Vấn đề dân tộc Việt Nam có “bốn ngàn năm văn hiến” như các nhà văn hóa hiện nay đã tuyên bố khiến cho cho trong giới thanh niên trí thức thắc mắc và nghi ngờ, không biết hai chữ “văn hiến” có ý nghĩa gì, và căn cứ vào đâu để nói với cả một tin tưởng.
Nguyễn Trãi, khi giúp Lê Thái Tổ đánh đuổi quân Minh, xây dựng lại nền độc lập, tự trị của nước nhà cũng chỉ tuyên cáo với quốc dân:
“Dụng ngã Việt chí quốc,
Thực vi văn hiến chi bang.
Sơn xuyên chi phong vực ký thù,
Nam Bắc chi phong tục diệc dị.
Việt, Triệu, Đinh, Lý, Trần chi triệu tạo ngã quốc
Dữ Hán, Đường, Tống, Nguyên nhi các đế nhất phương.”
Nghĩa là:
“Thử xét nước nhà Đại việt.
Vốn thật một nước văn hiến.
Núi sông khu vực đã khác biệt,
Phong tục phương Bắc, phương Nam không giống.
Từ Triệu, Đinh, Lý Trần dựng nên nước ta,
Với Hán, Đường, Tống, Nguyên ai nấy làm chúa một phương.” (1)
Đấy là Nguyễn Trãi, muốn cổ võ cho tinh thần quốc gia dân tộc mà cũng chỉ dám kể từ nhà Triệu, tự xưng là Nam Việt vương đóng đô ở Phiên ngung ngày nay là Quảng châu tỉnh Quảng đông vào năm 237 trước T.c Tính đến ngày nay 1973 thì mới được 1980 năm. Như vậy thì lấy đâu ra 4.000 năm văn hiến? Nói đến Văn Hiến là ngụ ý có văn chương bút ký và ngưới hiền tài, có công trình xây dựng cho nước, cho dân mà đời sau còn tôn thờ làm Anh hùng Dân tộc. Nói “Bốn ngàn năm văn hiến” của Vịệt nam chẳng hoá ra ngoa ngôn cuồng tín hay sao? Khổng phu tử xưa kia nói đến nước Hạ, nước Ân cũng chỉ dám dám tuyên bố:
“Hạ lễ ngô năng ngôn chi, Kỷ bất túc trưng dã.
Ân lẫ ngô năng ngôn chi, Tống bất bất túc trưng dã
Văn hiến bất túc, cố đã!” (Luận ngữ – Bát dật)
Nghĩa là:
“Chế độ nhà Hạ ta có thể nói được mà nước Kỷ là dòng dõi nhà Hạ không còn gì đủ chứng lời ta.
“Chế độ nhà Ân ta có thể nói được mà nước Tống là dòng dõi nhà Ân không còn gì để chứng thực lời ta. Bởi vì văn thư và người hiền chẳng đủ nên không lấy gì làm chứng cứ được !”
Xem thế đủ thấy nhà nhà sử gia có lương tâm của một người học giả phải thận trọng điều mình nói, mình viết là nhường nào! Nay nói “Bốn ngàn năm văn hiến” có nghĩa là bốn ngàn năm trước Việt nam đã có văn thư và người hiền, vậy thì lấy gì làm chứng cứ?
Lại theo quốc sử, vua Trần Nhân Tông khi sai Quốc Tuấn ra chận đánh quân Nguyên có ban cho câu thơ nhắc đến Việt tộc:
“Cối kê cựu quân tu ký
Hoan Diễn do tồn thập vạn binh.”
Nghĩa là:
“Chuyện cũ ở kinh đô Cối kê của Việt vương Câu Tiễn, ông nên nhớ.
Châu Hoan, châu Diễm (Thanh hoá, Nghệ an) còn có mười vạn quân.”
Ở đây, Trần Nhân Tông đã nhắc đến dòng dõi nhà Trần ngược dòng lịch sử đến thời oanh liệt và nhục nhã của ông Tổ xa xăm là Việt vương Câu Tiễn, đóng đô ở Cối kê miền Triết giang bên Tầu. Theo “Sử Ký Tư Mã Thiên” mục “ Việt vương Câu Tiễn thế gia”, q.41, ch. 11:
“Việt vương Câu Tiễn dòng dõi vua Vũ mà là con thứ của vua Hạ hậu Thiếu Khanh (2079 tr. T.c) được phong ở Cối kê để thừa tự họ Vũ. Vẽ mình cắt tóc, phá cỏ rậm để lập ấp, sau hơn 20 đời đến Ô Doãn Thường. Doãn Thường bấy giờ cùng với vua Ngo Hạp Lư đánh nhau gây thành oán thù lẫn nhau. Doãn Thường mất, con là Câu Tiễn được nối ngôi làm vua Việt. Năm đầu vua nước Ngô là Hạp Lư nghe tin Doãn Thường đã chết mới kéo quân sang đánh nước Việt, vua Việt Câu Tiễn dùng mưu đem ba trăm tử tù đến trước cửa doanh vua Ngô, bầy hàng hô lên rồi tự đâm vào cổ chế. Quân vua Ngô ra xem, quân Việt nhân thế đánh tập kích quân Ngô, quân Ngô thua ở Tuy lý, quân Việt bắn trúng vua Ngô Hạp Lư, Hạp Lư bị thương rồi chết, bảo với con là Phù Sai rằng:”Không được quên mối thù đối với nước Việt !” Ba năm Câu Tiễn thấy vua Ngô Phù Sai đêm ngày luyện quân sĩ để báo thù nước Việt. Nước Việt muốn đánh Ngô trước khi nước chưa động binh. Phạm Lãi can vua rằng: -”Không nên. Tôi nghe dạy rằng binh đao là đồ dữ, đánh là cái đức tính ngược, tranh dành là việc hèn mạt vậy. Âm mưu, bạo ngược, thích dùng khi giới dữ tợn, đem thân thí nghiệm vào công việc hèn mạt ấy là điều Thượng đế ngăn cấm, kẻ làm điều ấy không có lợi ích !” Vua Việt nói: “Ta đã quyết định rồi !” Vua kéo quân đi đánh nuớc Ngô. Vua nước Ngô được tin mới đem quân tinh nhuệ đánh quân Việt hại ở Phù tiêu. Vua Việt mới thu quân còn lại 5.000 người về giữ ở Cõi kê. Vua Ngộ đuổi đánh vây Cối kê. Vua Việt gọi Phạm Lãi lại nói: “Vì không nghe lời ông cho nên đến nỗi này, biết sao bây giờ?” Lãi lại nói: “ Đầy mà không tràn là đạo Trời, khiêm nhường là đạo người, tiết dụng là theo phép là đạo Trời, khiêm nhường là đạo người là đạo người, tiết dụng là theo phép đất: Đưa đồ lễ hậu sang, lấy lời nói nhún nhường của khúm núm, không để cho lấy nước Việt mà tự đem thân mình sang hầu hạ!” (2)
Nếu căn cứ vào dòng dõi Việt vương Câu Tiễn thì theo bộ sử cổ điển nhất của Tư Mã Thiên, một sử gia danh tiếng thế kỷ I trước Công nguyên thì chủng tộc Việt nam bắt nguồn từ nhà Hạ bên Tầu (2205 – 1770 tr. C.n) mà họ Hồng Bàng theo Việt sử có từ 2879 tr. C.n., bắt đầu từ Kinh Dương Vương, truyền đến Hùng Vương tên nước là Văn lang, đóng đô ở Phong châu. Phong châu theo sử cũ thì phía Đông đến bể, Tây đến Ba thục, Bắc đến Động đình hồ, Nam tiếp giáp với Hồ tôn.(3)
“Việt sử lược là” là bổ sử đầu tiên của Việt nam cũng viết rõ hơn:
“Xưa Hoàng đế dựng muôn nước thấy Giao chỉ ở xa ngoài cõi Bách việt, không thể thống thuộc được bèn chia giới hạn ở góc Tây Nam.
“Đến đời Thành vương nhà Chu (1024-1005 tr. C.N) Việt Thường thị mới đem dâng bạch trĩ, sách Xuân Thu, gọi là khuyết địa Đài ký (Lễ ký Đại Đái, Tiểu Đái chú) gọi là Điêu đề.
“Đến đời Trung vương nhà Chu (696-682 tr. C.n.) ở bộ Gia ninh (tức là Mê linh nhà Hán). Phong châu đời Đường quê hương của Trưng Trắc mà theo truyền thuyết là dòng dõi Hùng Vương có người lạ, dùng ảo thuật áp phục được các bộ lạc, tự xưng là Hùng Vương, đóng đô ở Văn lang, hiệu là nước Văn lang, phong tục thuần hậu, chất phác, chính sự dùng lối kết nút. Truyền được 18 đơiø đều gọi là Hùng Vương. Việt Câu Tiễn (505-465 tr. C.n.) đã sai sứ tới dụ, Hùng vương chống cự lại.
“Cuối đờ Chu, Hùng vương bị con vua Thục là Phán đánh đưổi mà lên thay. Phán đắp thành ở Việt thường, xưng hiệu là An Dương Vương, không thông hiếu với nhà Chu.
“Cuối đời Trần, Triệu Đà chiếm cứ Uất lâm Nam hải, Tượng quận, xưng vương đóng đô ở Phiên ngung, quốc hiệu là Việt, tự xưng là Vũ Vương” (4)
Trong các đoạn văn sử kiện chính thức của Tầu và Ta thì có điểm nào là sự thực, điểm nào là truyền thuyết ?
Ông giáo sư Henry Maspéro, trường E.F.E.O. Viễn đông Bác cổ học viện, có căn cứ vào hai chữ Văn lang để mô tả xã hội cổ xưa của giống ngưới Việt trên đất Giao chỉ. Truy nguyên hai chữ Văn lang, H.Maspéro viết: “có sự lầm lẫn giữa chữ Văn lang với chữ Dạ lang. Sự sai lầm không phải hoàn toàn là một giả thuyết, những bản văn chứng rằng sự lầm lẫn đó đã xẩy ra thực. Sách “Thông điển” viết: “Phong châu là nước Căn lang cũ và chú thích rằng hiện nay có con sông con gọi là sông Văn lang.” (q, 184. tr. 25b).) Sách “Nguyên hòa quận huyện chí” kạu viết: “Phong châu là tên nước Dạ lang. Thếmà vào khỏng đầu đời nhà Hán có một nước Mèo ở về phía Nam Trung hoa tên gọi là Dạ lang chiếm một phần tỉnh Quảng Tây và Quế châu. Về phía Tây giáp nước Điều của người Lô lô miền Tây tỉnh Vân nam bấy giờ, phía Đông hồ Vân nam. Nhưng người ta biết rằng nước Mèo đã quy phục nhà Hán năm 111 tr. Tây lịch và gọi là Kiện vi. Sau này quận đó chia làm hai, quận Kiện vi ở phía Bắc và quận Thương ngô ở về phía Nam. Nếu muốn biết rõ biên giới của hai quận này thì cũng không khó khăn lắm. Cuối đời Tiền Hán, quận Kiện vi phía Bắc và phía Tây giáp sông Dương tử giang ngăn quận Kiện vi với quận Ba. Còn quận Thương ngô thì phía Bắc giáp quận Kiện vi, phía Tậy giáp quận Tấn Ninh tức là nước Điền cũ, phía Đông Bắc giáp quận Vũ lăng tức là quận Kiế trung đời nhà Tấn. Ở đó có hồ Động đình”. (5)
“Vậy người ta có thể nói rằng, nước Dạ lang một mặt thì giáp quận Ba thục và một mặ thì giáp hồ Động đình.”
Đấy là Văn lang về khu vực địa lý. Maspéro còn truy nguyên Văn lang về ý nghĩa chủng tộc nữa như sau:
“Nhưng cái tên Văn lang ở đâu mà ra? Một tên không thấy nói đến trong văn chương đời xưa cho tới thời Đường xuất hiện một cách đột nhiên, và lúc bấy giờ đã bị lầm với tên Da lang. Phải chăng người ta tự hỏi cái tên đó là do một sự lẫn lộn khác ? Sách “Lâm ấp ký” đặt về phía Nam huyện Chu ngô trong hạt Nhật nam, nơi có giống mọi gọi là Văn lang (sách Thủy kính chú, Thái bình hoàn vũ ký cũng có ghi như thế). Họ không biết xây nhà, ở trên cây, ăn cá và thịt sống, buôn bán các chất thơm. Họ lấy tên họ đặt cho con sông phía Nam huyện ấy. Văn lang Cứu… sau này họ lại lầm Văn lang với Dạ lang, thành thử họ cho Văn lang ở quận Phong thuộc địa phận huyện Bạch hạc và Việt Trì ngay nay, đồng thời lại viết lầm hai chữ mà sử gia Việt nam đã chép theo.”
Đoạn văn suy diễn trên đây của Maspéro toàn là suy từ gỉa thiết lầm chữ nõ ra chữ kia của người xưa, thật cũng khó cho chúng ta tin, duy có chữ Văn lang là tên một giống người ở phương Nam Trung hoa là đáng cho chúng ta để ý.
Sách Sử ký của Tư Mã Thiên chép lại đoạn văn ở Chiến quốc sách (q. 6 tờ 21) thế kỷ thứ III trước Tây lịch: “tiễn phát văn thân thố tí tả nhậm Âu việt chi dân dã” (Sử ký q.43 tờ 9).
Sách Hoài Nam tử (q.1 tờ 4) cũng có đọan viết về tục người Việt, và là tài liệu xưa nhất về ký chú: “ Cửu nghi chí Nam, lục sự quả nhi thủy sự chúng. Ư thị dân nhân bị phát văn thân dĩ tượng lân trùng.”
Nghĩa là:
“Phía Nam Cửu nghi (tức Thương ngô) người ta làm việc treê bộ ít mà làm việc dưới nước nhiều. Bởi thế nên nhân dân cắt tóc ngắn, vẽ mình để bắt chước thuồng luồng.” Theo Giáo sư La Hương Lâm là nhà sử học danh tiếng Trung quốc hiện đại, trong tác phẩm “Bách Việt nguyên lưu dữ văn hóa” : Việt tộc thời cổ lấy cắt tóc vẽ mình “bị phát văn thân” làm dấu hiệu đặc trưng duy nhất. Mặc tử thiên “Công Mạnh” “Việt vương Câu Tiễn tiển phát văn thân.”
Hán Phi tử thiên Thuyết lâm:
“Lũ vì lí chi dã, nhi Việt nhân tiện hành, cảo vi quán chi dã, nhi Việt nhân bị phát”: “dép gai làm giầy mà người Việt đi chân, the lụa làm mũ mà người Việt búi tóc.” “Hán thư địa lý chí” viết:
“Nay Thương ngô, Uất lâm, hợp phố, Giao chỉ, Cửu chân Nam hải, Nhật nam đều là địa phận của người Việt, là sau vua Vũ, con thứ vua Thiếu Khang đế, được phong ấp ở Cối kê, vẽ mình cắt tóc để tránh cái hại về giao long, thuồng luồng, cá sấu.
Tóm lại, các sách cổ Hán văn đều ghi từ kỷ nguyên trước kỷ nguyên Thiên chúa, ở phương Nam nước Tầu ngày nay có một giống người có tục vẽ mình, Văn lang phân chia ra nhiều bộ lạc mà s73 gia giáo thụ La HƯƠNG Lâm lang phân chia ra nhiều bộ lạc mà sử gia giáo thụ La Hương Lâm đã kê cứu: Ô việt, Âu việt, Mân việt, Dương việt, Sơn việt, Nam việt, Lạc việt, Tây Âu việt, Việt thường, Dan việt, Đằng việt, Điền việt, Việt tủy, Cứu việt, Da lang, Qùi việ v.v… Đấy là tổng danh Bách việt vậy.
Giáo sư L. E. Aurousseau Trường Viễn đông E.F.E.O. cũng căn cứ cái tục Văn lang, nghĩa là bộ lạc giống người vẽ mình để truy nguyên nòi giống Việt, căn cứ vào đoạn văn Sử ký sau đây:
“Tiến phát văn thân thố tí tả nhậm Âu Việt chi dân dã.” (Sử ký q.43 tờ 9).
Nghĩa là:
“Cắt tóc vẽ mình, khoanh tay, áo cài bên trái, đấy là tục của dân Âu việt.”
Và chú giải của Tư Mã Thành rằng: “Họ Lưu bảo ngày nay (đầu thế kỷ thứVIII) người quận Châu nhai và Đàm nhĩ có Âu việt.”
Trương Thủ Tiết (373) giải thích:
“Tôi nghĩ gọi là Âu việt bởi vì dân ấy thuộc về Nam việt, Theo “Dư địa chí “ thì Giao chỉ là xứ Lạc việt thời nhà Chu (841-256 tr. C.n.), đến thời nhà Tần gọi là Tây Âu. Vẽ mình, ngắn tóc để tránh rồng (cá sấu). Nếu người ta gọi là Âu lạc phía Tây (Tây Âu lạc) là cũng vì xứ ấy ở về Tây Nam quận Phiên ngung. Việt với Âu lạc đều họ Mi. Thế Bản nói người Việt họ Mi cùng với người Sở một tổ vậy.”
Rồi Aurousseau suy luận rằng:
Đoạn văn sử ký Tư Mã Thiên với lời chú giải và văn trích dẫn rất đáng chú ý về nhiều mặt. Những nét phong tục phác hoạ ở đấy ứng dụng vào cho nhân dân miền Lưỡng quảng và Bắc kỳ hiện nay vào thời thế kỷ thứ III thứ II trước Công nguyên Tầu lịch. Không có gì phân biệt giữa nhân dân trên lãnh thổ rộng lớn ấy cả. Điều ấy rất hợp cho các bộ lạc miền cực Nam là dân An nam trước Công nguyên cho nên có thể kết luận là toàn thê nhân dân tỉnh Quảng đông, Quảng Tây và đảo Hải nam là giống người Việt nam trước thế kỷ II tr. T.c. Một danh từ nhân chủng là Việt chỉ định tổng quát.
“Mặt khác, một tên họ Mi thời ấy được xác nhận cho người Việt, – Việt Quảng đông và Việt Phúc kiến. Như vậy có sự quan hệ mật thiết về dòng dõi giữa nhân dân Phúc kiến và nhân dân các xứ Việt nam vào thế kỷ thứ III tr. Thiên chúa.
“Danh từ Việt vào giữa thế kỷ thứ IV trước kỷ nguyên Thiên chúa còn ứng dụng cho một nước mà kinh đô ở tại tỉnh Thiệu hưng (Triết giang) ngày nay. Theo tôi hiểu thì nhân dân của nước ấy là nước Đại việt thuộc về nòi giống Việt phương Nam tức là giống người Việt nam vậy.
“Thực tế, Tư Mã Thiên nói ở thiên sách sử ký về “Việt thế gia !”
“Tổ Câu Tiễn là dòng vua Vũ… Văn thân đoạn phát…”
Danh từ “văn thân đoạn phát” đúng như danh từ được dùng ở “chiến quốc sách” (thế kỷ III tr. C. n.) ở sử ký (cuối thế kỷ II tr. T.c.) và ở “Tiền Hán thư” *thế kỷ I đầu kỷ nguyên) để nói về phong tục giống nhau của giống người Việt, Việt phương Nam và Âu việt tức Việt nam.
Một tác phẩm khác cổ xưa, chuyên nòi vè sự suy bại của nước Việt là”Việt tuyệt thư” (thế kỷ I kỷ nguyên Tây lịch) cũng nói ở mục Bản sự rằng: “Vua Việt Câu Tiễn, ỡ miền duyên hải phía Đông và cai trị một dân mọi vẽ mình.” Cái tên Việt với tục “Văn thân” giống nhau ấy là xác chứng danh từ Việt phổ thông chỉ định vào thế kỷ III tr. kỷ nguyên T.c. cho toàn thể chủng tộc nhân dân các tỉnh Trung hoa miền Nam và các xứ Việt nam.”
“Cùng một nhân chủng Việt, cùng một họ Mi và cùng một phong tụ, như vậy phải kết luận rằng người Việt nam nguồn gốc ở nước Việt xưa, thiết dựng tại miền Triết giang từ bao giờ không biết và lần đầu thấy ở trong lịch sử chính thức vào cuối thế kỷ IV trước kỷ nguyên Thiên chúa.” (6)
Vậy có thể nói chắc rằng thời cổ xưa ở miền Nam nước Trung hoa có một giống người theo tục vẽ mình gọi là “Văn thân”, “Văn lang” phân biệt với giống người Hán tộc ở trên phía Bắc Trung hoa, trong lưu vực Hoàng hà, còn lưu vực Dương tử kể từ nước Sở trở xống là khu vực sinh hoạt của Việt tộc Văn lang, họ Mi gọi chung là Bách việt, mà Việt vương Câu Tiễn ở kinh đô Cồi kê, miền Triết giang đã từng có một thời đế bá oanh liệt. Bởi thế nên trong thơ “Sở từ” của Khuất Nguyên mới có lời ai oán, tiếc nhớ:”
Răng đen mình trổ dọc ngang
Vài lời thơ của Vua Trần Nhân Tông giữa lúcvận nước điêu linh đã nói cho Thượng tướng thống lĩnh quân dân cứu quốc:
Cối kê cựu sự quân tu ký
như đã dẫn trên để chứng minh nhà Trần vẫn nghĩ đến dòng dõi Việt tộc Câu Tiễn ở Triết giang thuở xưa. Hơn nữa chình sứ của ta đều chép về nhà Trần sự kiện sau đây:
“Thượng hoàng (Nhân Tông) thường ngự Trùng quang cung, Đế (Anh Tông) lai triều Quốc Công, Quốc Tuấn, Thượng hoàng viết: “Ngã gia bản hạ lưu nhân, thế thượng hùng dũng, mội thích long thoa ư bề gian, thế nghiệp vũ, nghi văn bề thị bất vong bản” – Thời văn thích công dĩ sĩ mệnh cung môn ngoại, Đế tư Thượng hoàng tha cố, tức hồi Trùng hoa cung. Lương cửu Thượng hoàng vấn Quan Gia hà tại. Tả hữu đối viết: – Dĩ hồi Trùng hoa cung hỷ !
“Thượng hoàng viết: – Quan Gia dĩ độn da? Tắc văn thích Huệ Vũ, Quốc Chân, Quốc Phụ bề gian hữu long hoa chi thích. Thị hậu tự hoàng vô văn bề do Anh Tông thủy”.
“Hựu quốc sơ quân sĩ giai hồn thích long văn ư phúc, bối cập lưỡng bầ, vị chi thái long. Cái Tống thương khách kiến ngã Việt dân thích long văn ư thân vị hải giao uý long văn, tao phong châu trầm, giao bất cảm phạm, cố tự viết thái long dã.” (7)
Dịch nghĩa:
“Thượng hoàng (Nhân Tông) thường ngự ra cung Trùng quang Vua (Anh Tông) đến chầu có Quốc Công. Quốc Tuấn đi theo. Thượng Hoàng nói:
“Dòng nhà ta vốn sống nghề thuyền chài, đời đời hùng dũng ai ai đều xâm vẽ đùi. Đời nọ sang đời kia chuộng võ nghệ nên phải xem xâm vẽ đùi tỏ ra không quên gốc. Bấy giờ người thợ xâm mình đang chờ ở cửa để thừa hành mệnh lệnh. Vua Anh Tông liếc thấy Thượng Hoàng nhìn đi chỗ khác bèn cỏ về cung Trùng hoa. Một lát sau Thượng Hoàng hỏi: Vua đâu? Tả hữu Vua đã trốn chăng? Mới chỉ xâm mình cho Huệ Vũ vương Quốc Trân vương. Hưng Đạo vương ở đùi cái hình rồng “long thoa”. Từ đấy về sau các vua nối nghiệp nhà Trần không có xâm vẽ dùi nữa là bắt đầu từ vua Anh Tông vậy.
“Buổi đầu lập quốc nhà Trần, quân sĩ đều dùng xâm vẽ hình rồng ở bụng, ở lưng và ở hai bên đùi, gọi là “thái long” “vẽ rồng”. Bởi vậy mà lái buôn nhà Tống thấy dân Việt ta xâm vẽ hình rồng vào thân mình mới bảo là giống thuồng luồng ở biển sợ hình rồng, thuyền đi biển gặp gió chìm đắm thì thuồng luồng không dám làm hại cho nên tự gọi là “thái long” “vẽ rồng” vậy.”
Xem đầy đủ thấy rằng không những ở giới lãnh đạo có những người hiền năng “văn hiến” thuộc người phương Bắc, di cư xuống Việt nam, lai máu định cư ở đấy lâu năm với người bản xứ, mà còn có cả lớp người bình dân như họ Trần dòng Việt tộ phương Nam Trung hoa đã di cư xuống Việt nam còn giữ những tập tục cổ truyền Văn lang.
Ngoài ra, bên cạnh cái nền Văn hiến dòng Việt Câu Tiễn trong nền Văn hiến Việt nam kể từ thế kỷ thứ IV, thuộc về sử kiện lịch sử, ngày nay người ta lại chứng minh cách chính xác sự có thật của Văn hiến Ba thục (Tứ Xuyên) trong lịch sử dân tộ Việt nam.
Theo Lã Sĩ Bằng trong tác phẩm “Bắc thời kỳ đích Việt nam” do “Đại học Trung văn” ở Hương cảng xuất bản có trình bầy sự kiện về tiền sử văn hóa Thục Việt như sau:
“Qua sự khai quật khảo cổ cận đại, người ta thấy chứng minh hai khu vực văn háo trên rất giống nhau. Sự phát hiện về tiền sử ở Tứ xuyên có thê phân ra 4 thời kỳ đồ đá:
1) thời đồ đá đẽo
2) thời đồ đá truốt, mài
3) thời đồ đá đẽo, truốt, mài
4) thời đồ đá mài sáng.
“Trong bốn loại ấy, thì loại thứ 1 và thứ 2 thấy ở tầng lớp vị trí trước sau rõ ràng giống hệt với văn hóa Hòa bình và Bắc sơn ở Việt nam. Như thế có nghĩa là thời đại Trung thạch khí (Mesolithic) ở Tứ xuyên đến thời đại Á tân thạch khí (Sub Neolithic) thì giống với văn hóa Việt nam thời đại Hòa bình Trung thạch khí, và thời đại Bắc sơn Nguyên tân thạch khí (Proso-Neolithic).”
Đại thể thì kỹ thuật thời tiền sử của hai khu vục văn hóa chỉ là một, có đường lối thông đồng. Chủ nhân của văn hóa Hòa bình ở Việt nam, thuộc về chủng tộc “Proto-Austrloid” và “Proto-Melanésoid”, còn chủ nhân của văn hóa Bắc sơn thành phần chủ yếu thuộc về “Indonesian” và “Proto-Melanésoid”.
Về văn hóa thời đại Thanh đồng thuộc đồ kim khí ở Việt nam gọi là văn hóa Đông sơn lấy Trống đồng. Di tích phát hiện Trống đồng thấy ở một khu vực địa lý rộng lớn chu vi gồm lục địa Đông Nam Á châu, bán đảo hải đảo từ Tứ xuyên cho đến (Malacca) quần đảo Ma-lộc-da. Theo giáo sư LănThuần Thanh từng nghiên cứu thì bắt đầu khởi đúc trống đồng là ở Trung quốc Bách Việt mà Hoa trung là địa khu từ xưa của dân tộc Bách việt chiếm cứ sinh hoạt. Theo sự phát hiện trống đồng tối cổ ở Hoa trung thì thấy nhiều nhất ở huyện Hưng văn tỉnh Tứ xuyên. Còn ở bán đảo Đông dương thì trống đồng Lạc Việt ở Bắc kỳ và Bắc Trung kỳ là có danh tiếng hơn cả. F.Heger, nhà khảo cổ học gọi trống đồng Lạc việt thuộc hạng thứ nhất.
Khảo bề dân tộc Bách việt thời cổ, bao hàm Bách việt miền Đông Nam với Bách bộc miền Tây Nam Trung Quốc thấy rằng thời cổ xưa khu địa lý của nước Thục với Bách việt vốn liền với nhau.
Theo “Hoa dương Quốc chí” q. 3 Thục chí:
“Vua Vũ nhà Chu đánh vua Trụ cùng với nước Thục. Đất Thục phía Đông liền với nước Ba, phía Nam giáp với nước Việt, phía Bắc phân giới với nước Tần, phía Tây gồm núi Nga và núi Phồn, đất ấy xưng là Thiên phủ.”
Nước Thục giao thông với bên ngoài rất phát đạt. Sự giao thông ấy lấy Điền (Vân nam), và đất Kiềm làm chủ yếu, mà sự mở mang đất Vân nam lại hướng bào nước Thục làm trọng tâm để byôn bán mậu dịch. Vân nam với Bắc việt liền tiếp với nhay, từ thời cổ xưa haimiền giao thông rất thịnh, cho nên thời cổ sự giao thông giữa Tứ xuyên với Bắc việt chắc hẳn là tấp nập. Bấy giờ miền hạ lưu sông Trường giang chưa có ảnh hưởng khai hóa của Hán tộc, mãi đến thời Chiến qyyốc (dân mà người Hán gọi là Man di phía Tây trong vùng Tứ xuyên – Bắc việt, và “Tây nam di ở Điền, Kiềm (Vân nam, Qúy châu này nay), nước Tần, nước Sở đang đua tranh vũ lực để thôn tính, kết quả là vua nước Sở Trang Kiêu làm vua Điền (Vân nam) nước Tần chiếm lấy nước Ba, nước Thục, nước Kiềm tức Qúy châu.
Theo Hoa dương Quốc chí q.1 Ba chí viết: “Chu Thuận (Thuyến) làm vua 5 năm (316 tr. T. c.) vua nước Thục đánh chúa Tư, chúa Tư chạy vào nước Ba, nước Ba xin nước Tần cứu. Vua Tần Huệ Văn sai Trương Nghi, Tư Mã Thác đi cứu nước Tư, Ba, bèn đánh nước Thục mà diệt đi.
Từ Chu Thuận Tĩnh làm vua 5 năm (316 tr. Tây nguyên) nước Thục mất về nước Tần, cho đến Chu Báo làm vua 58 năm (257 tr. Tây nguyên) An Dương Vương là Thục Phán xưng vua ở Việt nam, thời gian cách nhau là 59 năm. Trong khoảng thời gian ấy, người dân nước Thục chịu sự áp bách của thế lực quân sự nhà Tần, tập đoàn chống đối quân Tần dần dần đi xuống phương Nam đi vào bắc bộ Việt nam, cùng với vua Hùng Vương nuớc Văn lang đánh nhau tranh dành. Lúc đầu vì thế lực còn yếu, luôn luôn bị thua, mãi sau mới chinh phục được Văn lang. Vầ việc An Dương Vương từ nước Thục đi vào nước Việt, thì sách sử xưa của Tầu và Việt đều không ghi chép lịch trình tiến triển, nhưng cuộc chiến tranh giữa nước Tần và nước Thục có thể tìm thấy dấu vết ở cuộc thiên di về phương Nam của tập đoàn vương thất nước Thục chống đối với nhà Tần.
“Hoa dương Quốc chí” q.3 mục Thục chí viết:
Chu Thuận Tĩnh làm vua 5 năm, quan đại phu nhà Tần là Trương Nghi, Tư Mã Thác, Đô Úy Mặc cùng theo đường Thạch ngưu đánh nước Thục. Vua nước Thục từ đất Hạ Manh chống cự, thất bại, vua chạy trốn đến đất Vũ dương bị quân Tần giết hại. Tướng, phó cùng Thái tử rút lui về Bàng hương chết ở dưới núi Bạch lộc, họ Khai minh mới hết, làm vua nước Thục 22 đời.
Lã Sĩ Bằng trong”Bắc thuộc thời kỳ đích Việt nam” suy diễn sự kiện trên đây như sau:
“Xét việc vua Thục bị ở đất Vũ dương, ngàynay là Bái sơn, vị trí ở phía Nam Thành đô, trên bờ sông Manh khoảng giữa đến như Bàng hương núi Bạch lộc ngày nay ở đâu thì không thể tìm xét, chỉ nên hiểu là ở phía Nam núi Bành, thế nhân vì quân Tần từ phía Bắc xuống miền Nam, tập đoàn người Thục chống đối quân Tần bị thua mà hướng phương Nam để thoái lui vậy. Từ đấy về sau 59 năm có lịch sử đích thực là vua Thục Phán làm vua Việt. Chúng ta có thể suy định rằng vua Thục bị hại ở Vũ dương, QUAN Tuớng, phó, Thái tử đều chết ở núi Bạch Lộc, sau đấy đảng vua Thục còn lại mới suy tôn con hay cháu nhà vua lên tiếp tục chạy về phương Nam, theo hạ lưu sông Manh tiến vào khu đất tiếp giáp giữa Qúy châu và Vân nam thuộc phạm vi thế lực người Sở… Nhưng khu đất giao tiếp giữa Qúy châu (Kiềm) và Vân nam (Điền) thời Hán là Trường kha là đất thủy lảo nghèo nàn. Thục vốn là nước Thiên phủ, người Thục khó ở lâu tại đất ấy được, vã thế lực quân Tần đang rất mạnh, dòng dõi vua Thục hết hy vọng khôi phục lại đất cũ mới tìm phát triển vế phương Nam tiến vào đất bình Hùng Vương tranh chiến, nhiều phen thất bại đến đời Chu Bảo vương năm 518 (tr. Tây nguyên 257) mới chinh phục được Văn lang.
“Sách sử Trung Hoa và Việt nam đều có ghi nhận giai đoạn lịch sử giữa Thục Phán An Dương Vương đánh nhau chinh phục Hùng Vương”.(8)
Xem thế đủ biết chắc chắn là có sự cống hiến vào văn hiến nước Việt nam đều có ghi nhận giai đoạn lịch sử giữa Thục Phán An Dương Vương đánh nhau chinh phục Hùng Vương”.
Xem thế đủ biết chắc chắn là có sự cống hiến vào văn hiến nước Việt nam của giống bộc bên cạnh sự cống hiến của Bách việt. Sự hiện diện của Bách bộc do Thục An Dương Vương với tập đoàn nhà Thục từ Tứ xuyên đi xuống qua Qúy Châu và Vân nam phía Tây Bắc việt ngày nay mà di tích là kiểu thành Cổ loa vốn của nước Ba thục.
Một khi đã chứng nhận có Thục An Dương Vương vào thế kỷ thứ III trước kỷ nguyên Thiên chúa thì phải công nhận có Hùng Vương của nước Văn lang, là chủ nhân đất Bắc việt trước khi tập đoàn vua Thục Phán chinh phục.
Căn cứ vào kết quả của khỏa cổ học của Trường Viễn đông Bác cổ E.F.E.O. TRƯỚC ĐÂY Ở Thanh hóa, Vắc ninh (Bắc Việt nam), và ở Óc eo (Nam Việt nam). Giáo sư Olov Janse, hội viên của Viện, đã tổng kết về “Việt nam ngả ba của dân tộc và văn minh” (carrefour de peuples et de civilisations) ed. France-Asie Tokyo 1961, tr 1645 – “Theo một ý kiến thông thường trước đây thì văn minh Việt nam hoàn toàn từ lưu vực sông Dương tử di chuyển xuống vào thế kỷ thứ IV tr. T. c. Dân mới đến định cư tại Bắc việt hiện thời đã mang theo một thứ văn hóa lai Tầu để rồi dần dần trở nên mô thức bản xứ. Thuyết ấy thiếu căn cứ, không dựa vào một cơ sở chắc chắn và không được hoặc khảo cổ học, hoặc ngữ học, hoặc nhân chủng học công nhận ấn chứng. Những phát hiện trong khoảng 30 năm gần đây chứng minh trái lại rằng văn minh Việt nam đã tuần tự phát triển ở miền Bắc việt và Trung việt từ những pha trộn chủng tộc và những cồng hiền văn hóa mà nguyên lai phải tìm không những ở Tầu mà là ở các biên giới phía Tây lục địa Á châu.
Nếu người ta nghiên cứu về về thời gian tính sự thành lập cá tình văn hóa thuần túy Việt nam người ta có thể phân biệt được ba giai đoạn, mỗi giai đọạn cò một đặc tính kỹ thuật nhất định.
Giai đoạn thứ nhất ngày nay gọi là văn minh Đông sơn bao quát một thời đại giữa kỷ nguyên trước Thiên chúa đến đầu kỷ nguyên sau Thiên chúa. Về khu vực Địa lý của kỹ thuật này thì thuộc miền Tây Nam Trung khoa mà dân cư ở đấy không phải Tầu, bao hàm khắp bán đảo Đông dương (Indochine) và một phàn lớn của dân tộc Proto-Melanésoid Inonesian.
Giai đoạn thứ hai là đặc trưng của kỹ thuật Lạch trường bao quát đại khái ba thế kỷ nguyên Thiên chúa. Nó chi phối một khu vực không được rõ rệt nhưng gồm một phần Tây Nam Trung hoa Bắc việt và một vài tỉnh Trung việt. Văn minh thời kỳ nây là của chủng tộc phần lớn nguồn gốc Thái.
Hai nhóm trên đây ảnh hưởng quyết định không những vào ăn minh Việt nam mà còn vào cả văn minh của nhân dân miền núi hiện đang sinh hoạt ở Tây Nam Trung hoa và phần lớn miền Đông Nam Á.
Giai đoạn thứ ba là văn văn minh Óc eo mà Đặc trưng là kỹ thuật thuộc thời kỳ đầu thế thứ II sau T. c. cho đến năm 500. Nó bao quát một khu vực hãy còn chưa định rõ gồm miền Nam Việt nam và cũng phải đã ảnh hưởng ít nhiều vào các dân tộc sinh hoạt thời ấy theo bờ biển phía Bắc đến tận Thanh Hóa. Văn minh Óc eo thuộc hẳn về dân tộc Ấn độ hay là Indo-Scythe (Nguyệt thị) hình như có giao dịch thông thương trực tiếp hay gián tiếp với miền Cân Đông và La Hy.”
Những suy đoán trên đây của nhà khảo cổ học vè tiểu sử Việt nam trên dải đất Bắc việt có vẻ chính xác hơn là những suy luận về tài liệu sử ký Tầu.
Tiếp tục công cuộc khảo cổ trên đây của Trường Viễn đông, viện bảo tàng Hanoi năm 1963 có phát hiện ở vị trí Văn điển gần Hanoi những dụng cụ thuộc về thời kỳ “ Nguyên tân thạch khí” (Upper Neolithic). Và ông Văn Tân đã suy đoán rằng: “Những hình dạng, kiểu thức và kỹ thuật sản xuất của chúng, cũng như những chất liệu nhắc lại những phát hiện ở Phùng nguyên (Phú thọ có đền Hùng). Vị trí của nơi phát hiện ổ trung tâm trung châu chứng minh rằng 5,000 năm về trước Tiên tổ chúng ta đã định cư tại đấy.(9)
Còn về thời đại đồ đồng thì những phát hiện mới đây ở Bắc việt, vẫn còn theo tài liệu ông Văn Tân dịch thuật ra Anh ngữ trên đây thì:
“Một kho tàng gần 10.000 đầu tên nỏ bằng đồng đã khai quật ở Cổ loa (kinh đô Thục An Dương Vương gần Hanoi) ngày 17 tháng 7 năm 1959. Những đầu tên ấy đều lớn khổ, ba cạnh … Tất cả những đầu tên nỏ ấy đều tương tự với đầu tên của người Tầu thời chiến quốc (468-200 tr. T.c.)
Ở vị trí Việt tiên (Phú thọ) phát hiện năm 1961 trong khoảng đất chu vi rất phong phú, mà đề tài thì tương tự với đề tài trang trí trên đồ khai quật được ở Phùng nguyên. Hơn nữa, trong sự phát hiện thấy có đến 54,3 phần trăm đề bằng đá, điều này chưa từng thấy ở các vị trí “thời đại đồ đồng’ khác. Còn đồ đồng ở đây, phần lớn bị hủ hoại, thì đại khái là đồ nhỏ như lưỡi câu và vòng khuyên hoa tai. Chúng khác hẳn với những đồ phát hiện ở Đông Sơn, do đấy mà có thể kết luận rằng Văn minh Việt tiên (hay Phùng nguyên) có trước thời Đông sơn và các thời đồ đồng khác đã được khám phá ở Việt nam.
Tháng 9 ngày 14 năm 1960 sẩy bờ sông lở ở vị trí Dao thịnh (Yên bái, phía trên Phú thọ) làm xuất hiện một cái cóng bằng đồng có nắp cao 0,m84 cà rộng 0,m70. Trên sườn có trạm trổ hình thuyền, người và chim (như ở trên trốg đồng Đông sơn) trên nắp có 4 đôi tượng, đàn ông đàn bà đang giao hợp … Viêc lở núi ngày 24 tháng 9 năm 1962 lại làm cuất hiện một cái trống đồng lớn.
Theo giáo sư khảo cổ học người Nga là Boriskoswki đã hướng dẫn Viện lịc sử Hanoi thì sự phát hiện vị trí Núi Do ở Thanh Hóa chứng minh miền ấy là một trung tâm văn minh thạch khí thời đại cổ nhất. Nó xác nhận cái giả thuyết khoa học cho rằng Việt nam và toàn cõi Đông dương là một khu vực có lẽ đã là một trong những cái nôi của nhân loại.”
(Thuật theo tài liệu đã dẫn trên).
Kết luận của khảo cổ Bắc việt hiện thời trên đây cũng phù hợp với kết luận của nhà khảo cổ học Mỹ ở Thái lan là Wilhelm G.Solheim H. Ph. D, đăng tã ở tạp chí National Geographic Vol 139 n. 3 tháng 3 – 1971, dưới nhan đề “New light on Forgotten Past”:
“Tôi đồng ý với Sauer rằng sự thuần thục các thứ cây ở thế giới đã là công trình của nhân dân thuộc văn hóa Hòa bình ở nột địa điểm Đông Nam Á. Tôi không thấy ngạc nhiên nếu sự kiện bắt đầu sớm nhất từ 15.000 năm trước Dương lịch.
“Tôi nghĩ rằng những đồ đá sắc cạnh có sớm nhất tìm thấy ở miền Bắc châu Úc 20.000 năm trước dương lịch nguyên lai thuộc Hòa bình. Người ta hiện biết rằng đồ gốm sớm nhất là thấy ở Nhật bản khỏng 10.000 tr. T.c. Tôi mong rằng khi nào có nhiều phát hiện về văn minh Hòa bình với đồ gốm có dâu dây thừng được qui định thời đại tính, bấy giờ chúng ta sẽ thấy loại đồ gốm ấy là do dân ở Hòa bình chế tạo vào trước 10.000 tr. T.c.
Thuyết tập truyền cho rằng tiền sử Đông Nam Á đã di chuyển từ phương Bắc xuống, mang theo những tiến triển quan trọng về nghệ thuật. Tôi thấy rằng văn hóa Nguyên tân thạch hệ (Proro-Neolithic) phía Bắc Trung hoa gọi là văn minh Yang-shao đã do trình độ thấp văn hóa Hòa bình phát triển lên từ miền Bắc nam Á vào khoảng kỷ nguyên thứ VI hay thứ V tr. T.C.
“Tôi có ý kiến rằng văn hóa sau này được gọi là Lungshan mà người ta xưa nay vẫn cho nó xuất phát ở Yangshan phía Bắc Trung hoa, rồimới bành trướng sang phía Đông và Đông nam, thì thực ra cả hainền văn hóa ấy đều phát triển từ căn bản Hòa bình.
“Việc dùng thuyền độc mộc có lẽ đã được sử dụng trên các dòng sông nhỏ ở Đông Nam Á từ lâu, trước kỷ nguyên thứ V tr. T.c. Tôi tin rằng việc di chuyển bằng thuyền ra ngoài vẻ bắt đầu khoảng 4000 tr. T.c. tình cờ đã đi đến Đài loan và Nhật bản đem theo nghề trồng khoai sọ và có lẽ các hoa mầu khác.
“Vào khoảng kỷ nguyên thứ III tr. T.C. các dân tộc Đông Nam Á đã lành nghề đi thuyền mới đi sang các đảo Nam dương và Phi luật tân. Họ đem theo kiểu nghệ thuật kỷ hà học như các hình vòng tròn xoáy ốc, hình tam giác và hình chữ nhật vẽ trên đồ gốm, trạm vào gỗ, xâm vào mình, quần áo bằng vỏ cây và sau đến là vải dệt. Đấy là những hình tượng thấy trên đồ đồng ở Đông sơn (Thanh hóa) mà có giả thuyết cho nó đã từ Đông Âu đưa đến.
“Dân tộc Đông Nam Á cũng đã di chuyển sang phía Tây, đạt tới Madagascar có lẽ vào khoảng 2.000 trước. Có lẽ họ đã cống hiến một số cây thuần thục chonền kinh tế miền Đông Phi châu.
“Vào khoảng đồng thời ấy có sự tiếp xúc đầu tiên giữa Việt nam và Địa trung hải có lẽ qya đường iển do kết quả của việc thông thương. Một số đồ đồng ít thông dụng xác chứng nguồn gốc từ Địa trung hải cũng đã được tìm thấy ở địa điểm Đông sơn”.
Với những tài liệu của sử học và khảo cổ học lược trên đây của học giả đáng tin cậy, có quan hệ đến cổ sử dân tộc Việt nam chúng ra, nay có thể tạm kết luận về “Bốn ngàn năm văn hiến” của văn hóa dân tộc. Người ta không còn có thể hoài nghi về di tích Cổ loa với tên nỏ bằng đồng và triều đại nhà Thục của An Dương Vương vào thế kỷ thứ III trước kỷ nguyên Dương lịc. Như thế thì cũng không có thể phủ nhận cuộc chinh chiến giữa nhà Hồng Bàng của nước Văn lang, nước người xâm mình ở di tích Phùng nguyên tỉnh Phú Thọ, Yên bái theo bờ sông Hồng hà ngày nay. Văn hóa Phùng nguyên đã có đồ đồng đặc biệt là cóng bằng đồng với hình thuyền và người chim trạm, trước văn hóa Đông sơn với đạc trưng biểu hiện của Trống đồng. Đồng đồng ở đây có trước Trung hoa 1.000 năm, vậy thì Văn lan, Hồng bàng hay Lạc việt ít ra phải có trên 4.000 năm văn hiến kể tới nay. Đặc biệt đối tinh thần truyền thống dân tộc kà cái Trống đồng tiêu biểu cho nền văn hóa Đông sơn ở iệt nam đã từ một dụng cụ kỹ thuật biến thành một đối tượng tín ngưỡng tôn giáo Quốc gia như là một vị Thần linh Quốc tổ bắt đầu với triều Lý để thành cái Quốc lễ long trọng hàng năm triều đình, từ Vua đến các quan chức đến trước Thần Núi Trống đồng “D8ồng Cổ Sơn Thần” để thề trung thành với tổ quốc. Theo Đại nam Nhất thồng chí – tỉnh Thanh hóa có chép rằng:
“Ngày xưa vua Hùng Vương đi đánh Chiêm thành, đóng qua ở núi Khả lao, đêm mơ thấy thần báo mộng bảo vua: “Xin có cái trống đồng và dùi đồng giúp nhà vua thắng trận phen này!” Đến lúc ra trận thì thấy trên không văng vẳng có tiếng trống đồng rồi quả nhiên Vua được toàn thắng. Vua bèn sắc phong là “Đồng Cổ Đại Vương”. Đời vua Lý Thái Tông khi còn làm Thái Tử (1020), vâng mệnh đi đánh Chiêm thành, đêm mơ thấy người mình mặc áo nhung, tay cầm bảo kiếm tâu Vua rằng: -”Tôi là Thần Núi Đồng Cổ xin theo để lập công cùng Thái tử.”
Tới khi bình định định được giặc liền lập miếu để thờ. Sau khi Thái tử lên ngôi lại mộng thấy Thần mang bài thơ đến báo cho biết là có ba vị Vương định gây loạn, sau quả thật. Nhân thế mới phong chức “Thiên hạ minh chủ” thăng lên làm Thượng đẳng Thần, và hàng năm đắp đàn ở trước cửa đền sai các quan đến lễ và đọc lời thề: “Đạo làm dân một nước, làm con một nhà cốt ở luân thường! Làm con, mà bất hiếu, làm dân mà không hết lòng yêu nước, xin thần linh ngầm xét, tiêu diệt cả họ!”.(10)
Ngày nay, nghĩa là trước năm 1945, theo từờng thuật của Victo Goloubew (EEO t. 33 – 1933) chùa Đồng cổ trên con đường đi Phủ quảng, gần bến đò Yên định sông Mã. Chùa là một ngôi Đình kiến trúc khá xưa. Cái trống đồng để thờ trong chùa ấy được đặt trên cái giá gỗ trạm và sơn son tại trong cung cấm đình, trong, bề kính 0,m85, bề cao 0,m58.
Bên cạnh trống có cái biển gỗ khắc chữ. Đây là bản dịch của Trần Văn Giáp:
“Tại phía Tây tỉnh Thanh hóa, ở làng Đan nê, huyện Yên định có ngọn núi Đồng cổ. Ba ngọn hình ngôi sao cho nên cũng lại gọi là núi Tam thai. Trong thung lũng, gần núi ấy có ngôi đền cổ thờ thần. Núi mà uy linh đã nổ tiếng là huyền diệu.
“Mùa xuân năm Canh Tuất (1790) theo mệnh của đức Vua cha, tôi nhậm chức cai quản hạt tỉnh lỵ biên thùy này. Trong khi áy dân miền núi nổi lên khiến tôi phải cầm quân hai lần dẹp giặc. Đi qua hạt này, tôi thường hay nghỉ chân trong đền và tôi có kêu cầu Thần linh. Nhờ quyền năng vô hình, quân của tôi tấn công được dễ dàng. Biết có thần linh đã che chở, tôi tra hỏi các bô lão trong làng để được hiểu biết ít nhiều về vị Thần cũng như về cái Trống đồng, nhưnh thiếu tài liệu ký chú, tôi không được biết chi hết, thời gian đã xóa nhòa tất cả di tích quá khứ trong ký ức mọi người.
“Vào năm Canh Thân (1800) hai ngày trước ngày hội vào 9 tháng 9 sự tình cờ khiến tôi tìm thấy trên bờ sông phía Nam một cái trống đồng, cao 0,m56 và rộng 0,m75. Còn nguyên vẹn công trình khuôn đúc tỉ mỉ công phu nhưng về nguyên lai vẫn mù mịt.
“Mùa xuân năm Nhâm tuất (1802) trong khi đi giám sát, tôi lại đến bái yết ngôi đền, và khi trở về tôi có ra lệnh cho Quận công Tá trị Trương hữu tá và cho Xuân hoa Nguyễn Xuân cho rước cái trống đồng để dâng cúng cho Đền thờ Thần.”
(Bản văn viết vào năm Bảo hưng thứ 2 (1812) của em vua là Đức Tuyên. Thanh tra chính trị tỉnh Thanh hóa, có Trần Đình Hưu khắc viết vào gỗ bởi tay Quán quan sự Hoàng Đình Đồng).
Ở trên núi Tam thai nói trên đây cònmột tấm bia mới dựng để kỷ niệm ngày vãn cảnh chùa của ông Pierre Pasquier. Lời bia dịch ra như sau:
“Trải qua các thế hệ chúng ta đã ính thờ Thần Đồng Cổ. Tiền nhân truyền lại cho chúng ta biết rằng vào thời Hùng Vương (265 tr. T. c.) nhà vua có cầm quân dẹp giặc, và dưới triều vua Lý (1028-1253) để thuần phong mỹ tục nhà vua có lập tòa án để phạt kẻ phạm phép. Sơn Thần Đồng cổ là đệ nhất Thượng đẳng Thần cai quản thế gian và bảo vệ hòa bình nhân loại. Nhờ những công lao phò trợ ấy mà các Đế vương các triều đại đã ban sắn phong cho Thần. Danh tiếng của Thần được lan truyền từ ba bốn ngàn năm nay, do đấy mà nhân dân sáu làng chúng tôi đều muốn phụng thờ Thần linh quyền năng siêu việt.
Đấy là nét trọng yếu Thần đạo với Phật đạo, Dình với Chùa hợp nhất dung thông trong tin tưởng vào một nước “Bốn ngàn năm văn hiến” mà nhân dân Việt nam ngày nay đòi trở về Nguồn Tổ Hùng Vương để biểu dương tinh thần dân tộc bất diệt vậy.
GS Nguyễn Đăng Thục
Chú thích:
(1) Bình Ngô Đại Cáo.
(2) Tư Mã Thiên – Sử ký q. 41, ch. 11 – “Việt vương Câu Tiễn thế gia”. (3) Việt Sử Tiêu Án.
(4) Việt Sử lược I, 1b.
(5) H. Maspéro, Le royaume de Văn Lang. BEFEO t. XVÌI, 3, 1918.
(6) L. Aurousseau. La première conquête chinoise des paysAnnamites, (IIIè siècle avant notre ère) BEFEO, T XXIX – 1929).
(7) Ngô Sỹ Liên, Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, q. 6 – Trần Kỷ Anh Tông.
(8) Lã Sỹ Bằng – Bắc thuộc thời kỳ đích Việt Nam, Đông Nam Á nghiên cứu chuyên san số 3.
(9) The beginnings of archaeology in the Democratic Republic of Vietnam – Xunhasaba-Hanoi.
(10) Đại Nam Nhất Thống Chí – tỉnh Thanh Hóa