Giấy Bạc Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa
“Vậy giấy bạc của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa độc lập, tự chủ, tự quyết, tự lực, tự cường và nhiều ‘tự’ khác mà lại có chữ Tàu phồn thể là điểm rất Lạ, đáng nêu câu hỏi. Phải chăng chữ Tàu trong giấy bạc của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa thể hiện nỗi đau đáu hoài… cố hương của Một trong Hai ông chủ tịch nước họ Hồ?”
Sau 1954, Đông Dương (Indochine / Indochina) không còn là thuộc địa của thực dân Pháp nữa, mà trở thành bốn (4) nước độc lập, tự chủ, tự quyết, tự lực, tự cường: 1. Vương Quốc Lào (Laos), 2. Vương Quốc Cam Bốt (Cambodge / Cambodia), 3. Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (Miền Bắc, cộng sản) và 4. Việt Nam Cộng Hòa (Miền Nam, quốc gia).
Vậy mà hôm nay, tình cờ đọc được bài “Những câu hỏi đau đầu” của Alan Phan, người soạn bài này cũng đã thật sự đau đầu, đau quá nên có bài này. Mong chư vị ‘ngoạ hổ tàng long’ và đặc biệt các thành lão cách mạng trên In-tờ-nét ban cho liều thuốc giải.
1. Hình 20 Đồng
Có cả chữ Lào trong khung đen: 20 Liến (sao Liến, nay tiền Lào gọi là Kịp); và chữ Miên trong khung xanh: 20 Ria (Mờ phây Ria).
Sáu chữ Tàu (phồn thể) trong khung trắng bên trái, đọc từ trên xuống dưới là tên nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa! Ba chữ (phồn thể, cách viết trước 1949) trong khung đỏ là Nhị thập Nguyên (20 Duên /Yuan).
2. Hình 50 đồng
Từ trái, chữ Lào trong khung đen là 50 Liến (Hạ Xíp Liến), chữ Miên trong khung xanh là 50 Ria (Ha xập Ria); chữ Tàu (phồn thể) trong khung trắng bên trái mặt sau, đọc từ trên xuống dưới là tên nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, ba chữ trong khung trắng bên phải là Ngũ thập Nguyên (50 Duên/Yuan).
3. Hình 5 Đồng
Chữ Miên trong khung xanh là 5 Ria (Pram Ria); chữ Lào trong khung đen là 5 Liến (Hạ Liến); chữ Tàu (phồn thể) trong khung đỏ là Ngũ Nguyên (5 Duên / Yuan), và sáu chữ Tàu trong khung trắng đọc theo lối Tàu (từ phải qua trái) vẫn là Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa!
Phồn thể hay Chính thể là lối viết cũ, nhiều nét, trên toàn cõi nước Tàu. Giản thể là lối viết ít nét được chính thức áp dụng trên toàn lục địa nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa từ 1949. Đến nay, nước Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan) vẫn giữ lối phồn thể. Hồng Kông sau 1997, và Ma Cao sau 1999 sử dụng cả hai lối. Phồn thể vẫn là lối viết phổ biến trong cộng đồng người Hoa ở hải ngoại.
Vậy giấy bạc của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa độc lập, tự chủ, tự quyết, tự lực, tự cường và nhiều ‘tự’ khác mà lại có chữ Tàu phồn thể (khung đỏ và khung trắng) là điểm rất lạ, đáng nêu câu hỏi. Ở Nam Kỳ, chữ Nho đã được loại bỏ từ 1878, thay thế bằng chữ Quốc ngữ và chữ Pháp. Ở Bắc Kỳ, kỳ Thi Hương cuối cùng là năm 1915; ở Trung Kỳ, năm 1918. Kỳ Thi Hội cuối cùng là năm 1919. Đến năm 1962, riêng nước Việt Nam Cộng Hòa (1954-1975) đã hoàn toàn dùng việt văn và chữ quốc ngữ hiện hành làm phương tiện giao tế, giáo dục và trong mọi lãnh vực khác.
Giấy bạc Việt Nam Cộng Hòa (1954-1975)
Còn toàn tập ở đây, và ở đây với chi tiết năm tháng phát hành.
Bạn đọc thấy rõ là trên giấy bạc của nước Việt Nam Cộng Hòa không có một ngoại ngữ nào!
Phải chăng chữ Tàu trong giấy bạc của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa thể hiện nỗi đau đáu hoài… cố hương của Một trong Hai ông Chủ tịch nước họ Hồ?
Trần Thị Hải Ý
Nguồn: Danlambao
(Nguồn hình giấy bạc 2 nước VN: Alan Phan và Internet)
TB. Bạn đọc có để ý không: Sinh thời, càng giàu tuổi, đại sự ‘Giải phóng Miền Nam’ củaNgười ta càng cấp bách và tàn khốc nên trông Người ta càng hom hem lép bẹp như ông Tiên Nâu; sau khi băng hà, qua phô-tô lộng kiếng chính thức bị / được treo khắp mọi nơi, mọi nhà và phô-tô chụp từ lăng Ba Đình có trên In-tờ-nét, đặc biệt trên tiền giấy của nước Cộng Hòa Xã Nghĩa Việt Nam Người ta trông phương phi phúc hậu như ông Tiên Tầu, nguyên bản.