Fyodor Dostoevsky (1821- 1881) Với Tác Phẩm Tội Ác và Hình Phạt
1. Cuộc đời của Đại Văn Hào Dostoevsky
Fyodor Mikhailovich Dostoevsky chào đời vào ngày 30 tháng 10 năm 1821 tại thành phố Moscow, là con trai thứ hai trong 7 người con của ông Mikhail, một bác sĩ quân y được biệt phái qua phục vụ tại Bệnh Viện Maryinski chuyên chữa trị các người nghèo. Ông bố Mikhail là một con người cứng dắn, thẳng thắn trong khi bà mẹ lại có bản tính trái ngược, rất thụ động, tử tế và rộng lượng. Các sự kiện của gia đình quý tộc xa xưa này với cha mẹ có một vùng đất và hơn một trăm nông nô, đã là hình ảnh của các nhân vật với các bản tính thái cực trong các cuốn tiểu thuyết của Dostoevsky sau này.
Sau khi học xong bậc trung học, Fyodor được cha gửi theo học trường kỹ sư quân đội tại St. Petersburg vào năm 1838. Đây là một ngôi trường do Sa Hoàng lập nên. Mặc dù chăm chỉ và đã gây được nhiều ấn tượng tốt đẹp đối với các giáo sư và bạn bè trong trường, Fyodor vẫn cảm thấy đời sống sinh viên quá buồn tẻ, không hấp dẫn chút nào. Chàng thanh niên này thường dành thời giờ để học về văn chương, đọc rất nhiều tác phẩm của các tác giả danh tiếng, đồng thời cũng bắt đầu tiêu xài vào các cảnh ăn chơi nên luôn luôn thiếu thốn tiền bạc. Sau mỗi lần xin được tiền của gia đình, Fyodor lại thết đãi bạn bè bằng những buổi tiệc rượu hay đi đánh bài. Fyodor quá rộng rãi đối với các người khác và sống buông thả đối với mình, tới độ gần như tự hủy hoại thân thể. Khi người anh cưới vợ, Fyodor đã gửi tặng anh 150 đồng Rúp rồi hai tuần lễ sau hết tiền, lại xin anh 5 đồng. Bản tính tiêu xài bữa bãi, không biết quản trị tài chính này đã theo đuổi Fyodor trong suốt cuộc đời.
Trong thời gian Fyodor đi học xa nhà, ông Mikhail đã bị giết chết do các nông nô trong vùng nổi loạn và hình ảnh giết người bất ngờ và tàn bạo này luôn luôn ám ảnh Fyodor Dostoevsky khiến cho các tác phẩm của ông thường dùng đề tài là các tội ác. Và vào cuối cuộc đời, cái chết của người cha đã là căn bản cho tác phẩm danh tiếng “Anh Em Nhà Karamazov” (The Brothers Karamazov).
Cách phân tích tâm lý của Fyodor Dostoevsky lúc đầu chưa được nhiều người chấp nhận và nhà văn này đã là đề tài bị châm chọc. Turgenev và Nekrasov cho phổ biến các bài thơ chế riễu, đề cập tới tác giả là nhà văn bất thường. Thực vậy, vào thời gian này Fyodor Dostoevsky đã bị bệnh nặng cả về tinh thần lẫn thể chất, vì các cơn sốt và cơn giật động kinh. Nhà văn Dostoevsky đã mắc chứng bệnh kinh phong (epilepsy).
Trước các bản tuyên ngôn và đòi hỏi cách mạng, Sa Hoàng Nicholas I nhất định rằng sẽ không có đổi thay nào trong các năm ông cai trị đất nước Nga, vì vậy việc kiểm duyệt càng trở nên gay gắt hơn, các hình phạt và số lượng mật thám gia tăng tại khắp nơi. Fyodor Dostoevsky cùng với các bạn 15 người, đã bị bắt và sau 9 tháng nằm tù trong hầm lâu đài “Peter và Paul”, tất cả bị đưa ra tòa, bị xét xử là có tội và sẽ bị xử bắn. Vào một buổi sáng mùa đông lạnh lẽo, các tử tù này bị chở tới nơi hành quyết. Sau khi các tội nhân bị bịt mắt, bị trói vào các cây cột, khi các binh lính đưa súng lên nhắm, sẵn sàng chờ lệnh thì trước vài giây đồng hồ, một thông tín viên của Sa Hoàng tới nơi, công bố lệnh giảm án. Thực ra, Sa Hoàng không có ý định bắn chết các nhà hoạt động cách mạng này mà chỉ muốn dạy cho họ một bài học đứng tim, làm cho họ khiếp sợ, khiến họ phải sống khuất phục trong chế độ của Sa Hoàng, nhưng đối với Fyodor Dostoevsky, bài học nhớ đời này đã ám ảnh nhà văn mãi mãi, không bao giờ có thể quên được, và ấn tượng của cõi chết đã quanh quẩn bên nhà văn với đề tài của người bị kết án xuất hiện trong rất nhiều cơ hội: trong các bức thư, bài báo và tiểu thuyết của Dostoevsky. Tình trạng tâm hồn của nhân vật Raskolnikov trong tác phẩm “Tội Ác và Hình Phạt” được bộc lộ qua câu nói: “Sống vẫn còn hơn là chết”.
Lòng ham muốn sống còn được mang ra thử thách đối với nhà văn Fyodor Dostoevsky: ông bị kết án 4 năm lao động khổ sai tại Omsk, thuộc tây nam miền Siberia lạnh buốt và 5 năm làm lính lao công chiến trường, phục vụ tại Semipalatinsk, cũng trong miền Siberia. Vào các năm tháng cô đơn này cùng với các gian khổ và thiếu thốn vật chất, người tù khổ sai chỉ có một tiêu khiển là đọc Kinh Tân Ước và Fyodor Dostoevsky đã thay đổi tư tưởng cả về tôn giáo lẫn chính trị: ông trở thành con người bảo thủ, ủng hộ chế độ cai trị của Sa Hoàng và tin tưởng vào Nhà Thờ Chính Thống Nga. Fyodor Dostoevsky bắt đầu xét lại các giá trị của đời mình, khởi sự không chấp nhận mù quáng các tư tưởng mới được du nhập vào nước Nga. Nhà văn trẻ này đã trở nên một con người đề cao nền văn hóa Slav và tin rằng sự cứu rỗi thế giới phải ở trong tay người Nga và sau này nước Nga sẽ thống trị toàn cầu. Như vậy, mỗi người Nga phải đóng góp vào việc phát triển các ý tưởng và văn hóa Nga. Cũng trong thời gian nằm tù này, Fyodor Dostoevsky đã tạo nên một thứ công thức quy định rằng con người phải chịu đựng đau khổ. Đối với nhà văn, chịu đựng đau khổ là cách tẩy sạch tâm hồn và xóa đi các tội lỗi. Chịu đau khổ đồng nghĩa với cứu rỗi.
Sau 10 năm tù tội, tức là vào năm 1859, Fyodor Dostoevsky được phép trở về thành phố St. Petersburg và tại nời này, nhà văn trở nên một con người mới nhưng vẫn giàu khả năng sáng tác. Ông cho xuất bản cuốn truyện “Các Ghi Chú từ Căn Nhà của Người Chết” (Notes from the House of the Dead, 1860), sau đó là một tiểu thuyết ngắn “Các Người bị xỉ vả và bị tật nguyền” (The Insulted and the Injured, 1861). Nhà văn Dostoevsky cũng bước vào phạm vi báo chí, cho ra đời tờ báo Vremya nhưng chế độ của Sa Hoàng đã đóng cửa tờ nhật báo này vì cho là có tính kêu gọi nổi loạn. Quá chán nản, Fyodor Dostoevsky quyết định rời khỏi nước Nga, qua châu Âu. Tại Wiesbaden, ông đã dùng số tiền lớn mang theo, cùng với một người đẹp tên là Polina Suslova trải qua nhiều ngày vui tại các nơi ăn chơi, tại các sòng bài, cho đến khi nhà văn không còn một đồng xu dính túi, phải biên thư về nước Nga mượn bạn cũ một số tiền trở về xứ. Cuốn tiểu thuyết “Kẻ Bài Bạc” (The Gambler, 1866) đã cho thấy đôi phần hình ảnh của chuyến du lịch này.
Fyodor Dostoevsky lập gia đình với một góa phụ có một đứa con riêng nhưng bà Maria sớm qua đời vì bệnh lao phổi. Vào thời gian này, nhà văn bị mắc nợ khá nhiều, nên bắt buộc phải cầm bút, cố công kiếm tiền trả đôi phần cho các chủ nợ nóng nẩy. Năm 1864 xuất hiện cuốn truyện “Các Ghi Chú từ Dưới Hầm” (Notes from Underground). Qua tác phẩm này, Fyodor Dostoevsky đã đề cập một cách rộng rãi các đề tài liên quan tới tự do, bản chất của lý trí (reason), và giá trị của cách chịu đựng đau khổ. Người ở dưới hầm (the Underground Man) đã bảo vệ tự do bằng mọi giá và phá bỏ mọi thứ sức lực giới hạn tự do, áp đặt từ xã hội, từ các loại khoa học và do chính bản chất của thiên nhiên.
Vào năm 1865, Fyodor Dostoevsky bắt đầu viết tác phẩm “Tội Ác và Hình Phạt” (Crime and Punishment, 1866) xuất hiện dần dần trên tờ báo “Người Đưa Tin Nga” (the Russian Messenger). Tác phẩm này đã xác định vị trí đặc sắc của tác giả trên Văn Đàn Nga bởi vì nhà văn Dostoevsky đã mô tả cuộc hành trình thực sự qua tâm lý con người, khiến cho người đọc trải qua nhiều lúc phải nín thở. Qua tác phẩm này, Fyodor Dostoevsky đã cho rằng tự do là một lực lượng tàn phá nếu thứ đó không tuân theo các nguyên tắc của Thiên Chúa giáo.
Vì nhu cầu phải viết truyện thật nhanh theo lời hứa, nhà văn Dostoevsky đã mướn cô Anna Grigorievna Snitkina đánh máy các bản thảo. Năm 1867, ông kết hôn với cô Anna này. Họ đi du lịch châu Âu và tác phẩm “Kẻ Ngu Đần” (The Idiot, 1869) được bắt đầu. Qua cuốn truyện này, Fyodor Dostoevsky cố gắng tạo ra hình ảnh của một người hoàn toàn tốt lành, theo ý nghĩa của Thiên Chúa giáo và tác giả đã đi tìm các câu trả lời với các người khác nhau. Giống như Chúa Ki-tô, nhân vật trong truyện là Hoàng Tử Myshkin đã bị hiểu nhầm và bị bạc đãi. Myshkin biết rằng mỗi người đều cho rằng mình đúng bởi vì các quan điểm khác nhau và vì vậy, một người hoàn toàn tốt lành không nên kết tội các bạn bè của mình.
Vào năm 1868, gia đình Dostoevsky sinh ra đứa con gái Sonya nhưng bé gái này bị chết yểu vài tháng sau. Khi nhà văn và vợ đi qua châu Âu, bệnh kinh phong của Dostoevsky gia tăng. Về sau, nhà văn có thêm ba đứa con: Liubov, con gái sinh năm 1869, con trai Fyodor sinh năm 1870 và con trai Alyosha sinh năm 1875.
Fyodor Dostoevsky trở lại St. Petersburg vào năm 1871 và liên lạc với các nhóm bảo thủ. Trong hai năm 1871-72, Dostoevsky viết ra tác phẩm “Các Người bị Quỷ ám” (The Possessed). Cuốn truyện này đôi khi được dịch thành “Các con Quỷ” (The Devils). Cả cuộc đời về sau của Fyodor Dostoevsky bị phiền nhiễu vì các vấn đề gia đình, bệnh kinh phong và nợ nần. Nhà văn phải viết thật nhiều, thật nhanh để kiếm ra tiền, trả bớt các món nợ bị thôi thúc. Nhờ các đức tính của bà vợ sau Anna Snitkina, gia đình Dostoevsky đã ổn định về tài chính, họ đã có tiền đi du lịch châu Âu, thuê một căn nhà miền quê vào mùa hè và Fyodor có thời giờ rảnh rỗi, giành cho công việc viết văn.
Sức khỏe của Fyodor Dostoevsky luôn luôn yếu kém sau những năm lao tù tại miền Siberia. Trong thập niên 1870, nhà văn này còn mắc bệnh lao phổi, rồi căn bệnh trở thành ung thư phổi khiến cho nhà văn qua đời vào ngày 28 tháng 1 năm 1881, một năm sau khi xuất bản tác phẩm cuối cùng và lớn lao nhất, đó là cuốn tiểu thuyết “Anh Em Nhà Karamazov” (The Brothers Karamazov, 1879-80).
Cuốn truyện “Anh Em Nhà Karamazov” không hẳn là một tiểu thuyết, mà là một toàn cảnh của tâm hồn con người khi bị chi phối bởi các sức lực và vấn đề ảnh hưởng tới tâm hồn kể từ thời xa xưa tới ngày nay. Tác phẩm trình bày bốn nhân vật chính, gồm người cha và ba người con, mỗi người là một lối triết lý của cuộc đời. Người đời thường gặp các nghi ngờ, các tội lỗi… nên phải đi tìm ý nghĩa của đời sống, tìm hiểu tôn giáo và tìm cách chuộc tội, tức là tìm kiếm sự thực tối hậu (ultimate reality). Qua tác phẩm này, Fyodor Dostoevsky được toàn thế giới công nhận là một trong các Đại Văn Hào của nước Nga.
2. Bối cảnh lịch sử của Đại Văn Hào Dostoevsky
Vào đầu thế kỷ 18, nước Nga ở dưới quyền cai trị của Sa Hoàng Alexander I. Khởi đầu Sa Hoàng này đã có các ý niệm về cải tổ chính quyền, về chính thể quân chủ lập hiến nhưng khi lên ngai vàng, Sa Hoàng không còn quan tâm đến các cải cách trong nước Nga vì ảnh hưởng của các cuộc chiến tranh gây nên do Napoléon, do các biến cố chính trị quốc tế, do ảnh hưởng của các cố vấn bảo thủ và cũng do niềm tin tôn giáo mang tính chất bí ẩn của Chính Thống giáo. Trong xã hội Nga thời đó, con cháu của các gia đình quý tộc trở thành các sĩ quan nắm giữ các chức vụ trong quân đội, họ là những người được giáo dục cao hơn các tầng lớp xã hội khác, họ đã đọc các sách chứa đựng các tư tưởng cấp tiến của Voltaire, Rousseau, Diderot. . .
Bất mãn vì các cải tiến không được Sa Hoàng thực hiện, các sĩ quan trẻ đã hô hào binh lính dưới quyền biểu tình tại các công trường của thủ đô Moscow, đòi hỏi “Konstantin và một Hiến Pháp”. Một cuộc âm mưu đảo chính xẩy ra vào tháng 12 đã bị đè bẹp dễ dàng và các nhà “Cách mạng tháng 12” (the Decembrists) hàng đầu hoặc bị treo cổ, hoặc bị đưa đi lưu đầy tại miền Siberia. Năm 1824, Sa Hoàng Alexander I qua đời, lên nối ngôi không phải là ông hoàng Konstantin cấp tiến mà là một người em trẻ hơn, bảo thủ hơn: Nikolai I.
Nếu không có gì xẩy ra, Sa Hoàng Nikolai I có thể theo dân chủ lập hiến đôi phần, nhưng vì cuộc cách mạng đã diễn ra, nhà Vua phải áp dụng các biện pháp áp chế. Ngoài ra, trong số các cận thần của nhà Vua, ông Bộ Trưởng Văn Hóa là Uvarov đòi hỏi các chính sách của chính quyền phải được phối hợp với ba tính chất “chuyên chế, chính thống, quốc gia” (autocracy, orthodoxy, nationality) trong khi đó đứng đầu cơ quan Mật Vụ là Bá Tước Beckendorff triệt để áp dụng chính sách chính thống văn hóa Nga.
Chế độ áp chế của Sa Hoàng Nikolai I đã kéo dài ba thập niên và nền Văn Hóa Nga đã thành hình với các nhà văn danh tiếng thuộc tầm vóc quốc tế như Pushkin, Lermontov và Gogol, với nhà phê bình văn chương bậc nhất như Belinsky, người đã đặt ra các nguyên tắc để cứu xét văn học truyền thống của nước Nga. Trong hoàn cảnh văn hóa tiến bộ, các trường đại học cũng phát triển về độ lớn và về tầm mức quan trọng dù cho hai nhân vật bảo thủ là Uvarov và Beckendorff coi đại học và các sinh viên là môi trường và các tổ chức nổi loạn.
Hoàn cảnh đàn áp văn hóa của xã hội nước Nga dưới thời Sa Hoàng Nikolai I là một nơi lý tưởng để du nhập và truyền bá các tư tưởng triết học của Tây phương. Các nhà trí thức người Nga vào thập niên 1830 đã quan tâm tới các học thuyết của Schelling và Hegel với sự nhấn mạnh về đời sống thực của tâm hồn hơn là tinh thần lãng mạn của các thập niên trước. Các nhà trí thức Nga của thời kỳ này đã thất vọng vì nhận rõ rằng nước Nga quá lạc hậu so với các quốc gia Tây phương, ngay cả về phương diện văn hóa. Đối với vấn đề này, có hai phe: một phe theo văn minh Tây phương và một phe theo văn minh Slav.
Trước thế giới bên ngoài phát triển, một số người Nga tự hào về văn minh Slav, cho rằng nền văn minh Tây phương là thứ suy đồi đạo đức, thiếu đi bản chất dân tộc Nga trong khi đó, một số nhà trí thức khác lại tìm cách áp dụng thứ văn hóa Tây phương mà họ cho là tiến bộ hơn, đồng thời đóng góp bằng những đặc tính địa phương. Trong các năm cuối thập niên 1830 và đầu thập niên 1840, đã diễn ra các tranh luận về hai nền văn hóa kể trên và đề tài này còn tiếp tục trong suốt cuộc đời của Đại Văn Hào Fyodor Dostoevsky.
Trước cuộc tranh luận về hai nền văn minh, nhà phê bình Vissarion Belinsky đã đứng về phe cải cách theo Tây phương. Ông ta đã đặt ra các nguyên tắc phê bình cấp tiến theo đó văn chương phải là một diễn đàn để tranh luận về các vấn đề xã hội và điều này bị cấm đoán trong một xã hội bị đàn áp. Theo Belinsky, văn chương phải hiện thực (realistic), phải trình bày những điều xấu của xã hội để cải tiến xã hội và ngành phê bình văn học là “nữ hoàng” của các khoa học với vai trò hướng dẫn các bộ môn khoa học xã hội khác như triết học, chính trị, xã hội học, thẩm mỹ học… Chính Belinsky là người đã ca tụng cuốn tiểu thuyết “Đám Kẻ Nghèo” (Poor Folk) của Dostoevsky bởi vì tác phẩm này đã trình bày xã hội Nga một cách trung thực và trong một bức thư, Belinsky đã gọi Gogol là một kẻ phản bội đối với phong trào cải cách. Dostoevsky đã đọc bức thư tố cáo này trong một buổi họp của nhóm khuynh tả và hành động này đã là một trong các lý do khiến cho Đại Văn Hào bị bắt vào năm 1849.
Thực ra, Fyodor Dostoevsky bị bắt là do ông tham gia vào nhóm xã hội Petrashevsky, một nhóm trí thức Nga của thập niên 1840. Vào giai đoạn này, chủ nghĩa lý tưởng của Đức vẫn còn, thêm vào là chủ nghĩa xã hội không tưởng của Pháp (the French utopian socialism) do công trình của Fourier và Saint Simon. Nhóm Petrashevsky đã nghiên cứu chủ nghĩa xã hội này, phân phát các truyền đơn trong dân chúng Nga. Sau cuộc nổi dậy năm 1848 tại Tây Âu với hai người Nga tham gia là Herzen và Bakunin. Sa Hoàng Nikolai I phòng ngừa, không cho thứ đó xẩy ra tại nước Nga nên đã hành động đàn áp phủ đầu. Các nhân viên trong nhóm Petrashevsky bị lùng bắt, bị giam trong hầm của lâu đài “Peter và Paul” rồi vào năm 1849, Dostoevsky bị đưa đi lưu đầy tại Siberia.
Trong thập niên 1850, tình hình chính trị tại nước Nga tương đối yên tĩnh. Nước Nga thua trận trong cuộc chiến tranh Crimea, Sa Hoàng Nikolai I đang bệnh hoạn, người chờ kế vị là Hoàng Tử Alexander II muốn thay đổi. Một cải cách quan trọng nhất đối với nước Nga thời bấy giờ là việc hủy bỏ chế độ nông nô (serfdom) bởi vì đây là một bất công rất lớn đối với lương tâm và còn là một trở ngại trong việc thiết lập nên một chính quyền dân chủ. Một trong các tác phẩm của Đại Văn Hào Turgenev tên là “Đêm Hôm Trước” (On the Eve, 1860) đã trình bày sự mong đợi cải tổ đất nước Nga.
Sau khi Belinsky qua đời vào năm 1848, một nhóm văn hữu trí thức tả khuynh gồm có các nhà lý thuyết trẻ như Chernyshevsky, Dobrolyubov và Pisarev, đã hợp tác ra tờ báo Hiện Đại (the Comtemporary). Những nhà văn này nhắc lại các ý tưởng của Belinsky về vai trò của văn chương trong việc phê bình xã hội và họ còn theo các đường lối hiện thực, cứu xét xã hội theo khoa học giống như Comte, Bucher và J. S. Mill. Họ thuộc các giai tầng không quý tộc (raznochintsy) với vài người là phụ nữ, vài người gốc tu sĩ có ảo tưởng (disillusioned seminarians), vài người vốn là sinh viên y khoa. Nhóm “Hiện Đại” đã dùng các phương pháp khảo cứu xã hội với đặc tính vật chất (materialistic), khoa học và y khoa, vì thế xã hội bị coi như một bộ phận: nước Nga là một cơ thể bệnh hoạn, cần được cứu chữa bằng các phương thuốc thích hợp. Như vậy trong thập niên 1840, các nhà lý tưởng (the idealists) đã bị thay thế bởi các nhà vật chất (materialists) vào thập niên 1860 và Đại Văn Hào Turgenev đã mô tả sự căng thẳng giữa hai nhóm chủ trương này trong tác phẩm “Cha và Con” (Fathers and Sons, 1862).
Khi được thả ra từ miền Siberia và trở về sống tại thành phố St. Petersburg, Fyodor Dostoevsky đã đổi chiều tư tưởng về hướng bảo thủ và đại văn hào đã viết ra tác phẩm “Các Ghi Chú từ Dưới Hầm” (Notes from the Underground) để trả lời lại cuốn tiểu thuyêt “Phải Làm Gì” (What to be done) của Chernyshevsky, đề cập tới lớp người mới (the new people), đó là những nhà chủ trương hư vô (nihilists).
Khi Fyodor Dostoevsky viết ra tác phẩm “Tội Ác và Hình Phạt”, phong trào tư tưởng hư vô (nihilism) dịu bớt, đi vào bóng tối và trở thành phong trào khủng bố (terrorism). Đại Văn Hào Dostoevsky đã mô tả những người hư vô này một cách chua chát trong các tác phẩm “Kẻ Ngu Đần” (The Idiot) và “Các Người bị Quỷ ám” (The Possessed). Tới thập niên 1870, Fyodor Dostoevsky bộc lộ rõ chủ trường thuần văn hóa Slav (pan-Slavism). Rồi vào năm 1881, sau khi đại tác phẩm “Anh Em Nhà Karamazov” được xuất bản và sau khi Fyodor Dostoevsky đã qua đời, các người khủng bố thuộc cánh tả đã ám sát Sa Hoàng Alexander II và nước Nga bị đưa dần về cuộc Cách Mạng Cộng Sản.
3. Cốt truyện Tội Ác và Hình Phạt
Vào một buổi chiều tháng 7 nóng nực, anh sinh viên trẻ và nghèo Rodion Romanovitch Raskolnikov tới gặp bà già chủ tiệm cầm đồ Alyona Ivanovna vì cần tới một món tiền. Sau đó Raskolnikov tạt qua một quán rượu, gặp Semyon Marmeladov là người kể lại cuộc đời của mình. Marmeladov trước kia làm việc cho chính phủ nhưng bị sa thải vì tội nghiện rượu và gần đây, đã kiếm được một chân thư ký. Trong năm ngày qua, anh chàng này đã ăn cắp hết tiền của gia đình, dùng tiền mua rượu nên không dám trở về nhà. Marmeladov kể rằng người vợ Katerina Ivanovna là một góa phụ thuộc giai cấp cao hơn nhưng vì nghèo túng nên phải kết hôn với anh ta, rằng người con gái tên là Sonia phải đi làm điếm kiếm tiền cho gia đình túng thiếu vì người cha nghiện ngập. Raskolnikov đã dẫn Marmeladov trở về với vợ con, nhận ra cảnh bần cùng của gia đình này nên đã âm thầm tặng cho họ một món tiền.
Ngày hôm sau lúc thức dậy, Raskolnikov được người con gái dọn nhà trọ tên là Natasya cho biết bà chủ nhà Praskovya Pavlovna thưa cảnh sát vì Raskolnikov đã không trả tiền thuê tháng trước rồi Natasya cũng đưa cho chàng một bức thư của mẹ, cho biết em gái Dounia nhận làm gia sư cho gia đình Svidrigailov và anh chàng Svidrigailov này đang tìm cách tán tỉnh Dounia trong khi Pyotr Petrovitch Luzhin đã đề nghị cưới Dounia. Trong thư, mẹ của Raskolnikov cũng cho biết mẹ và em Dounia sắp đi St. Petersburg để gặp Luzhin.
Raskolnikov cho rằng em gái Dounia kết hôn với người không thực sự yêu thương là Luzhin để có tiền giúp đỡ người anh và gia đình. Raskolnikov tự cho mình là một người trẻ có tài khác thường nên có quan niệm rằng các người khác thường có quyền phạm bất cứ loại tội ác nào. Để trắc nghiệm lý thuyết này, Raskolnikov đã giết chết bà già Alyona, chủ tiệm cầm đồ và người em gái của bà này bằng một cái búa. Ngay sau khi phạm tội sát nhân, Raskolnikov về nhà, bị ốm nặng trong nhiều ngày. Khi hồi phục, Raskolnikov được Luzhin lại thăm và anh chàng này đã hứa hôn với Dounia. Raskolnikov đã xỉ vả Luzhin và đuổi hắn đi vì Luzhin có tính áp chế Dounia.
Sau khi có thể đi lại bình thường, Raskolnikov đọc các báo thấy bài tường thuật về vụ giết chết bà già Alyona nên tới trạm cảnh sát, muốn thú tội nhưng viên cảnh sát chỉ hỏi chàng về vụ thiếu tiền thuê nhà, bắt ký giấy cam kết sẽ trả nợ. Về sau, Raskolnikov còn chứng kiến cảnh anh chàng nghiện rượu Marmeladov bị xe cán chết trên đường phố.
Vụ giết bà Alyona khiến cho viên thanh tra cảnh sát Porfiry phải hỏi cung tất cả những người liên quan tới công việc cầm thế với bà già chủ tiệm. Raskolnikov đã thú tội sát nhân với Sonia, việc này bị Svridrigailov nghe lén. Tới khi Raskolnikov tự nguyện thú thực tội ác của mình với viên thanh tra Porfiry, chàng bị kết án 8 năm tù tại miền Siberia. Với số tiền Svidrigailov để lại, Sonia có thể đi theo, sống và giúp đỡ Raskolnikov để cho kẻ tội phạm này bắt đầu làm lại cuộc đời.
4. Vài nhận xét về tác phẩm Tội Ác và Hình Phạt
Cấu trúc chính của cuốn truyện được cứu xét qua nhiều nhân vật và qua nhân vật chính là Raskolnikov. Đây là hình ảnh của người trí thức Nga đứng trước hai quan điểm bi quan và hư vô (nihilistic) của thế kỷ 19, trước ý tưởng vật chất (materialism) và cách mạng (revolutionary). Cốt truyện trình bày hai loại tranh chấp (conflicts), một thứ bên ngoài giữa cá nhân và thế giới thù nghịch, một thứ bên trong giữa một tâm hồn cô đơn và lương tâm. Nhân vật Raskolnikov là người có hai bản ngã (dual personality), có tư tưởng giao động giữa ý muốn của chính mình với sức mạnh và sự yếu đuối với bản tính chịu khuất phục. Raskolnikov đã phạm tội, bởi vì cho rằng có một số người có bản chất đặc biệt khác thường, dám vượt qua cả lương tâm. Một mặt của bản chất đặc biệt này là tính lạnh lùng, vô nhân đạo, sức mạnh cá nhân và ý muốn của bản ngã, mặt kia là tính cởi mở, lòng trắc ẩn, sẵn lòng làm các hành động từ thiện.
Hai nhân vật khác trong cuốn truyện tượng trưng cho hai bộ mặt của con người là Sonia và Svidrigailov. Sonia là hình ảnh chuộc tội cho Raskolnikov, nhưng do cô ta thụ động nên đã gợi cho Raskolnikov các hành động phải làm.
Hình phạt dành cho Raskolnikov là kết quả của hai bản ngã trong con người của anh ta, một bản ngã đã khiến cho anh ta phạm tội còn bản ngã kia mang tính nhân đạo, khiến cho anh ta phải chịu đau khổ. Chủ đề của Dostoevsky là “chịu đau khổ”. Đây là con đường dẫn tới sự cứu rỗi. Nhờ đau khổ, các tội ác của con người có thể được tẩy sạch.
Quan niệm của Raskolnikov cho rằng có hai loại người: loại bình thường và loại khác thường, được căn cứ vào triết lý của hai nhà triết học Hegel và Nietzsche. Hegel là triết gia người Đức, đã viết nhiều sách về bản chất tổng quát của loại người siêu nhân (superman) theo đó, các phương tiện cao quý (noble) đã biện hộ cho các mục đích cao quý của siêu nhân. Bà già chủ tiệm cầm đồ là một con người xấu, bóc lột các kẻ nghèo bằng nghề cầm đồ. Raskolnikov lý luận rằng giết chết bà già này là loại bỏ thứ người xấu của xã hội và với số tiền lấy được của bà già, Raskolnikov có thể tiếp tục theo học và tận tụy giúp ích cho nhân loại. Ngoài ra, một tội ác nhỏ có thể chuộc bằng hàng ngàn hành động tốt lành. Raskolnikov có thể dùng số tiền lấy được để giúp đỡ các kẻ nghèo khó. Như vậy Hegel quan niệm rằng siêu nhân vượt hơn các người thường do các việc làm hữu ích cho nhân loại.
Dostoevsky có lẽ được nghe nói về loại siêu nhân của nhà triết học người Đức Nietzsche khi ông thăm viếng nước Đức, tức là 5 năm trước khi viết ra tác phẩm “Tội Ác và Hình Phạt”. Dostoevsky bị ảnh hưởng bởi Nietzsche không phải do đọc sách. Loại siêu nhân của Nietzsche không làm lợi cho nhân loại mà chỉ thỏa mãn chính mình, với mục đích không phải do cao thượng mà do làm vừa lòng bản ngã. Do ý chí mạnh nhất, loại siêu nhân này đã hành động vì lòng ham muốn và dùng sức mạnh của mình để chế ngự các người khác. Svidrigailov là thứ siêu nhân theo Nietzsche, đã đi tới kết luận là “Thượng Đế đã chết”. Svidrigailov có dã tâm dám hiếp dâm đứa con gái 13 tuổi, là nguyên do gây ra cái chết cho một người hầu và vợ của anh ta, và anh ta dám theo đuổi Dounia mà không sợ một thứ lực trừng phạt nào. Anh ta chỉ muốn làm thỏa mãn chính mình.
Loại siêu nhân thứ hai không thể bị ai gây ảnh hưởng, phải đứng cô đơn một mình trong xã hội và khi thấy mình bị gạt bỏ ra ngoài xã hội, Raskolnikov không thể chịu đựng nổi cảnh cô đơn đáng sợ đó, đành phải nhận tội lỗi, chịu hình phạt, chịu đau khổ để tẩy sạch tội ác và trở nên một thành phần của nhân loại.
Fyodor Dostoevsky đã trình bày qua tác phẩm “Tội Ác và Hình Phạt” thứ hình ảnh của bản chất con người, đã vẽ ra một thứ bản đồ mới của tâm hồn và sự liên hệ của tâm hồn với các hành động. Con người như vậy có các bản năng (instincts) và các lòng ham muốn (desires) như những cơ phận khác và con người muốn hy sinh tất cả để được tự do. Qua các nhân vật trong truyện, Fyodor Dostoevsky đã bàn về nền đạo đức, sự quan trọng và cấu trúc của tính gây hấn trong bản chất con người, vấn đề sức mạnh chính trị, sự hiện hữu của Thượng Đế, bản chất của kiến thức tôn giáo, sự tốt lành trong cá tính, ý nghĩa của tình dục và tình yêu, tác dụng hỗ tương giữa cá nhân và gia đình… Ngày nay chúng ta mắc nợ Sigmund Freud vì phương pháp phân tâm học, nhưng trước Freud, Dostoevsky đã phân tích tư tưởng con người qua các tác phẩm danh tiếng.
Vào cuối thế kỷ 19, Thời Đại Vàng (the Golden Age) của nền Văn Học Nga do hai đại văn hào gây ảnh hưởng, gần như tại hai cực đối nhau, đó là Leo Tolstoy và Fyodor Dostoevsky. Nhà phê bình văn học Isaiah Berlin đã dẫn chứng một câu nói của nhà thơ Hy Lạp Archilochus để diễn tả sự khác biệt này: “con chó sói biết nhiều thứ, còn con nhím chỉ biết thứ nào quan trọng”. Đối với ông Berlin, Tolstoy là con chó sói khéo léo còn Dostoevsky là con nhím tinh khôn.
Nếu xét về ý thức hệ hay về thể văn (stylistically), nhiều nhà văn của thế kỷ 20 được xếp về phía Dostoevsky. Fyodor Dostoevsky đã ảnh hưởng tới D. H. Lawrence, Albert Camus, J. P. Satre, André Malreaux… Nhờ tác phẩm “Anh Em Nhà Karamazov”, William Faulkner đã mô tả đời sống cao thượng của người dân miền quê suy tàn. Tác phẩm “Truyền Thuyết về Tòa Án Tôn Giáo” (The Legend of the Grand Inquisitor) của Fyodor Dostoevsky cũng tác động tới các tác phẩm “chống không tưởng” (anti-utopian works) của Huxley, Orwell và Zamiatin…
Tác phẩm “Tội Ác và Hình Phạt” của Đại Văn Hào Fyodor Dostoevsky đã cung cấp nền móng cho các nhà văn viết về thứ tội ác thúc động do một thứ triết lý sống, viết về cách bào chữa cho tội ác bằng những phương pháp không tưởng, về giá trị của bản ngã qua các hành động. Thái độ của bản ngã đối với thế giới, được tạo thành ra sao do kinh nghiệm, được chấp nhận hay bị khước từ cũng là những vấn đề được Đại Văn Hào Fyodor Dostoevsky trình bày và các nhà văn đi sau, mắc nợ Fyodor Dostoevsky, có thể liệt kê bằng một danh sách dài gồm J. D. Salinger, Ernest Hemingway, Gunther Grass, John Fowles, Jerzy Kosinsky, Richard Wright, James Baldwin.
© Phạm Văn Tuấn © www.Vietthuc.org