Gần đây dư luận mạng quan tâm đáng kể đến các bài tiểu luận của tác giả Nguyễn Tùng Hiếu, một đảng viên cộng sản Việt Nam cao cấp.
Trong các luận đề rất dài của mình, với văn phong bị ảnh hưởng sâu đậm của kinh tế chính trị học Marx-Lenin, tác giả cổ vũ rất nhiệt tình cho cái mà ông gọi là “dân chủ xã hội”. Ông đã dành nhiều phần để cổ vũ cho sự kết hợp của chủ nghĩa tư bản (CNTB) và chủ nghĩa xã hội (CNXH) mà theo ông, đó gần như là xu thế của thời đại. Ông cho rằng “dân chủ xã hội” có thể tận dụng cả ưu điểm của chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội để thiết lập một xã hội thịnh vượng và công bằng như các quốc gia Bắc Âu.
Một đặc điểm nổi bật của những người cộng sản Việt Nam là lối tư duy chưa thoát ra khỏi cái thiên kiến lệch lạc của Marx. Marx chỉ nhìn thấy CNTB trong mối quan hệ đối trọng với CNXH, chứ không thấy sự tồn tại và vai trò của chủ nghĩa tự do hợp hiến trong nỗ lực định hình nền móng của các xã hội tự do lúc bấy giờ. Ngày nay, khi nhận thấy chủ nghĩa Marx đã đi đến hồi mạt vận trong cả lý thuyết lẫn thực tiễn, các trí thức CNXH cố vớt vát bằng cách kêu gọi kết hợp CNTB với CNXH để tạo ra cái gọi là Dân chủ xã hội. Họ đã bỏ sót cái tinh thần tự do cá nhân và nền dân chủ chính trị mà chủ nghĩa tự do đã đưa vào thế giới hiện đại. Đó mới chính là cốt lõi của các xã hội dân chủ, chứ không phải chỉ là chủ nghĩa tư bản. Những người chưa bao giờ sống trong xã hội dân chủ và tư duy chưa bao giờ vượt ra ngoài một mớ lý thuyết cũ rích của chủ nghĩa Marx, chỉ nhìn thấy chủ nghĩa tư bản và nghĩ rằng chỉ cần kết hợp với các ưu điểm của chủ nghĩa tư bản là đủ để giải quyết tất cả những vấn đề của quốc gia.
Các vấn đề của một quốc gia không chỉ là kinh tế và sự tái phân phối phúc lợi; mà phức tạp hơn nhiều, bao gồm nhiều không gian lý luận khác như thể chế chính trị, Hiến pháp, pháp trị, văn hoá và phương cách đối phó với những nan đề liên quan đến Công lý và tự do…Họ trầm trồ khen các nước dân chủ tự do rằng: “Người ta như thế mới là chủ nghĩa xã hội chứ!” Nhưng họ không hề biết chỉ hai chủ thuyết này không đủ để thai nghén nên một xã hội dân chủ tự do, giàu mạnh và đạt được những tiến bộ đáng kể trong cố gắng cải thiện công bằng xã hội. Thị trường tự do cộng với sự tái phân phối các nguồn lực xã hội qua chính sách thuế và các chương trình phúc lợi chưa thể thể hiện hết cái cốt lõi tinh thần của các nền dân chủ. Mô hình đó có một nền tảng đặc biệt của nó, vượt ra ngoài sự kết hợp miễn cưỡng đó.
Sự lẩn quẩn trong mớ bòng bong CNTB và CNXH làm người ta quên mất rằng cần phải có thêm các chủ thuyết tự do làm bệ đỡ cho tinh thần tự do của một nền dân chủ hiện đại. Không phải ngẫu nhiên mà cho đến hôm nay các trí thức cộng sản vẫn gọi các quốc gia phương Tây và Hoa Kỳ là các nước “tư bản” chứ không phải là “dân chủ tự do”. Đó là sự thiển cận xuất phát từ sự đề cao quá đáng các định chế kinh tế mà bỏ qua sự hiện diện vô cùng quan trọng của các định chế chính trị, văn hoá…
Các chủ thuyết xã hội, đặc biệt là chủ nghĩa Marx chỉ tập trung vào mục tiêu đánh đổ chủ nghĩa tư bản, thực hiện công cuộc “cào bằng” đầy bạo lực và khiên cưỡng, đề xuất mô hình kinh tế tập trung bao cấp để thay thế chủ nghĩa tư bản… chứ chưa bao giờ thiết lập một nền tảng tư tưởng hữu lý cho việc kiến tạo các định chế quyền lực và xã hội nhằm bảo vệ tự do cá nhân, xây dựng một nhà nước dựa trên sự đồng thuận của người dân, xây dựng khế ước quyền lực…Đối với chủ thuyết này, Hiến pháp, pháp trị, tam quyền phân lập, cân bằng và kiểm soát, tự do, nhân quyền… chỉ là công cụ thống trị của nhà nước tư sản và họ cố tình gạt bỏ các giá trị này ra khỏi trung tâm lập thuyết của họ. Ngày nay, để tiếp tục tồn tại và biện minh cho sự tồn tại đó, các lý thuyết gia xã hội cố vay mượn các giá trị tự do (mà họ không xây dựng được) từ chủ nghĩa tự do hợp hiến để bù đắp cho sự thiếu hụt căn bản này.
Trong khi đó, các nhà tư tưởng của chủ nghĩa tự do hợp hiến đã làm tất cả những công việc quan trọng nhằm đúc kết nên những nguyên tắc nền tảng mà từ đó các chế độ dân chủ hiện đại được xây dựng nên. Họ thiết lập và biện minh không mệt mỏi cho các giá trị tự do dân chủ mà ngày nay chúng ta đang cổ vũ. Bởi vậy, các nền dân chủ hiện đại thực ra được thai nghén trong tinh thần đề cao tự do, nhân quyền và nhân phẩm của chủ nghĩa tự do hợp hiến, chứ nó chưa bao giờ là con đẻ của chủ nghĩa xã hội, dù là chủ nghĩa xã hội bạo lực kiểu Marx hay chủ nghĩa xã hội dân chủ. Nhìn nhận sự thành công của các nền dân chủ hiện đại như Thuỵ Điển và các nước Bắc Âu như là kết quả của phiên bản mới – chủ nghĩa xã hội dân chủ – là một ngộ nhận lớn.
Chủ nghĩa tự do hợp hiến
Chủ nghĩa tự do có nhiều xu hướng khác nhau. Các nhà tư tưởng của chủ nghĩa TỰ DO KINH TẾ đề cao quyền tư hữu, tự do khế ước và do đó họ ủng hộ chủ nghĩa tư bản laissez-faire và một Nhà nước càng nhẹ càng tốt. Nhưng thực tế cho thấy, kiểu tự do này sẽ giúp duy trì những lợi thế vĩnh viễn của tầng lớp giàu có và quyền thế trong xã hội, còn những người bị gạt ra bên lề xã hội sẽ khó có cơ hội để vươn lên bởi đơn giản là họ có rất ít cơ hội. Tự do kinh tế chưa đủ để thúc đẩy tự do cá nhân và dân chủ thực sự, mà nó còn đào sâu các bất bình đẳng xã hội do khoảng cách quá lớn về tiềm lực kinh tế và cơ hội chính trị. Tình trạng các quốc gia phương Tây trong giai đoạn phát triển cao của cuộc cách mạng kỹ nghệ lần thứ hai đã cho thấy nhược điểm của chủ thuyết tự do cổ điển này.
Đảng Cộng sản Việt Nam không chấp nhận đa đảng
Trước những bế tắc xã hội không giải quyết được của chủ nghĩa tự do kinh tế, các lý thuyết gia của chủ nghĩa TỰ DO XÃ HỘI đã đưa ra luận thuyết của mình để giải quyết các bất công và mâu thuẫn xã hội đồng thời đưa ra một số câu trả lời cho vấn đề Công lý. Với sự công nhận vai trò quan trọng của Nhà nước trong việc duy trì trật tự xã hội bằng hệ thống luật pháp, tạo không gian pháp lý ổn định cho các hoạt động dân sự, làm trọng tài cho các thoả thuận tự do của người dân, tái phân phối một phần các nguồn lực xã hội qua chính sách thuế, và tăng cường bình đẳng cơ hội cho những người ở tầng lớp dưới qua các chương trình phúc lợi xã hội…., chủ nghĩa tự do xã hội đã giúp các nền dân chủ hiện đại sửa sai các khiếm khuyết của chủ nghĩa tự do kinh tế. Trong khi đó, phương cách của chủ nghĩa xã hội là nền kinh tế tập trung, một nhà nước trung ương đầy quyền lực để áp đặt mô hình kinh tế này, kết quả là cho ra đời những Nhà nước toàn trị tàn bạo nhất trong lịch sử nhân loại.
Độc tài hay Dân chủ mới là mấu chốt
Ngày nay những người xã hội đã cải biến chủ thuyết của mình theo kiểu “đẽo chân cho vừa giày” để phù hợp với không gian chính trị dân chủ và xã hội tự do. Các đảng xã hội cũng thay đổi để tiếp tục tồn tại và tham gia lãnh đạo quốc gia cùng với các đảng cánh hữu. Tùy thuộc vào bối cảnh văn hoá, kinh tế và chính trị cũng như các định chế xã hội mà các đảng cánh tả ở những nền dân chủ lâu đời có thể dành được sự ủng hộ của người dân hay không. Nhưng điều quan trọng là đảng phái này chỉ mang cái danh “xã hội” nhưng thực chất họ đi gần với chủ nghĩa tự do xã hội hơn là chủ nghĩa xã hội (xin lưu ý sự khác biệt này) và mọi hoạt động đảng phái cũng như hoạt động quyền lực của họ đều phải nằm trong không gian chính trị do chủ nghĩa tự do hợp hiến thiết lập và quy định từ lâu.
Gán ghép các thành tựu chính trị-xã hội ngoạn mục ở các quốc gia dân chủ Bắc Âu cho chủ nghĩa xã hội (có sự kết hợp của chủ nghĩa tư bản), mà bỏ qua dấu ấn sâu sắc của chủ nghĩa tự do hợp hiến ở các quốc gia này là quá gượng ép và thiển cận. Tiếp tục đề cao vai trò của một phiên bản chủ nghĩa xã hội mới trong không gian chính trị dân chủ tự do của các quốc gia phương Tây chỉ là một cách để các trí thức cộng sản ở Việt Nam giảm nhẹ những sai lầm, đổ vỡ và tội ác mà các nhà nước độc tài xã hội chủ nghĩa đã gây ra ở phương Đông nói chung và ở Việt Nam nói riêng; để tuyên truyền cho luận điệu rằng: chủ nghĩa xã hội không sai, chỉ là chúng ta chưa biết cách vận dụng…
Thời đại ngày nay, thế giới đã đổi thay, nhu cầu dân chủ hoá của các dân tộc đang nằm dưới chế độ độc tài khẩn thiết hơn bao giờ hết. Vì thế thật không phù hợp khi tốn công sức để bàn về chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa xã hội hay sự kết hợp của chúng. Trong khi cái thực sự cần bàn là dân chủ, tự do, nhân quyền và công lý…Thiết nghĩ, tại sao chúng ta không đặt cái di sản xã hội chủ nghĩa nặng nề ấy xuống để bắt đầu bàn về những chủ đề quan trọng hơn cho đất nước, những giá trị mang tính phổ quát, vượt ra khỏi biên giới hạn hẹp của mọi chủ nghĩa?
Trí thức là tầng lớp tinh hoa mở đầu cho mọi tiến bộ, đã đến lúc các trí thức cộng sản Việt Nam phải làm một cuộc cách mạng tư tưởng để nhận thức sinh động rằng cái gốc của vấn đề ở đây không chỉ là chủ nghĩa tư bản hay xã hội, mà chính là Tự do hay Nô lệ, Dân chủ hay Độc tài! Nếu không làm được điều này, họ sẽ tiếp tục đi bên lề những vận động tích cực trong tương lai của đất nước.
Huỳnh Thục Vy
2 Comments
ChânPhương
[Sự lẩn quẩn trong mớ bòng bong CNTB và CNXH làm người ta quên mất rằng cần phải có thêm các chủ thuyết tự do làm bệ đỡ cho tinh thần tự do của một nền dân chủ hiện đại. Không phải ngẫu nhiên mà cho đến hôm nay các trí thức cộng sản vẫn gọi các quốc gia phương Tây và Hoa Kỳ là các nước “tư bản” chứ không phải là “dân chủ tự do”. Đó là sự thiển cận xuất phát từ sự đề cao quá đáng các định chế kinh tế mà bỏ qua sự hiện diện vô cùng quan trọng của các định chế chính trị, văn hoá… ]
Xin cảm ơn bài luận văn với những luận lý rất rạch ròi và mạch lạc của nhà đấu tranh dân chủ Huỳnh Thục Vy.
Cũng xin được đóng góp và làm rõ thêm đôi điều trong đoạn quoted lại bên trên của cô Vy:
1/ Quả thật, trong hơn thế kỷ vừa qua chúng ta có tìm thấy chữ “capitalism” được định nghĩa trong các từ điển Anh/Pháp cũng như Việt ngữ tương đương với chủ nghĩa tư bản (CNTB). Tuy nhiên đã bao giờ chúng ta thử đặt câu hỏi rằng, “ai mới thực sự là cha đẻ của CNTB-capitalism?”
Không ai khác hơn, chính Karl Marx là người đã đẻ ra thuật ngữ capitalism để chụp mũ lên các quốc gia có nền kinh tế công kỹ nghệ tiên tiến và nền mậu dịch được phát triển một cách tự do. Chính Mark là kẻ đã sáng tác ra một thứ chủ nghĩa mà họ gọi là CNTB. Lý do khiến Mark sáng tác CNTB là biến nó trở thành một thứ kẻ thù của CNCS cần phải bị tiêu diệt nhằm xây dựng CNCS trên hệ thống suy luận thoát thai từ ảo tưởng bệnh hoạn của ông ta.
Lập luận trên của chúng tôi (Chân Phương) dựa trên sự thách thức đối với các môn đệ trung thành của Marx là, làm sao họ có thể chứng minh được rằng các quốc gia bị Marx chụp cho cái mũ đi theo CNTB đã định nghĩa CNTB tròn méo ra sao trong các sinh hoạt chính trị của họ từ hàng trăm năm vừa qua?
Chúng tôi cũng thách thức Marx và các môn đệ của ông ta tìm đem những định nghĩa đó nằm ở đâu trong bất kỳ cương lĩnh của một đảng phái chính trị hoặc hiến pháp của các quốc gia bị chụp mũ là theo CNTB!
Lập luận dựa trên sự thật hiển nhiên này đã không phải là những gì mới mẻ đối với chúng ta. Nó đến với suy nghĩ của chúng tôi (CP) ngay trong những bài học đầu tiên của môn “Triết học Marx-Lenin” khi bắt đầu đặt chân vào khuôn viên trường đại học Bách Khoa tại Saigon (1980).
Trong thực tế đã chưa bao giờ có một CNTB nào theo mô tả và định nghĩa của Marx từng tồn tại trong lịch sử của nhân loại cho đến ngày nay. Tất cả những gì được mô tả theo Marx và các môn đệ của ông ta về cái gọi là CNTB đều là sự dối trá và dựng đứng một cách trắng trợn. Điều đó khác hẳn với sự hiện hữu của hầu hết các quốc gia có nền kinh tế dựa trên công kỹ nghệ tiên tiến, mậu dịch tự do và sinh hoạt chính trị xã hội trên nền tảng đa nguyên đa đảng. Chính trong các quốc gia có sinh hoạt chính trị dựa trên nền tảng đa nguyên đa đảng này là nơi mà nhà chiến sĩ đấu tranh Huỳnh Thục Vy đã nhìn ra là nơi đề cao và nuôi dưỡng tự do, dân chủ, và nhân quyền một cách đầy đủ hơn “thế giới đại đồng” ảo tưởng của chủ nghĩa Marx-Lenin bạo tàn.
2. Vấn đề thứ hai chúng tôi muốn đề cập đến là chữ “trí thức cs”:
Một sự thật đã được nhân loại công nhận là, hằng trăm triệu người trên thế giới đã bị bỏ mạng vì CNCS từ ngày Lenin đem chủ nghĩa Marx vào nước Nga và tạo thành “hệ thống các quốc gia XHCN anh em”. Cuối thập niên 1980’s của thế kỷ trước, CNCS hoàn toàn sụp đổ tại nơi khai sinh ra nó và toàn thể Đông Âu. Riêng tại Hoa Lục, Bắc Hàn, Cuba, và ba nước Đông Dương vẫn còn bám víu lấy CNCS. Nói đúng hơn, csVN ngày nay không phải đang bám víu vào CNCS hay CHXH; mà là bám víu quyền lực để kéo dài thời gian còn được cỡi đầu cỡi cổ dân lành và bòn vét tài nguyên của đất nước.
Thực tế lịch sử bạo tàn, chua chát như thế, cộng với kinh nghiệm cá nhân của những kẻ bị vắt chanh bỏ vỏ trong đó không chỉ có của những người từng được xem và tự nhận là “trí thức/trí giả” trong nước như GS. Nguyễn Mạnh Tường, Nguyễn Hữu Đang,… cho đến Nguyễn Hữu Thọ, Phạm Xuân Ẩn, Dương Quỳnh Hoa,… mà cho đến ngay cả “triết gia” Trần Đức Thảo là một tên tuổi từng là đồng tác giả và sánh ngang cùng với JP Sartre; lẽ nào những điều này chưa đủ để khiến cho người ta mở mắt ra để hiểu con quái vật CNCS/CNXH là cái giống gì?
Đề cập những điều tổng quát trên đây, chúng tôi chưa có dịp để nói đến thực tế của xã hội VN sau 38 năm “xây dựng thiên đàng XHCN” vì không muốn kéo dài thêm comment của mình.
Tuy nhiên sau những dữ kiện đã được trình bày như trên, chúng tôi có đủ lý lẽ để tin rằng ngày nay; đã không hề tồn tại cái gọi là “trí thức cs”, bởi vì con người biết suy nghĩ thì không thể tin theo cs. Ngược lại, kẻ tin theo cs thì hoàn toàn bệnh hoạn chứ đừng nói gì đến sự hiểu biết tầm thường.
Comment này, chúng tôi chỉ xin được xác định hai điều hoàn toàn không có thực, đó là:
a) Thứ nhất, trong lịch sử nhân loại đã không hề có cái gọi là CNTB-Capitalism như Carl Marx và Lenin từng bịp bợm rằng cần phải tiêu diệt để xây dựng CNCS tuyệt vời của họ.
b) Thứ hai, đã không hề có cái gọi là “trí thức cs”: Vì ngay cả Trần Đức Thảo và JP Sartre ngày nay có đội mồ sống dậy được; lẽ nào họ không thể hiểu được con số trăm triệu người đã chết vì CNCS là một con số kinh hoàng, hay sao?
Đứng trước con số người chết vì CNCS kinh hoàng như vậy và với quá khứ cộng tác, và/hoặc kêu gọi, ủng hộ, cổ vũ cho cs của họ để đem đên thảm nạn này của nhân loại trong thế kỷ vừa qua; các “triết gia” tên tuổi này có còn đủ liêm sỉ để nhận rằng mình là có trí khôn, chứ chưa hề nói là trí thức?
Trân trọng chúc cô Huỳnh Thục Vy và gia đình luôn được an khang và luôn vững vàng trên con đường tranh đấu của mình.
Chân Phương.
Tuyen Nguyen
Mot bai viet hay. Cam on Thuc Vy rat nhieu.