ thông trước đây ai cũng biết
Một sự kiện liên hệ khác ít ai biết tới là sự hiển linh của Đức Thánh Trần và sự tin tưởng của quần chúng vào sự hiển linh này đã đưa tới sự hình thành của một tôn giáo mới của người Việt gọi là Nội Giáo. Nội Giáo là tôn giáo từ bên trong để phân biệt với Ngoại Giáo du nhập từ bên ngoài mà ngài là vị thần chính được thờ. Nội Giáo là tôn giáo riêng của ngươì Việt Nam, của nước Việt Nam độc lập. Sự xuất hiện của Nội Giáo với Thánh Địa là Đền Kiếp Bạc đã nói lên tinh thần độc lập của người Việt cho tới thời Ngài chưa có. Cùng với Thánh Mẫu Liễu Hạnh, một trong “Tứ Bất tử”[1] của người Việt, ngài được thờ như vị Cha chung của cả dân tộc:
Tháng Tám giỗ Cha, tháng Ba giỗ Mẹ.
Tháng Tám âm lịch từ ngày 16 đến ngày 18 là ngày giỗ Đức Thánh Trần và trong 10 ngày từ 1 đến 10 Tháng Ba âm lịch là Ngày hội Phủ Giầy ở làng Tiên Hương, huyện Vụ Bản tỉnh Nam định là ngày giỗ Chúa Liễu Hạnh, hai ngày hội lớn được rất đông người tới dự trước kia, trước thời chiến tranh và luôn cả hiện tại. Hội Phủ Giầy được tổ chức hàng năm là hội lớn nhất, vui nhất, có nhiều trò chơi nhất của người Việt. Con số người tham dự càng ngày càng gia tăng, gia tăng gấp bội so với thời Pháp thuộc, trong đó có rất đông các cán bộ Cộng Sản đi “xe con” tới dự.
Chưa hết, song song với truyền thống thờ Đức Thánh Trần và Chúa Liễu Hạnh, người Việt Nam còn có tục lên đồng. Nếu Đức Thánh Trần và Chúa Liễu Hạnh chỉ được chính thức thờ ở các đền thì trong dân gian, các ngài được thờ ở rải rắc khắp nơi qua các đền miễu do các cộng đồng địa phương lớn nhỏ, do tư nhân xây dựng và được các ông bà đồng coi giữ. Nơi đây các cuộc lên đồng thường xuyên được thực hiện, kể cả hiện tại ở Westminster, ở Garden Grove ở Hải Ngoại mà người viết đã có dịp nhiều lần tới dự và rất vui khi thấy một tín ngưỡng xưa, có thời bị bài bác, nay lại sống lại ở Hải Ngoại. Chính ở những nơi này, lịch sử của dân tộc Việt Nam, đúng hơn những bài dã sử, đã được gìn giữ xuyên qua những bài hát chầu văn, một thứ văn chương, âm nhạc vô cùng phong phú cho tới nay chưa được sưu tầm, nghiên cứu, tìm hiểu đầy đủ và tường tận.
Người Tàu và người Hy Lạp khi dời bỏ quê hương ra đi tị nạn cũng đã mang theo thần linh của họ.
Cuối cùng, sự kiện các dân di cư tị nạn khi ra đi đã mang theo các thần của mình là một sự kiện đã xảy ra từ lâu trong lịch sử nhân loại. Dân Hy Lạp trong các thế kỷ thứ bảy và thứ tám kéo dài đến hết thế kỷ thứ năm trước Thiên Chúa, khi có những cuộc tranh chấp nội bộ ở các đô thị-quốc gia, những city-states, những polis, củahọ, điển hình là hai đô thị Athens và Sparta, các phe bại trận bị loại trừ (ostracized, ostracism) phải bỏ xứ mà đi. Họ đã tạo nên một đường viền Hy Lạp chung quanh Địa Trung Hải với những quốc gia-đô thị, những polis mới ở nam Âu, ở Tây Á và luôn cả ở Phi Châu. Khi ra đi họ đã mang theo văn minh Hy Lạp và đặc biệt là các thần linh Hy Lạp của họ. Với những yếu tố văn minh, văn hóa và đặc biệt là tín ngưỡng này, những đô thị-quốc gia mới của họ, mặc dù vẫn giữ được những liên hệ lịch sử, văn minh và văn hoá, đã trở thành hoàn toàn độc lập với các đô thị-quốc gia mẹ, đã tự mình đứng vững và phát triển, không còn bị các quốc gia-đô thị mẹ chi phối về phương diện chính trị và sinh hoạt hàng ngày nữa.
Người Tầu khi di cư ra khỏi quê hương của họ cũng làm những việc tương tự. Bằng chứng là các “chùa Tầu” đã hiện diện ở khắp thế giới và ở miền Nam Việt Nam rất nhiều, đặc biệt là ở Saigon. Tất cả đã trở thành nhũng nơi thăm viếng mà du khách khi tới Saigon đều phải biết và ít nhiều ghé qua. Chính người viết bài này hồi trước năm 1975, khi dẫn sinh viên đi du khảo quanh vùng Thủ Đô Saigon, cũng đã ghé thăm những nơi này. Điều đáng để ý là những nơi nàyluôn luôn có nhiều khách hành hương tới viếng trong đó rất đông là người Việt. Nơi đây khói hương ngày đêm nghi ngút, không bao giờ tàn lạnh.
Dựng tượng Đức Thánh Trần không chỉ là để tôn vinh một vị anh hùng có công ơn bậc nhất của cả dân tộc mà còn biểu lộ tinh thần độc lập của Người Việt Hải Ngoại là chỗ dựa tinh thần của người Việt
Cho tới nay, Cộng Đồng người Việt ở Hải Ngoại đã được gần tròn 40 tuổi, đã trải qua giai đoạn sống còn, đã mỗi ngày mỗi thêm vững mạnh về đủ mọi phương diện để trở thành thành phần thứ hai độc lập với thành phần thứ nhất của dân tộc Việt Nam.
Cộng Đồng Hải Ngoại của chúng ta trẻ trung hơn, năng động hơn,có tiềm năng hiểu biết cập nhật hơn, có nhiều khả năng phát triển hơn nhờ đã hình thành và phát triển trong những quốc gia tân tiến nhất trên thế giới, so với thành phần thứ nhất mỗi ngày già cỗi hơn, mòn mỏi hơn, kiệt lực hơn, không còn đủ khả năng nhận thức và ngay cả sử dụng những khả năng trí tuệ vẫn còn không ít của mình. Tuổi trẻ Việt Nam ở Hải Ngoại có thể vào và đã vào bất cứ một đại học danh tiếng nào nếu các em mong muốn và được cha mẹ khuyến khích. Rất đông các em đã đạt được điều này. Cộng Đồng Việt Nam Hải Ngoại đã tự mình hội đủ mọi điều kiện để tự đứng vững. Chúng ta đã có đầy đủ nếu không nói là khá đông các chuyên viên trí thức thượng thặng từ các khoa học gia, các giáo sư đại học, các học giả tốt nghiệp từ các học viện lớn và hiện đang phục vụ trong các trung tâm, các viện nghiên cứu bậc nhất trên thế giới để góp sự hiện diện của mình với các sắc tộc khác. Chúng ta cũng đã có những chỉ huy cao cao cấp trong quân đội, kể cả tướng lãnh. Hãy tưởng tượng hình ảnh một vị chỉ huy dẫn đầu nhiều ngàn sĩ quan, binh sĩ dưới quyền, thuộc đủ mọi thành phần, chủng tộc, dẫn đầu các cuộc thao diễn, dẫn đầu họ chạy bộ hàng ngày hay nghiêm chỉnh chào cờ trong căn cứ của đơn vị mình. Vị chỉ huy đó là người Việt. Anh là vị tướng đi sát với binh sĩ của mình, tướng của trận mạc, không phải tướng của phe phái, nói cách khác, tướng cảnh. Con em của chúng ta đó! Hãnh diện biết là chừng nào! Chúng ta cũng có những chỉ huy trưởng khu trục hạm tối tân nhất của Hải Quân Hoa Kỳ, những nữ đại tá người nhỏ thó chỉ đứng đến nách những đồng sự hay thuộc cấp của mình nhưng vẫn được họ chào kính một cách trịnh trọng. Họ cũng là con em của chúng ta đó. Hãnh diện biết là chừng nào! Họ thuộc thế hệ một rưỡi, luôn cả thế hệ thứ hai của tị nạn Việt. Tất cả đều vẫn còn thông thạo tiếng Việt, đã trả lời dễ dàng, trôi chảy các cuộc phỏng vấn bằng tiếng Việt. Tất cả đều đã trở thành “người”, đã “nên người”, đã lập được sự nghiệp trên quê hương mới mà không cần tới sự trợ giúp của các “đỉnh cao trí tuệ của loài người”.
Chưa hết! Bây giờ thì họ đã ngồi lại với nhau để trở thành một lực lượng quân nhân gốc Việt trong quân đội Hoa Kỳ và sẽ dẫn đường cho thế hệ thứ ba. Cầu mong các em sẽ thành công mỹ mãn. Trong địa hạt chính trị, người Việt nay cũng đã đi rất sâu và rất cao trong hệ thống chính quyền của nhiều nước, ở đủ cả ba ngành, ngay cả ở cấp trung ương. Nhiều người trẻ cũng đã xuất hiện và đã thành công xuất sắc. Họ thông thạo ngôn ngữ, được học, được sống và hiểu biết về xã hội nơi họ đang cư ngụ. Họ bắt đầu thay thế cho thế hệ cha anh đã đến tuổi xế chiều, nhưng vẫn hiểu biết về Việt Nam và thông thạo tiếng Việt. Trong tương lai, các em sẽ còn đi xa và lên cao hơn nữa.
Sang một địa hạt khác gần gũi với mọi người hơn là địa hạt giáo dục. Ở đây tôi chỉ nói vế các cấp trung tiểu học và mẫu giáo, những cấp học cơ bản liên hệ trực tiếp tới các em nhỏ của chúng ta trong cộng đồng. Con số những thày cô giáo người Việt hiện diện trong các trường địa phương mỗi ngày một nhiều. Nghề làm thày cô giáo không còn bị chê so với các nghề khác như trong những thập niên đầu. Nhiều người tỏ ra đã yêu mến nghề dạy học ngay từ khi còn học ở bậc trung và luôn cả tiểu học. Họ đã đạt được ước vọng và sau nhiều năm hành nghề vẫn tỏ ra yêu nghề hơn bao giờ hết. Nhiều người đã chuyển sang cấp chỉ huy làm hiệu trưởng, phó hiệu trưởng các trường khi chán phụ trách lớp. Nên nhớ là, ít ra là ở Mỹ, dạy ở cấp nào cùng được coi là quý, là trọng, không nhất thiết là ở bậc đại học, nơi kiếm được một chỗ làm rất khó vì rất hiếm, cạnh tranh giữa các sắc dân Á Châu rất nhiều, bè cánh phe phái rất nhiều. Điều quan trọng là ở chính mình và hạnh phúc của chính mình.
Để hướng về các con em nhỏ trong cộng đồng, riêng ở miền Nam California hàng trăm trung tâm Việt Ngữ đã được thành lập ở các chùa, các nhà thờ hay các lớp mượn của các trường địa phương trong những ngày cuối tuần do các thày cô đã về hưu hay các sinh viên đại học phụ trách. Hàng ngàn thày cô đã tham gia công tác này với hàng chục ngàn trẻ em được cha mẹ mang tới dự. Hãy tưởng tượng các vị này đã kiên trì, cố gắng như thế nào để cứ tình nguyện mỗi cuối tuần mỗi đến, tuần này qua tuần khác, tháng này qua tháng khác, năm này qua năm khác, thường xuyên dạy các em, không nửa chừng bỏ dở. Họ âm thầm làm công việc của mình và dường như ít được cộng đống biết đến, thăm viếng và khích lệ.
Cộng đồng của chúng ta đã độc lập, đã tự đứng vững và phát triển trong suốt 39 năm qua không hề phải nhờ và vào chính quốc. Trái lại, hàng chục tỷ đô la hàng năm đã được gửi về làm giàu cho các cán bộ và các đại gia ở trong nước. Có điều thay vì để yên cho thành phần thứ hai của dân tộc này phát triển để hỗ trợ lẫn nhau, cùng nhau song song phát triẻn, cùng hưởng thì các “đỉnh cao trí tuệ” ở trong nước đã coi nó như một con gà đẻ trứng vàng, tìm cách ảnh hưởng tới nó, bắt nó đẻ nhiều hơn, thậm chí bắt và giết nó. Riêng trong phạm vi dạy tiếng Việt có người còn cổ võ đưa các thày ở trong nước ra dạy ở các trường hải ngoại. Cổ võ nhưng vị này không hề quan tâm đến tình trạng suy đồi thậm tệ của tiếng Việt ở ngay chính trong nước mà rất nhiều bài thuyết trình, khảo cứu đã được phổ biến trong nhiều cuộc hội thảo ở khắp nơi trên thế giới, ở Mỹ. ở Canada, ơỏ Úc, ở Pháp, trên báo chí, truyên truyền thanh, truyền hình, trong những năm qua.
Tiếng một thời được coi tiêu chuẩn là tiếng của người Hà Nội bây giờ không còn nữa. Người Hà Nội bây giờ nói thứ tiếng gì, khó mà định nghĩa hay ít ra là kiếm một tên gọi. Người ta bảo đó là tiếng Kẻ Noi, do các lãnh đạo Cộng Sản ít học từ Nghệ An, Thanh Hóa ra, mang theo đồng hương của họ, tràn ngập Hà Nội hhồi sau năm 1954. Họ nói tiếng nói của họ và vì họ có quyền, có lực nên mọi người bắt chước. Giải thích này chẳng biết có đúng hay không nhưng có một điều là người viết bài này trong một dịp nói chuyện với các sinh viên Đại Học Cornell đã được hai nữ sinh viên từ Hà Nội sang học lấy bằng tiến sĩ tới nghe. Cuối buổi thuyết trình, hai cô lên nói cho người viết biết là “ Lâu lắm chúng cháu mới được nghe người Hà Nội nói”. Câu nhận xét làm tôi ngạc nhiên vì tôi là người gốc Nam Định chứ không phải là người Hà Nội nhất là người Hà Nội của thời các cụ Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh, Bùi Kỷ, Trần Trọng Kim, các nhà văn trong Tự Lực Văn Đoàn hay các nhà văn khác…, đã mài mòn gót giày trên các đường phố của thủ đô thanh lịch này hồi đầu thế kỷ trước hay thời trước năm 1954. Gần đây hơn nữa là ở ngay trong nước, chỉ ít năm trước đây, nhà cầm quyền giáo dục đã đưa ra quyết định huyấn luyện lại các thày cô không phân biệt được hai phụ âm “l” và “n” mà trong nước gọi là “lờ” “nờ” .
Người viết bài này cũng được Đài Quốc Tế Pháp, RFI, phỏng vấn về vấn đề này. Nên nhớ rằng không chỉ có chuyện phát âm mà ngay cả trong ngữ vựng và cách đặt câu, tếng Việt ở trong nước “có rất nhiều vấn đề”. Nó đã càng ngày càng trở nên nghèo nàn, thiếu chính xác, thiếu trong sáng, thiếu lịch sự, thiếu thanh nhã của tiếng Việt thời xưa. Không biết rằng khi cổ võ cho việc đem thày cô ở trong nước ra Hải Ngoại dạy hay đem các thày cô ở ngoài này về học thêm ở trong nước, nhân vật đang là đề tài bàn tán trong Cộng đồng Hải Ngoại, vị này, một giáo sư dạy ở hai đại học trong vùng, có hiểu và theo dõi kỹ thường xuyên và đầy đủ tình trạng tệ hại của tiếng Việt ở trong nước, nói riêng hay tình trạng bi thảm của nền giáo dục ở trong nước hay không mà lại vội vã như vậy. Không lẽ ông làm như vậy là để làm vừa lòng những người đã đón tiếp ông và giúp đỡ ông trong những chuyến về Việt Nam của ông? Nhưng có nhiều phần ông đã không theo dõi và không hiểu vì ông chỉ yêu thích và lo dạy học trò của mình mà không làm công việc này. Nếu thế thì ông đã quên hay không biết là dầu cho đã được huấn luyện theo đúng quy mô trong ngành của mình, các giáo sư đại học ở đâu cũng vậy phải luôn luôn cập nhật hóa các kiến thức chuyên môn và điều mình dạy, không thể cứ lập đi lập lại những bài đã dạy khóa này qua khóa khác, năm này qua năm khác. Chỉ nhìn vào các syllabi và bản tiểu sử các vị giáo sư hay giảng viên cập nhật hoá hàng năm hay cả hàng mỗi khoá là người ta thấy được điều này. Họ đã dạy cả đời và đã học cả đời. Lý tưởng của họ là nghiên cứu và dạy học không phải là quyền lực hay tiền bạc, danh vọng.
Trong một bài viết trước đây, nhằm kỷ niệm một ngàn năm Lý Thái Tổ từ Hoa Lư thiên đô ra Thăng Long, đăng trong Tập San Thế Kỷ 21,số 1, số ra mắt,người viết có đưa ra cái nhìn hơi bạo về lịch sử của dân tộc Việt Nam. Đó là lịch sử phải được tính bằng ngàn năm với ba dấu mốc chính: 111 trước Tây Lịch, 1010 sau Tây Lịch và những năm hiện tại của thiên niên kỷ thứ ba mà chúng ta đang sống, chứ không thể chỉ bằng chục năm, bằng trăm năm như lịch sử bình thường. Nhìn như thế để chúng ta có thể thấy những điều vô nghĩa mà nhiều ngươòi đã và đang làm. Nhìn như thế đế chúng ta có thể lạc quan về tương lai của dân tộc Việt Nam qua sự hình thành của Cộng Đồng Người Việt ở Hải Ngoại trong hai thế kỷ 20 và 21này.
Sự hình thành của Cộng đồng Việt Nam Hải Ngoại coi như thành phần thứ hai của dân tộc là một cơ hội ngàn năm một thuở chúng ta có được, sau khi người dân Việt Nam đã phải trải qua nhiều chục năm dài đầy chiến tranh, đau thương, chết chóc và bất hạnh. Biến cố bi thảm 1975 đã bẩy tung bà con chúng ta ra khắp thế giới để rồi sau ngót bốn mươi năm bà con Người Việt Hải Ngoại đã định cư và thành công ở khắp năm châu, không nơi nào là không có. Chúng ta đã không có được một lãnh thổ duy nhất, một chính quyền chung nhưng chúng ta có những con người, có chung một lịch sử, một nguồn gốc, đã ra đi trong cùng một hoàn cảnh, một thời điểm. Nói một cách khác, chúng ta đã có một Siêu Quốc gia Việt Nam không có lãnh thổ, không có chính quyền, không có thủ đô nhưng tất cả đều nằm sâu thẳm trong lòng mọi người dân của nó. Một siêu quốc gia như vậy thích hợp hơn với sinh hoạt quốc tế trong thời hiện tại, thời mà biên giới giữa các nước đã mờ dần trước sự phát triển chung của cả nhân loại. Cũng nói cách khác, nếu trong thế kỷ 19, một học sinh người Anh được học rằng “Mặt trời không bao giờ lặn trên Đế Quốc Anh” thì khác đi một chút, kể từ thế kỷ 20, một học sinh Việt Nam phải được học rằng “ Từ sau năm 1975, mặt trời không bao giờ lặn trên những miền đất có người Việt Nam cư ngụ.” Người Tầu cũng có thể nói câu tương tự. Họ cũng hiện diện ở khắp nơi trên thế giới nhưng vẫn không thể so sánh với người Việt. Lý do là vì người Tầu bỏ nước ra đi là họ chọn tha phương cầu thực, do họ chọn lựa còn người Việt thì không được chọn lựa. Sau ba chục năm triền miên đầy đau thương giết chóc với ít ra là bốn năm triệu người đã bị hy sinh, nước mắt tràn ngập khắp Trường Sơn ra tận Biển Đông. Họ đã bất đắc dĩ phải ra đi mà không biết sẽ đi đâu. Đến bây giờ thì tự mình và với sự giúp đỡ của chính quyền và người địa phương, bất chấp những sự dè bỉu, mỉa mai của nhà cầm quyền ở trong nước trong những năm đầu, các cộng đồng Việt Nam ở khắp nới trên thế giới đã trở thành vững mạnh thực sự so với thành phần còn lại ở trong nước. Bổn phận của chúng ta là phải bảo vệ và phát triển nó.
Chúng ta không thể để cho những người đang nhận sự giúp đỡ vô cùng to lớn của cộng đồng chúng ta, coi cộng đồng chúng ta là con gà mái đẻ trứng vàng bắt nó đẻ nhiều hơn, đẻ mãi, lợi dụng và giết nó. Chúng ta cũng phải lo cho chính chúng ta và con cháu chúng ta. Chúng ta đang sống ở đây và sẽ chết ở đây. Con cháu chúng ta cũng vậy. Những thế lực luôn luôn gây bất ổn từ non bảy mươi năm qua sẽ không tha chúng ta, không để cho chúng ta yên. họ luôn luôn muốn làm chủ chúng ta rồi làm chủ con cháu chúng ta như họ đã làm ở trong nước, bây giờ là Cộng Đồng Người Việt ở Hải Ngoại, cơ hội ngàn năm một thuở của chung cả dân tộc, cơ hội sẽ đưa dân tộc ta thoát khỏi tình trạng nhỏ bé và chậm tiến. Bất cứ hành động nào phá hoại Cộng Đồng Việt Nam Hải Ngoại đều là một tội đại ác đối với dân tộc Có điều họ sẽ bất cần, sẽ tiếp tục như họ đã làm trong quá khứ như các năm 1954, 1975. Nhưng họ sẽ không làm gì được chúng ta. Chiêu bài độc lập thống nhất không còn hiệu nghiệm nữa. Cộng Đồng của chúng ta đã vững mạnh và luôn luôn được các nhà cầm quyền bản xứ che chở. Chúng ta cũng đã có đủ mọi khả năng để tự mình đứng vững, nhất là kể từ bây giờ, với sự phù hộ ngày đêm của Đức Thánh Trần và bên cạnh Ngài là Chúa Liễu Hạnh. Chúng ta không cần phải có sự giúp đỡ từ bên ngoài, nói trắng ra là từ những người này. Phạm Nhan đã bị chém đầu từ bảy thế kỷ trước tuy vẫn còn lảng vảng khắp nơi để kiếm máu dơ của phụ nữ nhưng y sẽ không làm gì được chúng ta vì chúng ta đã có Đức Thánh Trần và Chúa Liễu Hạnh luôn luôn hiển linh và che chở cho chúng ta. Chúng ta hãy cùng nhau giữ cho tượng ngài quanh năm sạch sẽ và nếu có, hương khói lúc nào cũng nghi ngút, để trở thành một thắng tích bất cứ ai ghé Little Saigon đều phải ghé qua để tỏ lòng tôn kính ngài.
Để kết luận, tôi mượn chữ và ý của Nhà Văn Ngô Nhân Dụng.[2] Chúng ta đã đứng vững ít ra là hai ngàn năm và chắc chắn sẽ còn đứng vững thêm nhiều ngàn năm nữa. Vấn đề là do chúng ta. Chúng ta đã khơi lại được mạch sống của bảy trăm năm trước. Chúng ta có sống lại được với sức sống do tiền nhân truyền lại cho chúng ta hay không? Điều này tùy thuộc ở chính chúng ta. Chúng ta sẽ coi quyền lực, danh lợi tiền bạc của cá nhân hay phe nhóm là trọng hay sự tồn vong của cả dân tộc là trọng. Đó là tùy thuộc chúng ta. Những người dang sống trên đất mẹ của chúng ta xem ra khó mà làm được điều này vì dù có muốn họ cũng không làm được và không được phép làm và cũng vì tất cả đều đã quá mòn mỏi, khô cằn, nếu không nói là kiệt lực. Tất cả chỉ còn trông cậy ở chúng ta và con cháu chúng ta.
Little Sàigòn những ngày chớm thu 2014
TS Phạm Cao Dương
[1] Ba vị kia là Tản Viên Sơn Thần (Thần núi Tản Viên), Phù Đổng Thiên Vương và Chử Đồng Tử.
[2] Qua tác phẩm Đứng Vững Ngàn Năm của ông, Người Việt xuất bàn.
2 Comments
nicole thuhuonglebarry
Kính Thầy
Bai viết của Thầy Phạm Cao Dương cho học trò thầy( là tôi người đang viết mấy giờng này) những bồi hồi, làm mắt tôi rưng rưng và tôi cảm thấy tôi hành diện biết bao khi có một quá khứ làm người Tị Nạn Cộng Sản Việt Nam.
Chúng ta sinh sống trên quê hương thứ hai là chúng ta đươc tái sinh để làm người. Quê hương VN trên mỗi bước chân của người Việt tị nạn Cộng Sản và của con cháu những người Việt này . Chúng ta chạy ra biển đông tìm tự do chứ không tìm miếng cơm manh áo như các đợt di dân trong lich sử nước Mỹ. Chi có khối người VN chạy giặc Cộng trôi nổi trên biển Đông sau ngày 30 tháng tư 1975 đã cho thế giới biết thế nào là sự tàn ác ác của Cộng Sản Việt Nam và cho quê hương thứ hai biết thế nào là sức mạnh của chứng ta.
Con cháu chúng ta hiện nay và mãi mãi vẫn là những công dân đóng góp rất nhiều cho quê hương: bất cứ nơi nào chúng ta có tự do và được quyền sống trên thế giới. Cộng đồng vũng mạnh, người Việt có tiếng nói mạnh.
Quốc gia Ái Nhĩ Lan chỉ có 4 triệu 800 ngàn người sống tại quê. 20% dân Mỹ là gốc Ái Nhĩ Lan và 22 Tông Thống trong số 44 Tổng Thống Mỹ có giòng máu Ái Nhĩ Lan.
Chúng ta không phải về VN để chứng tỏ là người yêu nòi giống Việt. Hãy sống và làm được những gì quan trọng để mỗi lá phiếu của khối người VN Hải ngoại là những lá phiếu quan trọng mà bât cứ ai cũng cần lá phiếu của chúng ta.
Cám ơn Thầy với bài viết cho em hãnh diện hơn rằng em vẫnn thấy quanh em còn có những người yêu quê hương nòi giống Việt Nam đích thực .
Kính chúc Thầy luôn có sức khỏe cho tim chúng em những đứa học trò ngây thơ ngày nào biết mình vẫn còn có một quê hương và những bậc thầy yêu mến.
Kính.
Thu Hương-sinh viên Văn Khoa 65/68 và Đại Học Sư Phạm Saigon khóa 1970
PhạmCaoDương
Cô Thu Hương thân mến,
Tôi rất muốn gọi Cô Thu Hương là “Thu Hương” như gọi các sinh viên cũ của tôi hơn nửa thế kỷ trước và xưng là “thày”. Nhưng vẫn thấy bất tiện. Hồi đó Cô chỉ là một thiếu nữ mới lớn, trên dưới hai mươi, mới vào ngường cửa đại đọc và bây giờ mọi chuyện đã đổi khác rồi. Tạm thời gọi Cô bằng “Cô” vậy.
Cảm ơn Cô đã quan tâm tới bài tôi viết. Bây giờ tôi xin thưa với Cô như thế này:
Ý chính của tôi liên hệ tới chủ đề “Dựng Tượng Đức Thánh Trần ở Little Saigon” là qua ba tiếng Đức Thánh Trần mà tôi dùng, tôi muốn khơi dậy mạch sống đầy sinh lực, đầy linh khí đã và đang tiềm tàng, ẩn náu trong mỗi một con người Việt Nam chúng ta dù chúng ta ở bất cứ nơi nào trên thế giói mà bây giờ chúng ta rất cần vì sau bao nhiêu đau thương, chếtchóc, nước mắt tràn ngập Biển Đông, chúng ta đã có được một Việt Nam thứ hai, một Việt Nam Trẻ với lãnh thổ trải rộng toàn cầu, chỗ nào cũng có Việt Nam nếu có người Việt.
Chúng ta đã có được môt Siêu Quốc gia Việt Nam trên đó mặt trời không bao giờ lặn mà người Anh hồi thế kỷ 19, và người Tầu hiện tại không có được vì nó không hình thành bằng xâm lăng, chém giết và đô hộ hay do tha hương cầu thực hay bành trướng kinh tế làm giàu. Siêu quốc gia của chúng ta hình thành bằng sự đau khổ, tủi nhục, bằng máu và nước mắt của hàng triệu dân tị nạn đã liên tục bỏ nước ra đi từ sau biến cố 1975 với hàng nửa triệu bỏ thây ngoài biển cả hay chết thê thảm nơi rừng rậm hoang vu, vào không có lối ra ở Kampuchea, không ai biết đến. Chúng ta không bao giờ được quên điều đó. Quên là vô ơn, là có tội.
Siêu quốc gia của chúng ta là món quà Trời cho ngàn năm một thuở chỉ dân ta mới có cái may có được. Nó hợp với sinh hoạt của thời đại mới giữa lúc biên giới, giữa các nước mỗi ngày một mờ nhạt dần trước sự phát triển của khoa học, kỹ thuật, kinh tế và thương mại. Nó sẽ giúp cho Việt Nam thoát khỏi tình trạng nhược tiểu để có cơ hội vươn lên nếu chúng ta biết nắm bắt. Nhưng vì nó hình thành bởi con người nên cần phải có sư tin tưởng của chính con người vào tương lai của chính mình, con cháu mình và cả dân tộc mình. Sau ngót bốn mươi năm tranh đấu để sinh tồn, để phát triển, các cộng đồng của chúng ta đã bắt đầu đứng vững. Các con cháu chúng ta đã bắt đầu thành công và lập nên sự nghiệp không nhỏ, với sự đóng góp rất là khiêm nhượng của chúng ta.
Chúng ta đã quá quan tâm đến quá khứ và đến Việt Nam ở bên kia mà quên đi chính con em của chúng ta ở bên này. Bây giờ thì chúng ta phải nghĩ lại và sửa đổi. Việc chỉnh trang lại những nơi mình đang ở là một việc làm vô cùng quan trọng. Chỉnh trang từ hình thức, vật chất tới tinh thần, từ cách suy tư, tín ngưỡng cao, thấp để người trẻ có thể tìm thấy một cái gì đó mà trở về với chính mình và với cộng đồng của mình và người già có chỗ để nương dựa trong lúc tuổi xế chiều. chúng ta có đầy đủ tư do đển làm điều này, nếu chúng ta muốn. Các nhà cầm quyền đia phuơng không bao giờ ngăn cản chúng ta cả nếu đó là hợp pháp.
Chúng ta phải trở về để đến với con cháu chúng ta và chăm sóc cho họ. Họ ở đâu, quê hương của chúng ta ở đó. Vợ con, chồng con chúng ta ở đâu, nhà chúng ta ở đó. Sáng đi, chiều về, chúng ta lại về đó , “về nhà”. Hãy dành một phần thì giờ, công, sức, tiền bạc cho con cháu chúng ta, cho chính quê hương trước mắt của chính chúng ta thay vì cho một nước Việt Nam quá già nua, cũ kỹ, cạn kiệt sinh lực, bạc nhược tinh thần nhưng con người ở đó vẫn một mực tin tuởng vào những gì lãnh đạo của họ chọn lựa và cho rằng mình đã chiến thắng, đã tiến bộ nếu không hơn thì cũng ngang với các nước tiền tiến trên thế giớivới đầy nhà chọc trời, với xa lộ chạy khắp lãnh thổ, với biệt thự nguy nga nhờ chiền thắng Miền Nam của họ.
Đã đến lúc chúng ta phải dùng thành ngữ bình dân “Bỏ đi Tám” hay “Tạm quên đi, Tám”, phải xét lại tất cả để khỏi phải hối tiếc là khi con cháu chúng ta còn nhỏ, còn nằm trong tầm tay chúng ta, chúng ta đã mải mê những chuyện khác hơn là chăm sóc họ, chơi với họ lúc chiều về hay bế ẵm họ, thay tã cho họ truyền lại linh khí của tổ tiên lại cho họ dạy họ học bài buổi tối trước khi họ có cuộc sống riêng, vượt khỏi tầm tay của chúng ta. Bây giở thì tự họ đã ý thức được họ là ai, đã cố gắng, đã thành công và lập được sự nghiệp và đứng vững. Phải chăng một lần nữa, đó là do Trời định, là do mạch sống chứa đựng đầy linh khí cuả ông cha chúng, tiềm ẩn trong mỗi con người Việt Nam của chúng ta, của các em? là linh khí, là khí hạo nhiên trong mỗi con người chúng ta, trong mỗi con ngưòi các em? Tôi không có câu trả lời, nhưng tôi vẫn tin ở tương lai lâu dài của dân tộc, ở “Sách Trời.” Kẻ kia có muốn chẳng làm gì được chúng ta. Chúng ta đã đứng vững hơn hai ngàn năm. Không cò lý do gì chúng ta không đứng vững thêm vài ba ngàn năm nữa để dân tộc Việt Nam sẽ mãi mãi trường tồn.
Cuối cùng tôi xin gửi Cô những câu thơ của Nguyễn Văn Giai mà tôi được học ttrước đây, trích tứ bài Hà Thành Chính Khí Ca nói về Tổng Đốc Hoàng Diệu:
Một vùng chính khí lưu hình
Rộng trong Trời Đất nhật tinh, sơn hà.
Hạo nhiên ở tại lòng ta.
Tấc gang son sắt hiện ra khi cùng.
Hơn thua theo vận truân phong.
Ngàn thu để tiếng anh hùng sử xanh.
Nhớ lại nhưng câu này, bây giờ tôi vẫn còn bồi hồi, xúc động. Các cụ Nhà Nho chúng ta ngày xưa là thế đấy ! Chúng ta đứng vững ngàn năm là nhờ thế đấy!
Xin Cô Thu Hương coi đây như một bài học ngắn ngoài chương trình để bài giảng thêm vui của tôi bên cạnh những bài học ngày xưa.
Mong Cô cho tôi thêm chi tiết để tôi liên lạc.
Thân mến,
Phạm Cao Dương