Giới lãnh đạo Việt Nam thường chỉ tay về hướng này hướng nọ và la toáng tên: “Kẻ thù!”
Cái gọi là “kẻ thù” ấy mang nhiều tên khác nhau, từ “phản động” đến “diễn biến hòa bình”, nhưng phần lớn đều có một xuất xứ: ngoại nhập. Con đường ngoại nhập có hai hình thức: hoặc do các lực lượng bên ngoài xúi giục hoặc chịu ảnh hưởng từ nước ngoài một cách gián tiếp.
Dân chúng xuống đường chống con đường lưỡi bò ngang ngược của Trung Quốc bị gán tội: âm mưu chống phá cách mạng từ nước ngoài. Nông dân chống lại lệnh cưỡng chế đất đai ở Văn Giang cũng bị gán tội bị phản động từ bên ngoài xúi giục. Tu sĩ, cư sĩ và tín đồ Phật giáo theo hệ phái Làng Mai dựng chùa để tu tập cũng bị lên án tham gia vào “diễn biến hòa bình”. Giáo dân Công giáo đòi đất vốn thuộc về Giáo Hội cũng bị chụp cái mũ phản động theo sự giật dây của nước ngoài.
Nếu cứ nghe theo lời của giới lãnh đạo Việt Nam, người ta có cảm tưởng Việt Nam đang tứ bề thọ địch. Đâu đâu cũng có kẻ thù. Kẻ thù nào cũng cực kỳ xảo quyệt và hung ác.
Cái lối tuyên truyền như vậy có nhiều cái sai và cái hại.
Cái sai thì đã rành rành. Nhưng còn cái hại? Cũng nhiều. Nhưng trong đó cái hại lớn nhất là nó che khuất những kẻ thù thực sự.
Kẻ thù thực sự của chính quyền và đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay là ai?
Trung Quốc chăng? Từ mấy năm nay, trên khắp thế giới, ai cũng thấy rõ là Trung Quốc đang âm mưu lấn chiếm hải đảo của khá nhiều nước láng giềng: họ giành bãi đá ngầm Scarborough (Trung Quốc gọi là Hoàng Nham) với Phillipines, quần đảo Senkaku (Điếu Ngư Đài) với Nhật Bản; Hoàng Sa và Trường Sa với Việt Nam. Ngoài hải đảo còn có lãnh hải: với con đường lưỡi bò (còn gọi là đường chữ U hay đường chín đoạn, Cửu đoạn tuyến, 九段線), họ lấn gần hết vùng biển chung của các nước Việt Nam, Philippines, Malaysia, Brunei và Indonesia. Trên cả hai phương diện, hải đảo và hải phận, nước chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của âm mưu bành trướng từ phía Trung Quốc chính là Việt Nam.
Có thể nói, đối với Việt Nam hiện nay, không có ngoại thù nào nguy hiểm cho bằng Trung Quốc. Có khi đó là kẻ thù duy nhất có thể dẫn đến xung đột về quân sự.
Tuy nhiên, tôi vẫn không tin là Trung Quốc có ý định tấn công lãnh thổ Việt Nam. Lấn chiếm hải đảo: Có. Lấn chiếm hải phận: Có. Nhưng tung quân đánh nhau trên đất liền như năm 1979: Không.
Tại sao ư?
Có ba lý do chính. Một, trong khi chưa trở thành siêu cường quốc số một trên thế giới, Trung Quốc không dại gì tự biến mình thành đối tượng bị đả kích, và từ đó, cô lập trên trường quốc tế. Hai, tham vọng chính của Trung Quốc hiện nay vẫn dừng lại ở vùng biển với những con đường vận chuyển trên biển và những nguồn nguyên liệu nằm sâu dưới đáy biển. Họ có thể đạt được những tham vọng ấy mà không cần phải đánh nhau thực sự. Ba, Trung Quốc thừa khôn ngoan để biết họ không nên đánh bại chính phủ Việt Nam hiện nay: Không dễ gì họ có được một kẻ thù hiền lành, nhẫn nhục, nhún nhường và sẵn sàng nhượng bộ đến như vậy.
Cho nên, Trung Quốc có thể là kẻ thù của dân tộc Việt Nam nhưng lại không phải là kẻ thù của chế độ Việt Nam hiện nay.
Kẻ thù của chế độ cộng sản không ai khác hơn là chính họ.
Họ trở thành kẻ thù của chính họ khi họ phản bội lại những lý tưởng mà họ theo đuổi từ trước: độc lập dân tộc và bình đẳng trong xã hội. Những lý tưởng ấy, trước, chưa chắc họ đã tin hẳn. Nhưng ít nhất là họ cũng làm cho nhiều người tin là họ tin. Vì tin như thế nên rất nhiều người sẵn sàng ủng hộ họ. Bây giờ, không có chút xíu lý tưởng nào còn giá trị. Về chuyện độc lập, càng ngày những tin tức trong cung đình của họ được tiết lộ ra ngoài càng cho thấy cách hành xử của họ không khác gì các quan lại thời thuộc địa. Mà không cần những thứ được gọi là tin mật ấy. Cứ nhìn cách họ trấn áp những người dân chống Trung Quốc từ Sài Gòn đến Hà Nội thì cũng đủ thấy. Cách họ đục bỏ chữ Trung Quốc trên các tấm bia tưởng niệm liệt sĩ thời chiến tranh chống Trung Quốc năm 1979 ở Lạng Sơn thì lại càng rõ. http://www.thanhnien.com.vn/pages/20110305/lang-son-nhung-ngay-thang-hai.aspx
Họ trở thành kẻ thù của chính họ khi họ tham nhũng. Phải nói ngay là tham nhũng thời nào cũng có. Và ở đâu cũng có. Sự khác biệt chỉ là ở mức độ. Mức độ tham nhũng ở Việt Nam có lẽ đã lên đến mức cao nhất trong lịch sử hiện đại. Trong ký ức người Việt, ít nhất từ đầu thế kỷ 20 đến nay, dường như chưa bao giờ tham nhũng lại hoành hành như bây giờ. Ở đâu cũng gặp tham nhũng. Lớn ăn lớn; nhỏ ăn nhỏ. Cứ hễ có chút chức tước là có tiền tràn đến. Khi tham nhũng như thế, người ta chỉ biết và chỉ chạy theo lợi ích cá nhân. Lợi ích của đất nước trở thành chuyện phù phiếm. Bởi vậy không có gì ngạc nhiên khi thấy chính quyền hiện nay đang làm những chuyện hầu như ai cũng biết là không nên làm: cho Trung Quốc thuê rừng đầu nguồn, khai thác bauxite, trúng thầu vô số công trình có ý nghĩa chiến lược mang tầm quốc gia, khăng khăng đòi giải quyết song phương với Trung Quốc về những vấn đề vốn tự bản chất có tính chất đa phương và cần được đa phương hóa… Tất cả cũng chỉ vì sự ích kỷ của những kẻ tham nhũng.
Nhưng quan trọng nhất, họ trở thành kẻ thù của chính họ khi họ quay lưng lại với nhân dân. Ngày xưa, họ tạo dựng lực lượng và sức mạnh của họ từ nhân dân. Chiêu bài nhân dân được họ sử dụng khắp nơi. Còn bây giờ? Họ cướp đất của nhân dân. Họ xua đuổi nhân dân ra khỏi những mảnh đất màu mỡ và béo bở nhất. Họ xua công an và côn đồ trấn áp nhân dân. Họ đạp vào mặt nhân dân. Họ còng tay nhân dân đẩy lên những chiếc xe bít bùng rồi chở đến đồn công an hoặc chuyển thẳng đến các trại phục hồi nhân phẩm. Họ ném vào túi nhân dân những chiếc “bao cao su đã qua sử dụng” để có cớ bắt bớ. Họ vu cho nhân dân tội “trốn thuế” để đẩy họ vào tù. Họ đánh nhân dân đến gãy cổ hoặc chết thê thảm rồi hô hoán lên là nhân dân tự tử.
Quay lưng lại với nhân dân như vậy, chế độ dựa vào ai để tồn tại? Thứ nhất là công an. Họ đặt “điều kiện” đổi chác với công an: “Còn đảng, còn mình”. Họ mặc kệ công an làm thánh làm tướng gì cũng được miễn là đừng quay súng lại về hướng họ. Cuối cùng công an biến thành một đám kiêu binh như cuối thời Lê Trịnh ngày xưa. Thứ hai, là đám thương binh bị côn đồ hóa, tự biến mình thành những sai nha sẵn sàng lao vào ăn vạ hoặc đánh đập những kẻ bị xem là “đối tượng” của chế độ.
Nhưng chọn lựa xây dựng chế độ trên hai lực lượng như thế cũng có nghĩa là chọn con đường diệt vong.
Trong năm 2011, đã có bao nhiêu chế độ có “chiến lược” tương tự đã bị sụp đổ.
Họ bị sụp đổ không phải bởi một kẻ thù nào cả. Họ tự làm cho họ sụp đổ.
TS. Nguyễn Hưng Quốc