Hai mươi năm sau ngày bức tường Berlin sụp đổ, Mikhail Gorbachev âm thầm kỷ niệm biến cố này ở phương Tây, cố tránh thật xa khỏi Moscow. Dù vậy, ở cả hai nơi ấy, danh tiếng của ông lại nằm ngay trong cái sự thầt bại của ông trong việc muốn đổi mới một hệ thống chính trị mà ông hằng thực sự tin tưởng, lúc nó đang trong cơn hấp hối.
Trong một cuộc phỏng vấn với một phóng viên báo chí không lâu trước đây, Mikhail Gorbachev đã hồi tưởng lại về những năm tháng ở trên đỉnh cao quyền lực của ông tại Liên Bang Sô Viết. Thông thường khi đã ngon trớn, thật khó để cắt ngang lời ông nói. Nhưng trong dịp này, ông lại do dự, trầm ngâm một hồi thật lâu, đăm chiêu nhìn người phỏng vấn dưới cặp mắt sắc cạnh một cách bối rối trước khi trả lời.
“ Bạn biết đó, tôi lẽ ra vẫn còn ngồi tại đó, trong điện Cẩm Linh,” – ông nói – “ Nếu tôi đã tự giải quyết bằng chính quyền lực cá nhân của mình. Có lẽ tôi vẫn còn đang sống trong cung điện đó… Hoặc nếu tôi đơn giản chẳng làm gì hết, không thay đổi bất cứ gì của toàn Liên Bang Sô Viết giống như thuở nào, chỉ việc ngồi tiếp tục làm những công việc như nhửng người tiền nhiệm, ai mà biết được…”
Rồi ông bật tiếng cười. Cho dù có cảm giác đắng cay nào đó trong lòng, ông cũng đả che giấu khéo léo.
Một phần của cái cảm giác này là do cái ảo tưởng tự dối mình thường thấy từ các lãnh tụ hoặc đã nghỉ hưu, bị cho về vườn hay bị lật đổ. Riêng Gorbachev lại có điểm sâu sắc hơn, đặc biệt thích ứng trong năm nay, năm thứ hai mươi kỷ niệm biến cố 1989, khởi đầu cho sự chấm dứt quyền cai trị của ông. Ngày nay khi nhìn lại, người ta vẫn khó có thể tin rằng một đế quốc Cộng Sản Sô Viết , bao gồm Liên Sô và các nước Cộng Sản chư hầu Đông Âu, , một khối đá lừng lững đến nỗi hơn hai thế hệ của phương Tây phải từng run rẩy sợ hãi, lại biến mất trong một đêm. Các nhà phân tích đã tưởng rằng khối đế quốc đỏ này sẽ còn khập khiễng lê bước hàng nhiều thập niên nữa trong việc cố đổi mới chủ nghĩa cộng sản, nhưng cứ tiếp tục thất bại,.
Năm nay 2009, Gorbachev trông còn mạnh khoẻ dù đã ở tuổi 78, lứa tuổi mà hầu hết những nhà lãnh đạo tiền nhiệm của ông đang ở trên đỉnh cao quyền lực. Trong những năm thập niên 80s, một Tổng Bí Thư của đảng CS Sô Viết có đầy đủ quyền hành độc đoán nếu ông ta muốn xử dụng. Gorbachev lúc đó đã có thể dùng nó để tạm thời sửa chữa vá víu những cái vụn vặt lẻ tẻ. Ông có thể đưa ra những thay đổi nhỏ nhặt trong một hệ thống mà về căn bản đã không hề thay đổi từ thời Stalin và cũng không cần phải đặt vấn đề may rủi với những vùng đất thuộc các quốc gia trong khối Varsaw tại Đông Âu. Thế nhưng Gorbachev quá tham vọng. Mục đích của ông là phải cứu vớt và canh tân chủ nghĩa cộng sản, một chủ nghĩa cộng sản thực sự đúng nghĩa như những người khởi xướng ra nó với một niềm tin mà ông đã tin vào. Lại cũng với một nhiệt tâm tương tự, ông đặt niềm tin vào đất nước của ông, không phải nước Nga, mà là toàn Liên Bang Sô Viết. Thế nhưng chính Gorbachev là người đã tiêu diệt chủ nghĩa cộng sản nhiều hơn bất cứ ai.
Thay vì còn điều hành cai trị từ căn phòng màu hạt dẻ ở điện Cẩm Linh như ý ông nói là ông rất có thể vẫn còn ngồi đó.Hiện tại, Gorbachev du hành không ngưng nghỉ với bộ hành lý Louis Vuiton trên tay mà ông đang quảng cáo khắp thế giới. Ông hái ra tiền với những tua đi diễn thuyết quốc tế và còn kèm theo nhiều lợi lộc phụ thuộc bên cạnh. Trên căn bản thì ông đang sinh sống tại Moscou, nhưng ông có mặt tại Nga rất hiếm hoi. Những người bạn thân tỷ phú của ông đã giúp ông tài trợ điều hành hai cơ sở mang tên ông, một để lưu giữ những tài liệu văn thư của ông, một để nghiên cứu chống bệnh ung thư thời trẻ, trong việc tưởng nhớ Raisa, người vợ quá cố của ông. Tuy nhiên,trên thực tế, ông là một khuôn mặt bị lãng quên tại Nga, mặc dù ông có phần hùn trong một nhật báo tại Moscou của một trong những người giàu có ủng hộ ông : cựu nhân viên tình báo KGB Alxander Lebedev, người trước đây từng tạo một khuấy động trong giới truyền thông khi ông này bỏ tiền túi ra làm chủ tờ báo Evening Standard tại Luân Đôn.
Nếu như có được nhắc nhở đến tại Moscou, Gorbachev bị phỉ báng như một kẻ buông rơi đế quốc của mình mà không hề có một hành vi chống cự và là người gây ra sự sụp đổ về kinh tế khi liên bang đổ vỡ vào năm 1991. Đối với những người theo chủ nghĩa dân tộc xung quanh Vladimir Putin, đây là một thảm hoạ nhục nhã mà chính Gorbachev phải trực tiếp chịu trách nhiệm , cái đế quốc mà nước Nga lúc này đang cố hồi phục. Trong sử sách ở học đường mới tại Nga hiện nay, Gorbachev ít khi được nhắc tới, nếu có chỉ là vài dòng chú thích ngoài lề không thiện ý, trong khi Stalin được ca ngợi là một lãnh tụ vĩ đại của nước Nga , cho dù Stalin chỉ là một người Georgia. Ở ngoài nuớc Nga, lịch sử đối xử tử tế hơn. Gorbachev được coi như một khuôn mặt hàng đầui trong việc giải phóng một phần ba Âu Châu khỏi sự chiếm đóng quân sự cũng như nhân dân thoát ách độc tài toàn trị , qua vai trò của ông trong sự kết thúc cuộc chiến tranh lạnh, đồng thời là một trong những “đạo diễn” quan yếu trong thời điểm những tuần lễ rối loạn của cuộc cách mạng 1989. Hơn nữa, những năm cai trị cuối của ông cộng với ít năm đầu của Boris Yelsin,người kế nhiệm, được coi như một thời đại thanh bình ngắn ngủi của tự do trên đất nước Nga.
Dĩ nhiên, Gorbachev không hề có ý định mang đến những thứ ấy. Ông ta được chọn bởi một nhóm 18 người lãnh đạo cộng sản nắm quyền lực già nua bệnh hoạn , phần lớn vì sự tương đối trẻ trung, hấp dẫn và đầy năng lực của ông. Đã có tới ba đám tang của những nhà lãnh đạo Sô Viết chỉ trong không đầy hai năm rưỡi trước khi Gorbachev được lựa chọn vào ngày 10 tháng Ba năm 1985. Leonid Brezhnev nắm quyền cai trị gần suốt 20 năm và được biểu tượng hoá , ngay cả với những người tuỳ tùng thân cận của ông tronjg những chốn riêng tư , như một kỷ nguyên của sự đình đốn. Trong những năm cuối đời, Brezhnev quá suy nhược đến mức người ta phải chở ông lên lăng Lenin bằng một thang máy trong những buổi diễn hành tại Công Trường Đỏ. Yuri Andropov thì đã bệnh hoạn ngay từ khi năm quyền. Hầu hết trong suốt 13 tháng cầm quyền, nhà lãnh đạo này điều hành đất nước trên một giường bệnh. Konstantin Chernenko, người mà trước đó có nhiệm vụ chính yếu trong chính quyền chỉ là châm lửa thuốc lá cho người bạn thân Brezhnev, khi lên thay thế đã là một ông già ở tuổi bẩy mươi xưa nay yếm (yếm = không phải hiếm mà là ốm đau bạc nhược). Sự suy nhược của ông thể hiện cho tình trạng suy đồi của đất nước.
Những nhà lãnh đạo đảng vào năm 1985 chắc phải muốn chọn một người trong cùng một rọ với họ. Nhưng chẳng có ai trong đám giáo điều già nua khả dĩ chấp nhận được đủ tiêu chuẩn , cho dù họ đã nghe những chuyện tếu về họ khắp nơi trên đất nước như là : – “Các đồng chí, ta cứ nhóm họp quốc hội theo truyền thống cũ . Nào cùng nhau ra khiêng ngài Tổng bí thư vào”.
Người giới thiệu lựa chọn Gorbachev là Andei Gromyko, người có vẻ mặt ác ôn , một vị ngoại trưởng rất giáo điều được biết đến trong suốt bốn thập niên như một “ông lắc đầu trong ngành ngoại giao Sôviết” (Mr Nyet of the Soviet diplomacy). Ông ta bảo đảm với các đồng sự của ông rằng Gorbachev, thành viên trẻ nhất của bộ chính trị ở tuổi 54, chắc chắn là một người có cùng một khuôn như họ, nhưng có đủ nghị lực để lấy lại uy danh cho Liên Bang Số Viết.. Họ không chọn Gorbachev vì mấy tháng trước đó vị nữ thủ tướng Anh Margaret Thatcher tuyên bố bà sẽ cộng tác với ông này. Họ chọn ông vì nghĩ ông là người có năng lực làm sống lại cái hệ thống Sô Viết đã bị sói mòn. Gromyko nói rằng Gorbachev tin tưởng vào một nền quốc phòng mạnh mẽ và sự duy trì một đế quốc Liên Sô tại Âu Châu. Ông kết luận: “ Gorbachev có nụ cười hiền. Đúng,nhưng ông ta cũng có hàm răng sắt”.
Bước thăng tiến của Gorbachev giống như một làn gió tươi mát. Ngay ở tại Washington DC, Jack Matlock, một cố vấn an ninh quốc gia đặc trách về Liên Sô của tổng thống Ronald Reagan , lúc đó sắp sửa được đề cử chức vụ đại sứ Hoa Kỳ tại Moscou đã chia sẻ cái nhiệt tâm ban đầu này: -“ Cả ở trong và ngoài nước, mọi người đã mệt mỏi nhìn vào toàn khối Sô Viết đang vùng vẫy chới với giữa phong ba của những yếu kém suy sụp. Khi ấy từng bước đi của Gorbachev, lời ông ăn nói, bộ đồ ông mặc, đã làm thế giới sững sờ”.
Gorbachev là nhà lãnh đạo Sô Viết duy nhất sinh ra sau cuộc cách mạng Bolshevik. Tiểu sử của ông là câu chuyện điển hình của một chàng trai trẻ miền quê lớn lên từ một vùng đất tỉnh lẻ của Liên Bang Số Viết dưới thời Stalin.. Xứ sở Bắc Caucasus của ông đã chịu đựng cái nạn đói khủng khiếp do con người gây nên ở những năm 1930s.Sau này, ông thường nhắc lại ông đã phải chứng kiến những người hàng xóm đói đến chết đi ra sao. Lúc đầu. ông đã tránh được điều tồi tệ nhất, nhờ sự bao bọc của ông ngoại, một trong những đảng viên cộng sản thế hệ đầu tiên, lúc đó đang là chủ tịch của một nông trường tập thể địa phương. Nhưng sau cuộc đại thanh trừng của Stalin năm 1937, người ông ngoại ,kẻ bảo hộ che chở ông bị bắt giữ với tội danh “bọn phản cách mạng khuynh hữu Trosky”, ông và gia đình trở thành những kẻ vô gia cư bị ruồng bỏ trong suốt 14 tháng., cho tới khi ông ngoại trở về từ trại giam. Qua thời gian thử thách này, Gorbachev học đươc kinh nghiệm sống thích nghi. Ông trở nên một đảng viên CS, Rồi đảng cho ông mọi thứ. Ông từ từ ngoi lên trên bước đường thăng tiến, không tỏ ra dấu hiệu đi ngoài lề chính thống nào. Đã từng nổi danh như một bậc thầy của nghệ thuật “nâng bi” trong một chế độ quan liêu nịnh hót bợ đỡ nơi mà sự việc đáng khinh này giúp cho mọi việc trôi chảy. Sau này, Gorbachev đã nói : “ Tất cả chúng ta, ai mà không liếm đít Brezhnev?”.Mãi cho tới khi đã vào được bộ chính trị rồi, ông mới tự cho phép mình phô bày ra một trong những đặc tính đáng mến hơn của ông: đó là tính hài hước. Ở chốn riêng tư, ông là người sưu tập và kể lại rất nhiều chuyện tiếu lâm cộng sản.
Ngoài chuyện hài hước, Gorbachev làm những người thân cận kinh ngạc về niềm tin thành tâm của ông vào lý tưởng của chủ nghĩa xã hội. Sự hoài nghi nhạo báng đã ăn sâu vào cốt lõi của chủ nghĩa Cộng Sản Sô Viết đến mức rất ít lý thuyết gia nằm trong hệ thống đặt vấn đề lý tưởng một cách nghiêm túc. Riêng Gorbachev lại nhận thức rằng Lenin đã vạch rõ đường lối, và việc của ông là đưa Liên Sô trở về đúng hướng sau khúc quẹo sai lầm của Stalin. Ông thường nói về Lenin như một thiên tài đặc biệt, và vẫn liên tục đọc sách của Lenin ngay trong những ngày cuối cùng còn lại ở Cẩm Linh.
Chính trong một buổi đi dạo ở Leningrad vào tháng Năm 1985, hai tháng sau ngày nhậm chức, mà hai từ ngữ sẽ mãi mãi được thừa nhận chung với thời đại Gorbachev bắt đầu đi vào thuật ngữ chính trị. Perestroika (cải tổ, đổi mới) và Glasnost (công khai, mở cửa) đã trở nên hai từ ngữ lan khắp toàn cầu, nhưng bên trong nội địa nước Nga, chúng lại mang một ý nghĩa riêng biệt. Khi Gorbachev xử dụng hai từ này, chúng chỉ mang ý nghĩa đúng như ông muốn ám chỉ.
Perestroika ,trong những ngày đầu ấy, chỉ mang ý niệm một sự thay đổi bình thường với mục đích cải thiện nâng cao kỷ luật ở nơi chốn làm việc. Gorbachev giới thiệu một bước liều lĩnh trong sự áp dụng những đo lường về đánh giá năng lực nhằm cho phép các người có đảm lược đưa ra nhiều sáng kiến mới và làm một số thay đổi trong việc phần phát hàng hoá. Ông loại bỏ hàng tá những ông bình vôi, gồm các đồng chí thân hữu của Brezhnev cùng đám quan liêu tham nhũng hống hách của thời kỳ đình đốn trì trệ. Ông cũng mạnh dạn làm một vài bước giới thiệu một số thay đổi nho nhỏ về dân chủ vào hệ thống chính trị cũ qua sự tổ chức lại các danh sách bầu bán, nhưng vẫn giữ nguyên tình trạng một đảng duy nhất. Thật ra không gì đáng được gọi là cách mạng cả. Ông không hề có ý loại trừ kế hoạch tâp trung, không giới thiệu một nền kinh tế thị trường, tự do hoá về giá cả và lương bổng hay từ bỏ độc quyền cộng sản.
Sau bốn năm cầm quyền, có một bước căn bản ông đã thay đổi, đó là cho phép bầu cử các đại biểu của Quốc Hội Nhân Dân, trên lý thuyết, là cơ quan lập pháp tối cao của quốc gia. Và trong khi vẫn bảo đảm nắm giữ thành phần đa số cho đảng viên cộng sản qua sự áp đặt tuyển cử chuyên chế, ông đã cho phép một số nhà phê bình chỉ trích tham gia ứng cử chẳng hạn như nhà vật lý học đối kháng Andrei Sakharov. Gorbachev nói rất nhiều về dân chủ, nhưng ông ta không bao giờ liều lĩnh tự đặt chính mình vào một cuộc tranh cử. Ông muốn cải tổ mọi thứ nhưng lại không muốn đụng chạm đến nền tảng.
Glasnost – cởi mở – cũng là một từ ngữ rất biến thiên. Nó được bắt đầu áp dụng thật cẩn trọng nhưng, như các tay giáo điều bảo thủ chỉ trích ông đã lo sợ, một khi đám ký giả nhà báo được khuyến khích đưa ra công luận những mẩu chuyện về những quan chức bất tài, về một giai cấp bần cùng trong xã hội với số lượng lớn ở những phố thị tỉnh lẻ xa xôi, sự đàn áp các phong trào hay các nhân vật đối kháng , tiến trình trở nên khó kiềm chế. Liên Sô của thời Gorbachev không có một hệ báo chí truyền thông hoàn toàn tự do, nhưng tương đối tự do hơn trước. . Gorbachev đã đơn thuần nghĩ rằng việc cho xuất bản các tác phẩm của những nhà văn như Alaxander Solzhenitsyn và Boris Pasternak, sự tiết lộ những kinh hoàng trong lịch sữ Sô Viết có lẽ sẽ giúp cho người công dân cố gắng làm cho cả nước làm việc siêng năng và hữu hiệu hơn. Thực tế lại khác, nó (glasnost) chỉ làm cho họ càng thù ghét chủ nghĩa cộng sản hơn ngoại trừ một số thật nhỏ thực sự tin tưởng vào chủ nghĩa có ý nghĩ trái ngược.
Glasnost đã có những hiệu quả cấp tiến, cả ở Liên Sô cũng như các quốc gia hành tinh Đông Âu quanh đó vượt quá sự mong đợi của Gorbachev. Công bằng mà nói cho ông, Gorbachev đã không làm gì để ngăn lại cái trào lưu cấp tiến này hay tìm cách trù dập khối truyền thông báo chí. Ngay những người thán phục cổ động ông nhất, những người thân cận làm việc không ngại mệt mỏi cho ông cũng đôi khi giận dữ với những phương cách làm việc của ông. Một thí dụ điển hình là trong những ngày chỉ mới lên cầm quyền, Gorbachev đã quyết định giải quyết một tật xấu cố hữu của người Nga: thói nghiện rượu. Vào năm 1984, người ta đã thu lượm ngoài đường phố lên đến trên 9 triệu người say. Những vụ chết yểu, tội ác, sự nghèo túng, gia đình đổ vỡ thấy nhan nhản khắp nơi. Vào mùng 4 tháng Tư 1985, ông triệu tập bộ Chính Trị và tuyên bố tăng giá rượu vodka lên gấp ba. Lượng sản xuất bia và rượu chát phải giảm xuống ba phần tư. Vladimìr, vị tổng trưởng tài chánh cảnh cáo ông về một lỗ hổng lớn trong ngân sách nhà nước. Gorbachev ngắt lời ông: “Điều đồng chí nói không mới mẻ gì. Ai cũng biết không có tiền để trám vào lỗ hổng đó. Nhưng điều đồng chí đề nghị không có gì khác hơn là cứ để cho nhân dân say sỉn mãi. Đồng chí không đề nghị là ta sẽ xây dựng chủ nghĩa cộng sản trên rượu Vodka chứ?” Không ai dám chất vấn uy quyền của vị tổng bí thư đảng . Do đó, Gorbachev đã làm theo chủ định cấm rượu với một quyết tâm . Và quả là một thảm hoạ. Đã có những cảnh xếp hàng nối đuôi dài dằng dặc bên ngoài những quầy bán rượu và thị trường chợ đen rượu Vodka nhanh chóng phát triển chỉ qua một đêm. Cái lỗ hổng về tài chánh mà ông Dimenstev đã báo động còn nghiêm trọng hơn ông tiên đoán. Tử xuất tăng vọt vì sự tiêu thụ các loại rượu độc hại làm chui tại nhà. Cuối cùng, sau ba năm, Gorbachev thú nhận sự sai lầm và từ bỏ kế hoạch, nhưng thiệt hại đã không thể cứu vãn. Đó chỉ là một điển hình về đường lối ông cai trị điều hành đất nước trong sáu năm rưỡi.
Gorbachev có thể gơị hứng cho sự trung thành nhiệt tình, sự thán phục qua tầm nhìn bao quát, trí thông minh và sự thành thật của ông. Tư tưởng và bản năng của ông được coi là đứng đắn, trung thực, ngay cả khi chúng đặt căn bản trên những phân tích sai lạc. Ông muốn bình thường hoá quan hệ với Hoa Kỳ và Âu Châu, bãi bỏ nguy cơ về một cuộc chiến Đông-Tây, cắt bớt ngân sách quốc phòng và cải thiện nền kinh tế nội địa Liên Bang. Có là vấn đề không khi ông cho rằng những việc này sẽ giúp củng cố chủ nghĩa cộng sản? Không bao lâu sau khi nắm quyền, ông và những cố vấn hàng đầu, đặc biệt , Alxander Yakolev, vị cố vấn về vấn đề cải tổ Perestroika, đã đi đến kết luận rằng các quốc gia trong khối Varsaw là một gánh nặng hơn là một lợi lộc. Tuy nhiên, ông cũng chưa bao giờ đưa ra một chiến lược thích hợp để buông tay .
Vì sao Liên Bang Sô Viết bỏ rơi đế quốc khổng lồ của họ một cách hoà bình như thế, đơn thuần với một lời than vãn? Vì sao nó xảy ra quá ngắn chỉ trong vài tháng cuối cùng của thập niên 80s?. Ba trong số những dữ kiện quan trọng lại là những dữ kiện ít được nhắc đến nhất, đặc biệt tại Hoa Kỳ và Âu Châu, có lẽ vì chúng không nhấn mạnh đến các vai trò của các vị giáo hoàng La Mã, tổng thống vả thủ tướng của các nước phương Tây.. Chủ yếu là sự tự giải phóng của các quốc gia Đông Âu. Nhưng có những lý do cho các quốc gia này có được vị trí đề làm được cuộc tự giải phóng đó là sự thất bại cũa Liên Sô tại cuộc chiến Afganistan, món nợ ngoại quốc tàn khốc gây ra bởi các chế độ cộng sản cầm quyền tại các nước trong khối Varsaw, cộng thêm sư rớt giá dầu thô thê thảm trện thế giới trong những năm 80s đã làm Liên Bang Sô Viết kiệt quệ đến vỡ nợ.. Gorbachev đã phải ứng phó với những biến cố này cũng to lớn như nhu cầu có những thoả thuận về ranh giới chính trị với người Mỹ.
Đối với dữ kiện thứ nhất, đã có một lý do ít được đề ý đến là: vì sao, vào lúc khởi đầu của cuộc cách mạng Công Đoàn tại Ba Lan những năm 1980-1981, Liên Sô đã không mang xe tăng vào Varsaw va Gdanks như đã từng làm tại Budapest năm 1956 và tại Prague năm 1968.? Câu trả lời đến từ một tay biện hộ giáo điều nhất cho chủ nghĩa đế quốc Sô Viết của điện Cẩm Linh, nhà lãnh đạo tư tưởng Mikhail Suslov: “ Chúng ta đơn giản không có khả năng có thêm một cuộc chiến Afganistan nữa…” ông ta nói trong một cuôc tranh luận gay gắt về lãnh đạo..
Liên Sô đã nhận ra rằng họ đã sai lầm khi xâm chiếm Afganistan chẳng bao lâu sau ngày đoàn quân của họ tràn vào cuối năm 1979. Gorbachev đã không dính líu gì đến quyết định xâm lăng đó. Ông đang còn là một thành viên cấp dưới và chỉ biết được tin qua là sóng radio. Ông là một trong những nhân viên Liên Sô đầu tiên gọi cuộc chiến là” vết thương rỉ máu của chúng ta”, và thường so sánh nó với cuộc chiến tại Việt Nam. Khi ông lên nắm quyền, đã có đến gần 10 ngàn lính Sô Viết ngã xuống. Ông và đoàn tuỳ tùng của ông bèn quyết định kết thúc chiến tranh.. Đặc biệt khi các tướng lãnh nói cuộc chiến không thể thắng nổi và điều tốt nhất quân đội Sô Viết có thể làm được là cân bằng lực lượng , hàm ý chỉ thua hay hoà mà thôi. . Câu hỏi được đặt ra là làm sao rút lui mà không quá mất mặt? Gorbachev đã có thể kéo quân ra ngay trong những tháng đầu tiên ngồi ở văn phòng điện Cẩm Linh và đổ lỗi về cuộc chiến tranh tồi tệ lên đầu những vị tiền nhiệm của ông. Một bước đi như vậy có lẽ đã mang đến cho ông những tràng vỗ tay ca ngợi từ phương Tây. Nhưng ông đã bỏ lỡ cơ hội. Có lẽ ông đã không thể đối diện sự sỉ nhục về một thất bại của một Sô Viết hùng mạnh trước một đối thủ chỉ là một bọn khủng bố lạc hậu nhỏ nhoi. Như ông đã nói : “ Bạn bè chúng ta …có lẽ cũng rất quan tâm tới. Họ nghĩ điều đó có thể là một đòn nặng đánh vào uy quyền Sô Viết”.
Vì vậy trong 4 năm trời, ông tìm cách chối quanh, lại thêm hơn 6000 lính Sô Viết và 200,000 quân Afgans tử vong, việc điều hành quân sự trong cuộc chiến ngày một khó khăn chật hẹp hơn . Vào thời điểm đoàn quân Sô Viết Đỏ rời bỏ Afganistan, những nhà phản kháng tại Trung và Đông Âu cảm thấy bớt lo ngại hơn trong việc Liên Sô sẽ dùng sức mạnh quân sự đè bẹp họ.
Đối với dữ kiện thứ hai, thủ tướng Hungary vào những năm cuối 1980s, ông Miklós Németh đã giải thích việc nước ông đã xử dụng một tỷ đồng (Deutschmark) vay mượn từ Tây Đức trong năm 1987 ra sao. Tiền cho vay với mục tiêu cải tổ kinh tế, nhưng ông nói: “ Chúng tôi tiêu hết hai phần ba số tiền chỉ để trả tiền lời cho các món nợ cũ. Phần còn lại thì dùng vào việc nhập cảng hàng hoá tiêu thụ với mục đích làm giảm nhẹ nỗi ám ảnh của cuôc khủng hoảng kinh tế trong nước.” Hầu như tất cả các chế độ cầm quyền trong khối Đông Âu, ngoại trừ Romania, đều mang nợ phương Tây ngập mặt, khoảng nợ nần lên đến 150 tỷ Mỹ kim tính cho đến cuối năm 1989. Vậy mà họ vẫn tiếp tục dối trá về tình trạng kinh tế của họ.Tỷ như Đông Đức, nơi mà Ngân Hàng Thế Giới bị lừa gạt để liệt kê quốc gia này vào danh sách quốc gia giàu có xếp hàng 11 trên thế giới, thì đã phải dùng trên 70% thu nhập quốc gia để trả những khoản nợ ngoại quốc và thú nhận rằng khó lòng trả nổi tiền lời. Những lãnh tụ cộng sản như Eric Honecker và János Kádár đều nghĩ rằng con đường duy nhất để chế độ sống còn là tiếp tục vay mượn từ các ngân hàng phương Tây. Các ngân hàng lại coi khối Đông Âu là nơi chốn cho vay an toàn. Họ nghĩ rằng Liên Sô là chỗ dựa bảo đảm cho các quốc gia này tránh đi đến chỗ phá sản. Nhưng Gorbachev không còn sẵn lòng hoặc không có thể bảo đảm cả về kinh tế hay chính trị cho các chế độ cầm quyền trong khối này nữa. Như Németh, sau này trở nên một ông chủ ngân hàng giải thích: “ Sự dãy chết của hệ cộng sản đã bắt đầu từ giây phút các ngân hàng Tây Phương cho các nước như Hungary vay mượn. Chúng tôi đã bị cắn câu.”
Dữ kiện thứ ba, sự sụp giàm giá dầu thô vào các năm 1985-1986 tạo nên cuộc khủng hoảng cuối cùng của chủ nghĩa cộng sản Sô Viết. Thu nhập từ xuất cảng của Liên Sô suy sụp khiến nhiều nhà lãnh đạo phải đặt dấu hỏi về lề lối làm việc của hệ thống kinh tế của toàn khối cộng. Liệu việc tài trợ cho các quốc gia khối Varsaw dầu thô và hơi đốt thiên nhiên với giá rẻ để có được những món hàng hoá tiêu thụ phẩm chất tồi tàn hoặc vô giá trị có đáng hay không? Các nhà kinh tế và tư tưởng tại Moscou bắt đầu đặt câu hỏi về quan hệ giữa Liên Sô và các quốc gia hành tinh của nó. Bất ngờ một xì căng đan nhỏ gây nên hành động: Chư hầu thân cận nhất của Liên Sô, Bulgaria, đã mang dầu thô giá rẻ nhận được từ Liên Sô bán cho phương Tây với giá thị trường để bỏ túi phần lợi nhuận với các đồng tiền mạnh (Euro,Mỹ kim).. Khi Gorbachev biết được chuyện này, ông đã nổi trận lôi đình với Todor Zhivkov, nhà độc tài cộng sản đã nắm quyền ở Sophia trong ba thập niên. Sự việc đã làm biến đổi hẳn thái độ của ông đối với khối Đông Âu, nơi trong lòng ông đã sẵn không còn thấy hứng thú. Từ đó, ông đã thay đổi các điều kiện trao đổi thương mại giữa Liên Sô và các nước đàn em , đồng thời bảo cho các nhà cầm quyền càc chế độ của họ hãy tự đứng trên đôi chân của mình hay sụp đổ, từ nay đàn anh Liên Sô không trợ giúp họ chống lại nhân dân họ nữa.
Dù vậy, những tay cộng sản giáo điều gộc cỡ Honecker lại không tin lời nói ấy. Ông ta nghĩ rằng khối Đông Âu có tầm ảnh hưởng quá quan trọng làm sao Liên Sô có thể bỏ rơi.
Tây Phương trở nên món mồi béo bở hơn đối với Gorbachev, không chỉ trong địa hạt chính trị kinh tế mà cả trong môi trường cá thể. Ông miễn cưỡng khi chuẩn bị trong những chuyến đi đến thủ đô các nước Đông Âu, nhưng lại rất năng nổ trong các hội nghị tại London, Paris hay Rome. Ông thấy chán nản khi đàm luận với những đầu óc đần độn của các thành viên bộ chính trị tại Prague. Làm sao so sánh nổi với việc được một đoàn xe hộ tống trên Đại Lộ thứ Năm ở New York với sự hoan hô vang dậy của người Mỹ dọc hai bên đường vẫy chào với cờ Sô Viêt trên tay cùng những áp phích mang những dòng chữ: “ Chúc phúc cho ông, người kiến tạo hoà bình.”
Gorbachev không bao giờ có một kế hoạch hoặc là rút lui hay giữ nguyên quyền lực của Sô Viết tại các nước khối Đông Âu. Ông nghĩ rằng ông có thể khuyến khích tạo nên những tiểu Gorbachevs tại các nước này để thay thế cho đám lãnh tụ “bình vôi”già nua bất tài độc đoán mà nhân dân họ chán ghét.. Điều lầm lẫn lớn nhất của ông là, ngay cả khi bức tường Berlin đã đổ xuống, ông vẫn tin rằng những quốc gia này sẽ tiếp tục ở lại trong quỹ đạo xã hội chủ nghĩa của ông. Nhưng đã từ lâu, ông đã quyết định không dùng sức mạnh để duy trì một đế quốc. Lịch sử ghi lại rằng có rất ít lãnh tụ đã làm như ông Bằng đánh giá của riêng mình, Gorbachev cho rằng ông đã thất bại. Ông tin rằng ông đã có thể cứu được chủ nghĩa cộng sản. Có thể nói ông là một người yêu nước ở trên một con tàu đang chuẩn bị đắm chìm khi ông vừa cầm tay lái. Là một con người , một khuôn mặt lịch sử đầy nghịch lý. Cái nghịch lý lớn nhất là Mikhail Gorbachev sẽ được nhớ đến như một nhân vật vĩ đại chỉ vì ông thất bại.
Phương Duy [phỏng dịch]
Nguồn: A patriot who gave away his empire của Victor Sebestyen, AFR 04/09/2009 & The accidental hero of 1989, Victor Sebestyen, Prospect Magazine, 28th July 2009 — Issue 161