Khoảng thời gian những năm tháng gần đây, đặc biệt nhứt là vào dịp Ngày Quốc Hận, của tháng Tư, năm nay, năm thứ 40 của những năm Mất Nước; và cũng gần đây vào dịp kỷ niệm thứ 50 của Ngày Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, nhiều câu chuyện, nhiều hình ảnh, nhiều tuyên bố, nhiều lễ lạc hội họp kỷ niệm lạ hơn với những năm tháng trước, tốt đẹp cũng có, xấu xa cũng nhiều, đã và đang được cộng đồng người Việt Tự Do tỵ nạn Cộng Sản hải ngoại truyền lên mạng. Kẻ thuận, người chê, kẻ khen, người quở, làm xáo trộn đời sống sanh hoạt yên ổn của cộng đồng người Việt Tự Do tỵ nạn Cộng Sản Hải Ngoại
Chúng tôi người viết có cảm tưởng hình như, có một động lực nào đó, ngoài những tình cốt nhục, đồng hương, ngoài tình huynh đệ chi binh, ngoài cái uất hận của một dân tộc muốn giữ cái gia tài đất nước, những giá trị cao quý do tiền nhơn để lại, đang giành đất, giành dân, giành ảnh hưởng để xóa bỏ những biểu tượng cuối cùng của một Quốc Gia, dù nay đã mất đất mất nước, nhưng vẫn còn giữ được dân, giữ được hồn, giữ được văn hóa, văn minh, lịch sử.
Chúng tôi người viết mạnh dạn quả quyết nói rằng chắc chắn, có bàn tay nhám nhuốc của địch Việt Cộng đang giựt giây, mở những những chiến dịch, tuần tự, từng đợt, đánh vào thành lủy của người Việt Tự Do tỵ nạn Cộng Sản chúng ta.
Vẫn biết rằng cũng từ lâu rồi, Nghị Quyết 36 của Nhà Cầm Quyển Hà Nội vẫn không lúc nào ngừng nghỉ tấn công nhắm vào cộng đồng người Việt Tự Do tỵ nạn hải ngoại, mục đích là để hốt trọn cái đám tàn dư Mỹ Ngụy, vốn là cái dân, « cải huấn chẳng xong, mà cải tạo chẳng đặng », lúc xưa vứt bỏ – không đập đầu bằng búa, không cắt cỏ bằng liềm – vì nghĩ rằng vẫn còn cần sức cu li, lao động, vì đất nước lúc ấy, đang thiếu sức kéo, sức cày đó thôi – chả lẽ bắt dân Bắc thắng trận tiếp tục người cày thay trâu? Tiếp tục sức người biến sỏi đá thành cơm?
Nhưng, thật không ngờ, sau khi đã hốt trọn cả tài sản, nhà cửa bạc tiền, hốt trọn hàng hóa, máy móc kỹ nghệ chuyển ra miền Bắc để «dựng lại nước Bắc», liệng cái vỏ không miền Nam, các xác trống «dân Nam ra biển cả». Ngờ đâu ngày nay, «cái vỏ trống» ấy thành nhơn, cái «xác không» ấy thành tài, vỏ ấy, nay lại lắm bạc nhiều tiền, xác ấy, nay lại thành công vượt bực. Dân miền Nam, đúng là bọn người ngoan cố, đúng là loài cỏ dại, diệt mãi vẫn còn ! Vì vậy, phải ra Nghị Quyết 36, phải hốt vét cho trọn. Bởi vậy, nên từ nay, phải đổi hướng, phải ca bài, phải hát khúc : «Ôi khúc ruột ngày dặm, trăm nỗi nhớ thương, bớ bầy con, tuy lưu lạc, nhưng lắm tài, lắm tiền, đem của cải về phục vụ đất mẹ! ». (Phỏng theo hai điển tích của Thánh Kinh của Thiên Chúa Giáo, điển Le retour de l’enfant prodigue-ngày trở về của đứa con hoang và điển l’agneau égaré – con cừu non đi lạc, làm người chăn cừu phải bỏ cả 99 con cừu ngoan để đi tìm con chiên thất lạc.)
Từ đó, do đó, rầm rộ, với nhiều hình thức khác nhau, rất chiến tranh tâm lý, khi thì «khúc ruột ngàn dặm » nỉ non thánh thót, lúc thì «vọng cổ hoài lang» lúc xướng lúc xề. Lắm lời hát cao, đôi giọng hạ thấp, khi hù, khi dọa, khi khóc, khi thương, khi Nam Ai kể lễ, lúc Xuân Tình nỉ non. Khi mở cửa rủ rê tướng lãnh với Cao Kỳ, lúc kéo lôi, ngày trở về, quê cũ cùng Phạm Duy. Lúc dụ khị các ca sĩ cao niên lão thành thời tiền chiến (chiến tranh 54-75), dù nay tuy đà quá đát-date-quá tuổi nghệ thuật, đang dung thân, dật dờ, đất Mỹ trời Âu, nhưng còn lưu luyến sân khấu, còn mơ tưởng ánh đèn mầu-limelight «Đời tôi luôn nghệ sĩ, cho người mua vui ! »…Nay được, Đảng (Cộng Sản) và Nhà Nước, cùng Nhân dân « xóa tội vượt biên, tha lời chống cộng », đem giọng khàn cuối đời – come back to Sorrento-trở về mái nhà xưa,- biểu diễn cho bà con, trẻ nhỏ bên nhà nghe dư âm nhạc vàng phản động. Ngược lại, cũng có lúc đưa đoàn cán bộ văn công « cán ngố-nghệ sĩ nhơn dân-văn công cách mạng» em chưn dài, anh tóc tém, đem nhạc tàu lai, sang Mỹ sang Tây diễn tình dân tộc, hát nỗi hoài hương, với cộng đồng người Việt xa nhà lâu năm, mang nhiều nỗi nhớ.
1. Hội Nhập
Thật sự mà nói, cộng đồng người tỵ nạn Cộng Sản hải ngoại, chỉ muốn được sống yên ổn, sống thoải mái để, trước làm lại cuộc đời, hội nhập vào xã hội nơi cư ngụ, và sau xây lại tương lai cho con cháu. Sanh hoạt người Việt hải ngoại tuy có vẻ « Chống Cộng dữ tợn » thế nào đi nữa cũng chỉ là những sanh hoạt « cuối tuần », « đi họp để gặp nhau, đi họp để được nói tiếng Việt » chả phải « làm Cách Mạng, lập Chánh quyền » và chắc chắn cũng không thể «làm sụp đổ chế độ Cộng Sản cầm quyền được » nếu người dân trong nước không muốn! Vì vậy,
Câu hỏi phải được đặt ra là người dân trong nước có thật sự muốn lật đổ Nhà Cầm quyền Cộng sản không ?
Còn ý nghĩa thật sự của sanh hoạt cộng đồng hải ngoại chỉ là những sanh hoạt tự vệ và bảo vệ cái ý nghĩa và cái chánh thống cuộc một sự « Bắt buộc phải bỏ nước ra đi ». Đó là nhu cầu thứ nhứt!
Nhu cầu thứ hai, là nhu cầu chung của mọi cộng đồng ly hương trên đất người là đi tìm được cái «chất Việt » trong một môi trường tha hương, đất người. Ở Mỹ tại các thành phố lớn đều có những Little Italy, những Chinatowns, những Little Odessa…thì những Little Saigon của cộng đồng người Việt là cái bắt buộc thôi!
Tình hoài hương, nghĩa đồng bào, qua những hội ái hữu, hội đồng hương, tất cả vẫn mang chất kỷ niệm, chất hoài niệm, nổi nhớ. Mà cái nhớ, khi nhớ thì chỉ nhớ cái đẹp, cái hay! Phải, quê hương qua quá khứ, qua kỷ niệm bao giờ cũng đẹp, cũng dễ thương. Dù tuổi trẻ ở nhà quê, đi bộ, băng ruộng bá thở, trưa ăn cơm tay cầm, hay ăn xôi bó theo, nhưng trong kỹ niệm, lúc nào cũng đẹp. Quên đi những ao nhà không sạch, những đường làng trơn trợt khi trời mưa, những mái nhà siêu vẹo, những đường hẻm bùn lầy, tối tăm, những xa lộ không đèn, những ánh đèn đường vàng vọt… Cái nghèo đã được lồng dưới lớp sơn son thếp vàng «ro-măn-tíc-cồ-lãng mạn ».
(Chúng tôi có những bạn đồng môn Trung học Yersin, tuổi thiếu thời, con ông cháu cha, nam công tử cậu ấm, nữ tiểu thơ cô nương đài các, ngày ngày được tài xế sáng đưa xe đi học, trưa đưa xe rước về. Nhưng ngày nay cũng tự ca, tự diễn, tự kể cho mình một huyền thoại gia đình nghèo, … «đường về nhà em tối tăm »… nhưng quên rằng lúc nhỏ nhà chàng, nhà nàng là sáng ốp-la, chiều bíp-tếc,… chỉ để giống người ta).
Và nếu người Việt Quốc Gia, tỵ nạn Cộng Sản ở hải ngoại, có « Chống Cộng » đi nữa, là một sự hiển nhiên, là một hành động, một thái độ tư nhiên thôi ! Vì tất cả những người tỵ nạn đều là Nạn nhơn của chế độ Cộng Sản Hà nội. Tất cả đều nạn nhơn của tai nạn mất nước. Dù ra đi trong trật tự, do các máy bay đồng minh rước, hay ra đi trong hổn độn trên các chiếc tàu rời bền Sài gòn những ngày cuối cùng. Hoặc đau thương hơn trên những chiếc thuyền mong manh vượt biên, tàu cá, thuyền thúng, tàu mặt dựng giang thuyền, hay cả vượt biên bán chánh thức bằng thuyền lớn do Việt Cộng tổ chức đi nữa, hay cả sau nầy, đi bằng máy bay, qua Mỹ dưới dạng OPD, hay đoàn tụ gia đình nhờ hoặc giả đã có kinh nghiệm « sống chung» dưới chế độ Cộng sản, hoặc giả « đi tù mút chỉ cà tha, nóc niên là giá chót », tất cả chúng ta đều là những nạn nhơn của chế độ Cộng sản.
Ấy là chưa kể một số lớn anh em chúng ta đều là những quân nhơn của Quân lực, hay công chức của Chánh phủ của chế độ Việt Nam Cộng Hòa, nói chung chúng ta là công dân của quốc gia Việt Nam Cộng Hòa, một chánh thể, một quốc gia, một văn minh, một văn hóa hoàn toàn khác biệt với thể chế Cộng sản miền Bắc, dù chúng ta dùng một tiếng nói cùng âm điệu giai tầng nhưng với những định nghĩa văn hóa, xã hội, triết lý, đời sống khác nhau.
(Để chứng mình : chúng tôi chỉ nói đến cách dùng hai từ nhỏ, từ Xin lỗi, và từ Cám ơn. Ở các nước tiên tiến Pháp Mỹ và ở Miền Nam Việt Nam và nay trong cộng đồng Việt Nam Hải ngoại, từ cám ơn để đóng một câu nói khi nhận một cử chì, từ xin lỗi để mở đầu một câu nói. Nhưng với người Việt trong nước ngày nay hai từ ấy hầu như không còn. Khi tôi nhắc nhở một người cháu bên nhà qua, cậu ấy sắp vài Đại học, được cậu trả lời : Cháu làm gì có lỗi mà Xin lỗi? Cháu có nhận Ơn đâu mà Cám Ơn?». Tôi thông cảm cậu bé ấy? Tôi chỉ biết ngao ngán nhựt định ngày nay, thế giới người Việt chúng ta có hai đất nước với hai ngôn từ khác nhau với hai nguồn VĂN HÓA VĂN MINH khác nhau! Đôi lời thành thật xin lỗi với tất cả những người quen và bà con trong nước !)
Dần dần nhờ tỵ nạn nơi các nước tiên tiến, nhờ chế độ xã hội công bằng và bảo vệ người lao động, người Việt tỵ nạn Cộng Sản hải ngoại, với cái tài tháo vát, với cái cần cù trời cho, bất cứ nghề nào, nghề ruột, cũng như nghề phụ, nghề cũ cũng như nghề mới, … cũng chẳng chốc, vinh quang tiến chức, tạo nhà, tạo vườn, tạo xe, tạo cộ.
Thậm chí cái thí dụ điển hình nhứt, cái nghề lao động cực khổ nhứt, khom lưng, cuối đầu, dủa mài, cầm bàn tay, nâng bàn chưn, hưởi không khí nước sơn, hơi bột đầy hóa học mà người bản địa không thích làm, được người tỵ nạn Việt Nam đưa lên làm nghề thích hợp nhứt cho cộng đồng mình và được truyền tụng trong nhiều thế hệ dân di cư tỵ nạn! Thoạt đầu là nghề « nhập cư » của dân Việt tỵ nạn Cộng Sản, nay đã biến thành nghề «hạ cánh an toàn» của dân Việt mới, dù là gốc Cộng Sản, con ông cháu cha hay gốc không Cộng Sản, dù dân có gốc thiệt hay dân gốc Cộng sản vờ.
Đó là nghề «làm, săn sóc móng tay », nói tóm lại nghề làm «neo»! Ôi cái nghề quý giá! Nghề làm móng tay, dủa móng tay nuôi đã sống bao gia đình tỵ nạn! Nghề làm móng tay, dủa móng tay, đã xây dựng bao nghề nghiệp của các con cháu. Biết bao bác sĩ, biết bao kỹ sư trẻ tuổi ngày nay, thuộc thế hệ một rưởi, thế hệ hai, đều được lớn lên, nuôi dưởng bởi những bà mẹ, những ông bố, miệt mài cắt dủa, trộn bột, dán móng cho các bàn tay các nữ nhơn trắng, đen, vàng, đỏ của những xã hội Âu Mỹ. Xã hội tiên tiến mới có trang điểm, xã hội tiên tiến mới có thẩm mỹ. Và người Việt tỵ nạn mình khéo léo bắt nhanh vào thế giới ấy. (Cũng nên nhắc nhở, nhớ ơn, nữ tài tử gạo cội Tippi Hedren của những phim của Alfred Hitchcock – Bầy Chim ; Marnie. …, mẹ của nữ tài tử Melanie Griffith, đã, vì quen biết với nữ tài tử Kiều Chinh, đã nhận, làm người bảo đám, nhận đón một đoàn người tỵ nạn vào đất Mỹ đã « chỉ và hướng dẫn » các phụ nữ Việt Nam « vào nghề làm neo » vì nhận thấy vai trò quan trọng của các người điểm trang trong ngành điện ảnh)
Cộng Sản Việt Nam thắng trận đánh, chiếm được Việt Nam Cộng Hòa, phá được cơ chế, ý thức hệ của phe Tự do ta trong nước, và quan trọng hơn, phá được lối sống, nhơn sanh quan, tư tưởng, tổ chức xã hội, lối sanh hoạt cộng đồng xã hội, tổ chức kinh thương, chánh trị, quản trị…nói tóm loại bỏ một lề lối sanh hoạt xã hội, một nền văn hóa, một nền văn minh cũa người miền Nam chúng ta trong nước, để thay vào một hệ thống quản trị độc tài, một chủ nghĩa dựa trên lý thuyết duy vật, con người cùng thú vật, ngang hàng nhau chỉ biết nhu cầu sanh lý, nhu cầu sanh sống, với bốn sanh hoạt sanh lý sanh tồn, bất kể văn hóa, tâm linh, lý trí.
Là con người, nên con người khác con vật là có cái miệng, có lời nói, có tiếng nói. Chế độ Cộng sản khóa tiếng nói, không có tự do ngôn luận. Chế độ Cộng sản khóa tiếng hát, không có tự do văn nghệ và văn hóa. Từ đó ca hát, viết nói chỉ dùng để phục vụ hai nhu cầu là tiêu hóa và sản xuất. (Tôi dùng từ tiêu hóa chứ không dùng từ tiêu thụ – Tiêu thụ là một thái độ của con người văn minh, còn tiêu hóa là một bộ máy súc vật).
Cộng Sản Việt Nam tuy thắng trận giặc, nhưng không hoàn toàn chinh phục người miền Nam. Cái giỏ, hốt, bắt con người Việt Nam để tuột ra ngoài 3 triệu người. Dĩ nhiên không cùng một lúc, cần phải nhiều năm, cần phải nhiều đau thương. Và mất dạy hơn nữa chế độ Cộng Sản lại làm giàu trên sự đau khổ của dân chạy nạn. Bộ máy làm tiền Cộng Sản đặt ra từ ngữ Vượt Biên Bán Chánh Thức. Cả một bô máy tinh vi khảo tiền 400 cây vàng một đầu người. Những chiếc tàu chất đầy cả ngàn người. Vượt Biên Bán Chánh Thức do Cầm quyền Cộng Sản tổ chức đánh lý ra, là làm tiêu mất chế độ tỵ nạn của người vượt biên Việt Nam. Vượt Biên là trốn chạy, Vượt Biên là lén lút, đằng nầy lại do Nhà Nước Việt Nam Cộng Sản tổ chức !
Đây là một sự lường gạt Cao Ủy Tỵ nạn Thế giới ! May quá, lòng Nhơn dạo người Âu Mỹ tặng cho người tỵ nạn chữ Thuyền Nhơn đã cứu người tỵ nạn Việt Nam.
Và để tiếp tục rượt theo bắt người tỵ nạn trở về với mình, và cũng đang tiếc là mình đã đánh mất những thành phần quý hóa nhứt của xã hội Việt Nam. Những nghệ nhơn những nghệ sĩ, những tinh hoa ưu tú y sĩ, kỹ sư trí thức của Việt Nam Cộng Hòa, ngay sau ngày ra nước ngoài tỵ nạn đã chẳng bao lâu xây dựng lại chức năng, xây dựng lại gia tài tiềm lực phục vụ xã hội và đất nước, ngay tại … nước ngoài nơi cư trú tỵ nạn. Và ngon lành hơn nữa, con cháu hậu duệ của cộng động tỵ nạn khắp nơi trên thế giới biến thành một cộng đồng di dân hội nhập đóng góp thành công với những ngành nghề cao quý khoa học, nghệ thuật văn hóa của nước ngoài từ Âu đến Mỹ xuyên qua Úc châu.
Vì vậy sau 40 năm lấn đất giành dân, với Nghị quyết 36, với những mỹ từ chiêu dụ áo gấm về làng, áo hoa về chợ, du lịch, du hí, tung bia ôm, tung nghệ sĩ, dụ văn công, cờ vàng ba sọc đỏ vẫn ngạo nghể tung bay trước gió, trước những quảng trường, trong lúc lá cờ chế độ lặng lẽ âm thầm sáng kéo lên chiều kéo trong những biệt thự cửa đóng thang gài gọi là những sứ quán đại diện cho chế độ hôn quân trên đất người.
2. Hoà Hợp Hòa Giải
Từ những năm xưa, trước ngày Mất Nước, ngay lúc Việt Cộng đánh phá đất nước mình, đã có những tư tưởng xóa bỏ hận thù, hòa hợp hòa giải rồi. Hãy trở về với một tý lịch sử cận đại của Miền Nam Việt Nam.
2.1 Từ Hòa Giải Hòa Hợp của Việt Cộng thời trước 1975, đến Hòa Hợp nhưng không Hòa Giải của Cộng Sản Hà nội ngày nay
Thật tình mà nói, sở dỉ chúng ta, người Việt Tự do không có càm tình với nhóm chữ Hòa Hợp Hòa Giải cũng do nguồn gốc lịch sử. Chính nhóm Việt Cộng gồm Chánh Phủ Lâm Thời Cộng Hòa Miền Nam, úm ba la xuất thân từ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam, con đẻ của Đảng Cộng Sản Đông Dương úm ba la hóa phép làm Đảng Cộng Sản Việt Nam. Tất cả do Tề Thiên Đại Thánh, Đảng Cộng sản Quốc tế, bứt lông, phù phép dựng lên rồi, úm ba la công với nhóm thành phần thứ ba trung lập hòa bình đối lập… phối hợp lại làm mẹ sanh, làm cha đẻ của của một ý niệm Hòa Giải – cuộc chiến Quốc Cộng để đi tới Hòa Hợp Dân tộc – làm như Việt Nam có nhiều Dân tộc phải hòa hợp với nhau vậy? Dân tộc nao ? Dân tộc Bắc? Dân tộc Nam?
Thế còn Dân tộc Việt Nam? Và Dân tộc Đại Việt ?
(Xin mở một đấu ngoặc. Nói chuyện về phe Cộng Sản lắm chuyện bực mình, vì nói chuyện với một văn hóa điêu ngoa, ma giáo. Về mặt Quốc tế, khi thành lập Liên Hiệp Quốc, mỗi quốc gia là một thành viên, một lá phiếu. Thí dụ Huê kỳ tuy là một Liên Hiệp Các Tiểu Bang – United States of America, gổm lúc bấy giờ 48 Tiểu Bang nhưng chỉ là một Quốc gia một lá phiếu, Anh Quốc tuy là một Liên Hiệp Vương Quốc United Kingdom, gồm bốn xứ Anh, Tô Cách Lan, Wales và Bắc Ái Nhỉ Lan Eire nhưng vẫn chỉ một quốc gia một lá phiếu, Pháp với Cộng đồng Liên Hiệp Pháp vẫn cũng một lá phiếu. Trong khi ấy Liên Hiệp Sô Viết với nhiều Sô Viết khác nhau, nhưng mỗi Sô Viết đều là những quốc gia khác nhau và với những lá phiếu khác nhau : Cộng Hòa Sô Viết Ukraina, Cộng Hòa Sô Viết Belarussia, hay Cộng Hòa Sô Viết Arménia, hay 5 Công Hòa Sô Viết Hồi Giáo trên đường Tơ Lụa với tiếp vĩ ngữ « Stan » chẳng hạn Tất cả gồm 15 Cộng Hòa Sô Viết là 15 Quốc Gia. Liên Hiệp Sô Viết là một Quốc Gia có quyền Phủ quyết Veto như bốn Quốc Gia cường Quốc khác là Anh Pháp Mỹ Tàu. Nhưng 14 Cộng Hòa Sô Viết Chư Hầu đều có lá phiếu. Nhóm Sô Viết một mình có 15 lá phiếu, vì nhóm Số Viết đều do Đảng Ta Đảng Cộng Sản Quốc tế cầm quyền.)
Việt Nam ta cũng vậy. Phía miền Nam Việt Nam, Quốc Gia tiền đồn be bờ chống quỷ nạn quỷ đỏ, phía miền Nam chiến đấu để giữ phong cách, phong tục nề nếp, giang sơn gấm vóc cha ông tổ tiên Đại Việt, lúc ấy nhờ đồng minh Mỹ và thế giới tự do giúp đở, phải đương đầu với loài quỷ đỏ Cộng sản quốc tế giựt giây với Đảng Cộng sản Việt Nam được Tề thiên Đại Thánh hóa bức lông hóa phép Úm ba la thành Mặt trận Giải Phóng Miền, biến thành người bản địa miền Nam, dân miền Nam nổi dậy chống chánh quyền Cộng Hòa do dân miền Nam Bầu lên và được Quốc tế chấp nhận, rồi úm ba la thêm thành những Mặt trận Dân Tộc Dân chủ gì gì trung lập đòi Hòa Bình. Khi đi dự Hiệp định Paris, phe miền Bắc biến thành 2. Phe miền Nam Tự Do, Việt Nam Cộng Hòa mình, đơn thân độc mã.
Còn tay đồng minh Mỹ, vì muốn rút quân về vì chánh trị Mỹ đã đạt mục đích là đã ký kết cùng với Tàu hạ bệ Liên Sô kết thúc chiến tranh lạnh. Trong đất nhà ngay tại miền Nam, Cộng Sản quốc tế nuôi một lô chư hầu đánh mướn, nào thành phần thứ ba, nào đấu tranh Phật Giáo, nào đấu tranh Thiên Chúa Giáo xuống đường chống tham nhũng, chống độc tài. …kể luôn cả những tai to mặt lớn, quân nhơn cấp bự, trí thức cấp cao … cũng chống độc tài, tham nhũng quên rằng với đồng lương lính làm sao có villa, trang trạng, trồng hoa lan, nuôi gà đá … ?
2.2 Hội Nhập hay Hòa Hợp Hòa Giải
Vậy mà ngày nay, vẫn còn một đám, tuy là, vốn là người Việt Tự Do, cũng là CỰU tỵ nạn chánh trị vui mừng, hí hửng xóa bỏ những Ngày Điển Hình Lịch Sử kỷ niệm cái Nhục cái Hận hay cái Vinh cái Quý của người Miền Nam Tỵ Nan. Xóa bỏ đã đành, vì lưu manh gạt Tây nhờ Mỹ, nói rằng cám ơn, nói rằng tri ơn, họ còn đành đoạn liên hoan « nhảy đầm » vào Ngày tang Quốc gia vậy – Cám Ơn Thiếu Tướng Lê Minh Đảo đả nói câu nói để đời nầy!
Thật vậy! Ngày Quốc Hận, từ nay, được đổi tên mới để Nhảy Đầm thoải mái!
Đám hậu duệ choai choai lớn lên trên những quảng trường Tây, nói tiếng Tây, sống theo Tây, khi cha mẹ biểu cám ơn Tây, thì đành cám ơn Tây thôi ! Các cháu quên tại sao các cháu thành Tây? Và khổ thay, khi các cháu nhìn các người anh em, cùng máu mủ ở bên nhà với cài tên lạ hoắc là Việt Nam, các cháu cũng không nhận được rằng mình giống họ hay họ giống mình. Bảo rằng mình gốc Sông Hương Núi Ngự, bảo rằng mình gốc Bà Điểm, Hốc Môn, bảo rằng mình gốc Cái Mơn hay Hồng Ngự, Rạch Cái Cái, Tân Định, Bến Tắm Ngựa với con cháu ngày nay, ở ngoài nầy, sanh ra lớn lên ở Hawthornes California, hay Ivry sur Seine, hay Sarcelles, Val de Marne Pháp, thì chẳng có ý nghĩa gì cả. Đọc bài viết ca tụng, cây cau, lá trầu, hay con trâu cái cày, cái mùng và con muổi, hay uống nước mưa đầy lăn quăn, hay đọc bài ca dao « ta về ta tắm ao ta »… ngày nay cũng chẳng còn ý nghĩa gì cả, có thể kể cả với cậu bé ngày nay sống ở Sài gòn, uống ladze, uống Coca, bận quần jean, áo polo, tắm vòi sen nước ấm. …
Ngay nay, Hòa Hợp Hòa Giải được nói trở lại. Một phần do những đợt đánh phá nhắm thẳng vào cộng đồng người Việt Tự Do, tỵ nạn Cộng Sản Hải Ngoại. Một phần do những đợt Xuất khẩu người đấu tranh chống chế độ để làm loảng chất thuần của « Chất Chống Cộng » (Để ý những người nầy thường, chống bất mãn với chế độ « Cầm quyền » về « chánh sách, đường lối » chứ không chống « Chủ nghĩa Cộng Sản có công Giải phóng Việt Nam khỏi Thực Dân Pháp, khỏi Đế quốc Mỹ »). Xuất khẩu người bằng bỏ tù rồi trục xuất, tạo công chánh, tạo chánh nghĩa, tạo dư luận thuận, sẽ làm loảng sức, hay hơn nữa chia rẽ sức Chống Cộng !
2.3 Hoà hợp hòa giải « made in » Hải Ngoại :
Từ ngữ Hòa Hợp Hòa Giải, nghe, và nói trong cộng đồng Người Việt tỵ nạn chúng ta phải nhớ là không do Việt Cộng đề xướng. Trái lại do một nhóm người Việt hải ngoại ở Pháp nói ra, kèm theo một từ ngữ khó hiểu là Tập họp Dân chủ Đa nguyên nữa !
Khó hiểu! Tại sao «Đa Nguyên»? (chúng tôi xin phép bà con, viết hoa, vì nó quá đặc biệt, đối với chúng tôi !). Khi nói đến Dân chủ, đã là phải có, và phải chấp nhận dị biệt, có dị biệt, mới có đối thoại, và tự nhiên «phải đa nguyên» rồi ! Hay có Dân chủ Độc nguyên? Nhưng, hình như, theo tin những anh em cựu «Tập Họp», thì đúng vậy, ngay tại nhóm Tập hợp nầy, những ý nghĩ, tư tưởng khác với nhóm ông thầy trù trì đều bị loại ra ngoài vì vậy nói Đa nguyên là đúng.
Kết Luận:
Quan niệm «Nói Dzậy không phải dzậy » của phe ta dân Sài gòn coi dzậy mà muôn thuở đúng đó! Ta đề nghị Dân chủ Đa nguyên, nhưng ở xứ ta, ta áp dụng Dân chủ Độc nguyên. Độc nguyên ở Việt Nam ngày nay là Đảng Cộng sản. Ngoài Đảng ra, không có ý kiến chánh trị. Muốn được nói, phải vào Đảng, Vào Đảng là phải chấp hành, «Trung với Đảng» trước. Viết Hiến Pháp để quy luật Nước, nhưng Điều 4 quy định là Đảng là xếp nước, đứng đầu. Nói khác Đảng là đi tù ngay, là giam, là cầm, là bịt miệng, là quy vào tội phá hoại … Nước ! … Hình ảnh điển hình là hình ảnh Linh mục Nguyễn Văn Lý và bàn tay một anh Công An… bịt miệng. Bịt miệng cha Lý, nhốt Thầy Quảng Độ… Chế độ Việt Nam ngon lành hơn tất cả mọi quốc gia trên thế giới. Quản trị cả Chùa Chiền, quản trị cả Nhà thờ, Nhà nguyện … Đảng trị con người tư thể xác đến linh hồn. Nhưng tâm linh phần hồn được thay thế bằng xác ướp Hồ Chí Minh, đền thờ Lê Duẩn, bài kinh Lê Nin, Các Mác, Xì Ta Lin và ngày nay dựng đền Khổng Tử không phải Nho giáo mà Tàu Giáo.
….Ở đời nhân nghĩa làm đầu
Thủy chung sau trước, tình sâu nghĩa bền
Ai ơi nhớ lấy đừng quên
(Lục Vân Tiên, Nguyễn Đình Chiểu)
Phan Văn Song, TS