Bài viết này có chủ đích thu gọn trong chủ đề quân sự (việc binh bị, quốc phòng) của Cộng Sản Việt Nam (VC) hiện tại, 2011. Để bài viết cô đọng, ngắn gọn, một số luận cứ liên quan trong bài sẽ không được chú dẫn vì đã trở nên một thứ “kiến thức phổ thông” mà bạn đọc nếu có theo dõi, thao thức với hiện tình đất nước, ắt phải biết, hoặc chịu khó cập nhật qua mấy tài liệu dẫn chứng chú thích ở cuối bài.
Thông thường, sức mạnh quốc phòng của một nước nằm ở 2 bình diện chính, là đường lối chính trị (chính sách), và khả năng quân sự (vũ khí cho việc binh bị)
Cán binh CSVN bị bắt làm tù binh trong cuộc chiến biên giới 1979. Vũ khí, người cán binh này dùng là súng M79 và súng tiểu liên của Mỹ. Nguồn ảnh: http://baochivn.com/forum.php
A. Khả năng quân sự trước 1975
Sau Genève 1954, VC miền Bắc dành 4 năm để nô dịch hóa dân chúng, triệt hạ sạch thành phần trí thức chống đối với chủ trương phi nhân của đường lối cộng sản… xong, là họ bắt đầu nghĩ tới việc gây chiến tranh với anh em miền Nam dưới chiêu bài giải phóng, trong khi thực tế, miền bắc rơi vào cảnh đói kém lạc hậu một cách thê thảm, từ đời sống, xã hội, sản xuất… cho đến các bình diện khác như kỹ thuật, công nghiệp, giáo dục, y tế (1) kéo dài cho tới năm 1975 khi chiến tranh kết thúc, thì thử hỏi làm gì còn có thể “giải phóng” cho ai???
Một miền Bắc đói nghèo 1960, không lo phục hưng kinh tế, xây dựng nhân sinh phú cường trong thời bình, lại đi gây việc binh đao, thì thật quá đỗi phi lí…
Nhưng dù sao mặc lòng, điều trước tiên là họ phải vận động sao cho có súng đạn mà không phải mua, thì mới tiến hành chiến tranh được!
Cho tới nay, về việc này (động cơ chiến tranh), dữ liệu của lịch sử từ các nguồn khác nhau vẫn chưa cho ta một sự thực hữu lý thống nhất. Ý định chiến tranh, theo tôi, không chỉ phát xuất từ Hồ Chí Minh với việc ông ta qua xin Krouchtchev viện trợ vũ khí để đánh miền Nam hồi 1959 (2), mà trong cái nhìn toàn cục, để tiếp tục nhuộm đỏ thế giới theo chủ trương của Staline (và đàn em là Mao trạch Đông), thì việc Nga cộng và Tàu cộng hậu thuẫn cho Bắc Việt tiến đánh miền Nam Việt Nam là xuất phát từ chủ đích của 2 nước cộng sản lớn này. Đồng thời, nhằm duy trì thế đối đầu gây hấn với Mỹ và phương Tây, cộng sản quốc tế không ngừng tiếp tay cho các đảng cộng sản manh mún tại các quốc gia Đông Nam Á (Indonesia, Philippines, Malaisia …) trong ý định không chút dấu diếm: Nhuộm đỏ thế giới. Thế nhưng ý định này gặp phải 2 bức tường ngăn là Minh Ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) thành lập 1949 và Liên Phòng Đông Nam Á (SEATO) thành lập 1954, nhằm tạo một “hàng rào” liên minh quân sự ngăn làn sóng đỏ của cộng sản mà vào lúc bấy giờ, khí thế cộng sản đang hồi sung mãn sau khi chiếm được Hoa Lục (Tưởng Giới Thạch thua trận, chạy ra bán đảo Đài Loan thành lập Trung Hoa Dân Quốc 1949) và Bắc Hàn (Hiệp Ước Bàn Môn Điếm 1953)!
Do vậy, VC miền Bắc, thực chất là cánh tay nối dài của cộng sản quốc tế, chỉ là kẻ lấy gươm đao từ người ngoài mà đánh anh em trong Nam qua chiêu bài “chiến tranh thần thánh” mà thôi. Sử VC còn ghi, HCM từng đòi “đốt cả dãy Trường Sơn”, hoặc bất chấp “sông cạn, núi mòn” cho mục đích cõng rắn cắn gà nhà đầy phản quốc và nhơ nhuốc này. Tác giả Đêm Giữa Ban Ngày, Vũ Thư Hiên, (con trai của ông Vũ Đình Huỳnh từng là bí thư của Hồ) cũng tiết lộ 1 chi tiết quan trọng: Lê Duẩn từng tuyên bố trong một cuộc họp với thuộc hạ ở bắc bộ phủ về việc chiến tranh với miền Nam: “Chúng ta đánh đây là đánh cho Liên Xô, đánh cho Trung quốc…”. Đây là những nhận thức tối thiểu để nhận ra tính cách Vô Tổ Quốc của người cộng sản.
Hồi cách đây 40 năm, người Việt 2 miền còn bị lừa, thế giới tự do còn bị lừa về tiêu ngữ tuyên truyền nào là “giải phóng”, nào là “đánh Mỹ”, nhưng tới nay sau 36 năm chiến tranh kết thúc, sự thực đã được phơi bày rõ tới nỗi chỉ những người tự lấy tay bịt mắt mới không nhận ra.
Do vậy, trong suốt cuộc chiến từ 1960 – 1975 với miền Nam, một sự thực hiển nhiên là VC hoàn toàn được Nga và Trung cộng tiếp tế đạn dược, khí tài chiến tranh. Lượng khí tài này được tiếp tế theo nhiều đợt trong nhiều năm, và chấm dứt –một cách tự nhiên- năm 1975.
Không Có Hòa Bình Sau 1975:
VC mừng vui lãnh “chiến thắng” từ việc Mỹ bỏ rơi miền Nam 30/4/1975 chưa được mấy ngày thì “người anh em” Campuchia, được người “anh lớn” Trung cộng viện trợ cố vấn quân sự và vũ khí, đã bắt đầu các hoạt động quân sự “gặm nhấm” ngay từ 5/5/1975 với việc đột kích vào đảo Phú Quốc như chỗ không người, rồi tiến chiếm đảo Thổ Chu… cho tới lúc cao điểm là tiến sâu vào nội địa VN, cướp bóc và tàn sát hàng ngàn dân VN ở Ba Chúc, An Giang tháng 4/1977, thì Hà Nội mới phát động chiến tranh với người anh em cộng sản này.
Vậy trong chiến tranh Tây Nam với Khmer đỏ (1977 – 1988), hiển nhiên là VC không thể nào còn được Trung cộng cho vũ khí nữa. Nguồn vũ khí còn mới toanh mà họ được Nga, Trung cọng cho trước 75 còn đó, cộng với “chiến lợi phẩm” thu được ở miền Nam (của Mỹ và các nước đồng minh, VNCH … để lại) sau 75, đã là “vốn liếng” chủ chốt cho cuộc chiến này.
Thế nhưng vốn liếng này không ở lâu trong túi Hanoi.
2 năm sau phát động chiến tranh Tây Nam với Khmer đỏ, thì Hà Nội lại chạm trán với đàn anh cộng sản Trung Quốc khi Đặng tiểu Bình “dạy cho VC 1 bài học” kéo dài 26 ngày từ 17/2/1979.
VC, tới lúc này, phải duy trì cuộc chiến tranh kép: Tây Nam và Tây Bắc. Do đó, lượng vũ khí mà họ xử dụng đã hao tổn rất nhiều, mặc dù khi chiếm được Phnom Penh 7/1/1979, họ đã thu được nhiều chiến lợi phẩm do quân Pon Pot bỏ chạy vì rã ngũ, không kịp phá hủy hay mang theo vũ khí, đạn dược, mà thực ra số lượng vũ khí này cũng đồng chủng với thứ mà VN đang có: đều do Trung cộng (phần nhiều) và Nga cộng, Tiệp Khắc (ít hơn) chế tạo.
Bằng chứng việc nguồn vũ khí ngày càng trở nên thiếu thốn khi chống đỡ cuộc chinh phạt của Trung cộng 1979, là họ kêu cứu khẩn cấp điện Kremlin, và Nga xô đã nhanh chóng đáp ứng. Ngày 19/2/1979, nhóm cố vấn quân sự cao cấp của Nga Xô tới Ha Nội hậu thuẫn cho VC, viện trợ gấp vũ khí cho Việt Nam qua cảng Hải Phòng, đồng thời vận chuyển một số sư đoàn bộ binh chủ lực của Việt Nam đang đánh nhau với Khmer đỏ từ Campuchia về bằng máy bay vận tải. Ngày 21/2/1979, một tuần dương hạm Sverdlov và một khu trục hạm Krivak của Nga cộng tiến về phía vùng biển Việt Nam. Nga cũng đã bắt đầu dùng máy bay giúp Việt Nam chở quân và vũ khí từ Nam ra Bắc. Hai chuyến bay đặc biệt của Nga Xô và Bulgaria chở khí tài chiến tranh bay tới Hà Nội. Nga cũng yêu cầu Trung Quốc rút quân, như một tín hiệu ngoại giao cho thấy họ đứng đàng sau Ha Nội, trong khi Jimmy Cater đứng đằng sau Đặng Tiểu Bình trong trận chiến Tây Bắc 1979 này.
Theo các tài liệu ghi lại từ nhiều nguồn, cho tới nay, tất cả đều tương đối thống nhất rằng, trận chiến Tây bắc với Trung cộng, VC đã thắng nhưng phải hao tổn quá nhiều nhân mạng (26.000 lính, chưa kể số lớn thường dân, mà để che đậy thực chất phi nhân độc ác của mình, chế độ Hà Nội luôn bưng bít thông tin một cách vô nhân đạo với quần chúng cũng như thân nhân của các gia đình có người đi lính tử nạn trong cuộc chiến 1979).
Do đó, một điều hiển nhiên là nguồn vũ khí của Hà Nội cũng lưng vơi rất nhiều nhưng họ không còn biết dựa vào đâu để bổ sung, vì nhiều lẽ.
Thứ nhất, Nga xô chỉ viện trợ “nóng” khi có chiến tranh (như 1979) chứ không có lý do gì để tiếp tục tăng viện cho Hà Nội khi đã hết chiến tranh; bản thân Nga cộng cũng đang lún vào suy thoái và khủng hoảng trầm trọng trong chế độ khét tiếng độc tài phi nhân này (tiền đề cho cách mạng nhung 1990 sau này) cho nên họ tự lết đi cũng còn chưa muốn nổi, lấy gì cưu mang đàn em Hà Nội!
Thứ nhì, về phần mình, Hanoi cũng khủng hoảng không kém với chính sách quái đản “ngăn sông cấm chợ”, đánh Hoa kiều ở Chợ Lớn, triệt tư sản (thực chất là để cướp bóc của cải), trả thù, bỏ tù người tài ở miền Nam…
Năm 1979, chỉ mới 4 năm sau 1975, mà Hà Nội đã “đổi tiền” tới 3 lần. Việt nam chỉ còn là một vùng đất chết, từ Nam chí Bắc một bầu khí nghẹt thở ảm đạm đói kém lan tràn (3), tới nỗi dân chúng dấy lên phong tào tự phát: Vượt biển!. Đây là lúc những tên tội đồ bắc bộ phủ lại nảy ra sáng kiến quái ác mới: bán bãi cho người vượt biên lấy vàng lá chở ra Ha Nội nhập kho! Nhưng đây lại là một đề tài tôi sẽ viết vào một lúc khác!
Chiến Tranh 1984
Giữa lúc Ha Nội áp dụng một chính sách quái đản như thế, thực lực kinh tài của cả nước đang lao xuống dốc nhanh chóng, thì xảy ra tranh chấp biên giới 1984 với Trung cộng qua vụ núi Lão Sơn, Vị Xuyên, Hà Tuyên (đây là cuộc chiến biên giới với Trung cộng lần thứ nhì, lần này, Trung cộng chủ đích gây hấn cốt làm cho VC chảy máu. Chú ý là hiện trạng lúc này, “hiến pháp” của VC có ghi 1 điều khoản quan trọng: “Trung quốc là kẻ thù truyền kiếp của VN”).
Một lần nữa nguồn vụ khí dự trữ ít ỏi còn lại của Hà Nội sau cuộc chiến 1979 lại phải đem ra dùng đánh nhau với Trung cộng cho tới 1989 mới đi đến 1 kết thúc bại trận với nhiều thua thiệt cho VN: hao người (con số mà Hà Nội công nhận là 3700 lính tử trận, thực tế chắc chắn cao hơn gấp bội!) hao của, mất hằng trăm cây số đất về tay Tàu cộng (so với biên giới chính thống vì kẻ chiến thắng vừa đánh vừa dời cột mốc biên giới lùi sâu vào nội địa VN), sau 2 cuộc chiến “anh em cộng sản” tương tàn này!
Nhưng nổi bật hơn hết sau biến cố này là nguồn vũ khí họ còn trong tay lại trở nên thiếu hụt hơn nữa. Các nguồn tài liệu còn ghi lại cho tới nay, cho thấy không có sự hậu thuẫn hay viện trợ nào cho Hanoi từ phía Nga cộng như hồi 1979 nữa. Đây là thời điểm xảy ra thảm họa nhà máy điện hạch tâm Chernobyl (1986) và chỉ còn vẻn vẹn 4 năm nữa là đế quốc cộng sản USSR đi vào cõi thiên thu! Thì lấy đâu ra “nguồn” sữa ngọt cho Hanoi bám vào mà ký sinh như những năm xưa nữa! Cũng phải thôi!
Cho đến thời điểm 1989, VC ở vào tình thế cô độc nhất so với trước đó, ta tạm điểm mục một vài như sau:
1 – Trở thành kẻ thù với Trung cộng, do đó thay vì được Trung cộng tiếp tế quân trang quân dụng như thời chiến tranh với miền Nam quốc gia trước đây, VC bị làm chảy máu thêm tới 2 lần, cả vũ khí cho tới các nhu yếu dân sự, lẫn hậu thuẫn về ngoại giao trên thế giới.
2 – Nga cộng, và các nước trong khối Varsovie đang đi vào cõi chết, do đó toan tính “làm đĩ” 2 nơi của VC bị phá sản. Nghĩa là không còn dựa dẫm và Trung cộng hay Nga cộng được nữa!
3 – Lệnh cấm vận của Mỹ áp dụng cho Hà Nội sau 75 đang còn hiệu lực sờ sờ ra đó, như 1 bức tường chắn sừng sững không lối thoát!
Với thế giới bên ngoài, chế độ Hà Nội bị cô lập bởi thù cũng như bạn.
Trong nước thì lộ rõ mặt thực là một chế độ tráo trở tàn ác mất lòng dân, mất lòng đồng đội (vụ hãm hại Trần Xuân Bách 1990, Bùi Tín tị nạn chính trị ở Pháp, CLB Những người kháng chiến cũ Nguyễn Hộ li khai 1991, Trần Độ manh nha đối kháng để rồi bị khai trừ khỏi đảng 1999 …, Vũ Thư Hiên đào thoát tị nạn ở Nga và viết hồi ký Đêm Giữa Ban Ngày vạch trần bộ mặt VC), phi nhân trước dư luận thế giới (“boat people”-thuyền nhân- một “thuật ngữ” bi thương ra đời như để chỉ mặt trâng tráo vô nhân của VC…)
Lúc này, Hà Nội đang đăm đăm một nỗi canh cánh duy nhất: tránh thoát sụp đổ! Vì thế, tập đoàn bắc bộ phủ lại trơ tráo vô liêm sỉ quay lại với Trung cộng, kẻ mà mới hơn 1 năm trước còn là kẻ thù ở cách 1 tầm đạn. Cái gọi là “hiến pháp” 1992 ra đời kế đó đã xóa bỏ hẳn cái điều khoản ghi vào sau cuộc chiến 1979 “coi Trung quốc là kẻ thù truyền kiếp”! Tất cả mọi mầm quy thuộc một cách vững chắc vào “thiên triều” Trung cộng bắt đầu từ đây. Nhưng đó là từ phía VC.
Còn phía Trung cộng? Làm sao “tên vô ơn phản trắc” vừa mới đọ súng với mình mà được Trung cộng chấp nhận dễ dàng? Nhưng tình thế thế giới đã biến đổi quá lẹ và toàn diện sau khi Nga và cộng sản Đông Âu sụp đổ, do đó, cục diện thế giới cũng thay đổi theo. Các nước cộng sản ít ỏi còn lại này ngay lập tức tìm về tựa lưng nhau như một phản xạ tự nhiên! Trung cộng tuy chấp nhận cho tập đoàn bắc bộ phủ khấu đầu quy thuộc, để có vây cánh, thuộc hạ trong một thế cục thế giới mới, nhưng có điều chắc chắn: Trung cộng sẽ không bao giờ là nguồn cung cấp vũ khí cho Hà Nội nữa dù là bán (chứ huống gì là cho không như xưa nữa)!!! Đây là một sự thật hiển nhiên.
Sau biến cố Đông Âu sụp đổ 1990, VC đã thở phào khi thoát nạn sụp đổ nhưng ta hãy ghi nhận như sau đây các hiệu ứng kèm theo từ các sự kiện vừa kể trên:
– Theo đà chuyển tự nhiên của tình hình, một khi VC đã quy thuộc thiên triều Trung cộng rồi thì hệ quả rõ nhất là không còn đối kháng (có thể ví von như một nàng girl, khi đã cho trai vào buồng rồi thì làm gì còn “dấu” dao dưới gối để thủ tiết?), nghĩa là việc binh bị Hà Nội gần như “bỏ ngỏ”. Tại đây, người đọc sử có thể thấy rõ tính phản quốc của VC: nói gì, làm gì…là cốt để sống còn chứ không hề quan tâm tới tổ quốc, đồng bào!
– Giả sử VC không “bỏ ngỏ”, thì việc tìm mua vũ khí để củng cố quốc phòng với Hanoi là điều không thể do các lí do sau:
a/ Không có tiền. Thực tế, Hà Nội chưa bao giờ có thể tự trang bị khí tài chiến tranh (mà họ luôn là kẻ đi xin). Và để có khả năng đó, Hà Nội phải là một chế độ dân chủ biết huy động toàn lực nhân tài của đất nước, khi “ăn nên làm ra”, chính quyền trung ương mới hoạch định ngân sách mua dần súng đạn, quân trang, quân dụng để phòng bị việc binh cho đất nước. Vì số ngân khoản chi dụng cho quốc phòng rất lớn mà lại “vô dụng” nằm ì (khi chưa có “biến”), cho nên phải có sách lược kín kẽ trong thời gian dài mới làm đầy kho chứa được! Lời kêu gào “vẫn còn nghèo” của Nguyễn Tấn Dũng mới đây tại Hội nghị thường niên ADB (Asian Development Bank) lần thứ 44, trưa thứ Năm, 5/5/2011 ở Hà Nội hòng tiếp tục “ngửa tay ăn mày” thế giới đã nói lên thực trạng đó: từng cây cầu, từng con đường, từng “dự án” nhỏ to nào về dân sinh trên toàn quốc, VC đều đi xin thế giới. Vậy thì không làm sao Hanoi có tiền để đi mua vũ khí được!
b/ Không biết mua ở đâu, bởi theo thống kê của Viện nghiên cứu hòa bình quốc tế Stockholm SIPRI, thì các tập đoàn sản xuất vũ khí lớn nhất thế giới đều ở Mỹ và Châu Âu. Mỹ lại là nước kiểm soát vô cùng chặt chẽ việc mua bán vũ khí trên thế giới, nhất là với các nước cộng sản, hoặc độc tài quân phiệt như Miến Điện, hay Hồi giáo quá khích ở Trung Đông. Việc Ha Nội có thể mua được vũ khí từ các hãng của Mỹ và Châu Âu là không bao giờ! Nếu có chăng, Ha Nội chỉ mua “chui” được một ít lẻ tẻ từ Miến, Ấn Độ, cũng chả là bao! Còn mua từ những nước khác “bất hảo” quy tụ quanh Trung cộng thì chắc chắn Bắc kinh đã cấm cửa!
– Năm 1994, TT Bill Clinton xóa lệnh cấm vận cho Hà Nội. 1996, Mỹ thiết lập bang giao cấp đại sứ với VC. Việt Nam trở nên một “thị trường” rẻ bèo về nguồn nhân công, năng lượng, dịch vụ… cho tư bản Mỹ và phương Tây theo chân Mỹ ùa vào mà khai thác. Quan chức VC tranh tiên nhanh hơn hết khi đổi áo từ quân sự, chuyên chính… sang kinh tế… cho tới nay! Việc các đơn vị quân đội VC bỗng chuyển sang làm ăn kiếm chác tranh nhau những “vố” lớn trong các lĩnh vực dân sự như viễn thông (điện thoại di động, Internet…), địa ốc, du lịch, nhà hàng, chứng khoán, dẫn tới biết bao tha hóa nặng nề trong hàng ngũ “tướng tá” của VC là cả một “cuốn sổ thiên đình” dày cộm!
Nhưng quan trọng hơn hết, việc binh bị bỏ ngỏ, vì tướng hư thì binh hỏng.
Người ta có thể ghi nhận hằng ngàn khách sạn, quán nhậu, resort, đua nhau ngốn tiền tỉ, nhưng không hề thấy mọc mới các trường hay trung tâm huấn luyện binh lính, sỹ quan ứng phó cho thời chiến, hầu như tất cả chúng đều được dùng lại từ những gì có sẵn cũ mèm từ trước ở miền Bắc, và chiếm dụng từ quân đội quốc gia ở miền Nam sau 1975. Chỉ có hoạt động “nghĩa vụ quân sự” chiếu lệ, nhưng dần dà theo đà tha hóa nhanh chóng của cán bộ VC, các cuộc bắt lính trở nên lỏng lẻo vì rất dễ hối lộ cho các đơn vị “tỉnh đội, huyện đội, xã đội” để thoát lệnh bắt lính. Các em nhỏ (không tiền hối lộ) sau khi “hoàn thành nghĩa vụ” 3 năm trở về, đã thuật lại những thảm trạng sa đọa trụy lạc ngày càng phổ biến từ những “doanh trại” bộ đội thời bình này: có đủ hết những hư hỏng bên ngoài như web sex, CD phim sex, cờ bạc, hối lộ, ma túy nữa!
– Thời hạn (date) của vũ khí: hầu hết các vũ khí mà 2 bên Nam Bắc VN đánh nhau trong 15 năm từ 1960 – 1975, đều là vũ khí cũ từ thời đệ nhị thế chiến còn sót lại. Các siêu cường Tư bản – Cộng sản thế giới quả nhiên đã đánh nhau qua 1 nước thứ ba, là Việt Nam, đồng thời là nơi “tiêu thụ” vũ khí của họ còn thừa sau đệ nhị thế chiến.
* * *
Qua những chuyển biến thế giới từ 1990 tới nay, đã là hơn 20 năm, thì hạn dùng (date) của mớ vũ khí ít ỏi mà Hà Nội còn trong kho, đã quá date lâu lắm rồi. Trong 3 năm qua, đã có mấy vụ thử máy bay Mic 21 của Nga bị rơi trong có vài chuyến bay thử là một dẫn chứng! (12/11/2009 ở Yên Báy, 29/5/2010 ở Bình Định, 7/7/2010 tại Mê Linh, Hà Nội). Vả lại, vũ khí, nhứt là súng trường, đại liên, đại bác…nếu không dùng, thì nhất thiết phải tuân thủ một quy trình bảo dưỡng chặt chẽ mới mong tránh khỏi hư hỏng, rỉ sét. Riêng đạn, chắc chắn số bị hư thúi rất nhiều. Đó là chưa kể trong 20 năm qua, khi Hà Nội quy thuộc Trung cộng, các đơn vị tài binh thi nhau cởi áo lính nhào vô lĩnh lực dân sự mà kinh doanh, buôn bán kiếm ăn, thì các cấp nhỏ bên dưới dần dà lén lút lấy cắp các kho quân cụ quân nhu mà bán ve chai kiếm ăn lẻ, những gì có thể bán, hoặc giả vờ báo cáo hư để bán …
Thời gian càng trôi, số vũ khí càng hao mòn hoặc có nguy cơ trở nên vô dụng mà Hanoi thì không thể có nguồn mua bổ sung, do đó hiện giờ, tình trạng binh bị của chế độ là vô cùng yếu, khi họ tự biết ngày càng bị “bá quyền bành trướng bắc kinh” bắt nạt không cần dấu diếm, với các mật ước bán đất nhượng biển của tổ tiên cho Tàu cũng như khả năng quá kém về quân sự.
Trước thực tế đó, tin tức ghi nhận tháng 12/2009 Hanoi đã “hô hoán” với thế giới việc họ tái vũ trang bằng cách mua lại vũ khí (chiến đấu cơ Sukhoi Su-30MK2), tàu ngầm từ Nga với các hợp đồng lớn … làm cho láng giềng Thái Lan lên tiếng phản đối. Theo nhật báo South China Morning Post ở Hongkong nhận định, đây là hợp đồng mua bán vũ khí lớn nhất kể từ khi cuộc chiến Việt Nam kết thúc 35 năm trước.
Sau việc Trung cộng uy hiếp biển đông VN qua việc tàu “ngư chính” 311 xông vào cắt cable thăm dò dầu mỏ của tàu Bình Minh 2 (26/5/2011) và Viking 2 (9/6/2011), Ha Nội lại vội vàng mua thêm vũ khí “Hệ thống tên lửa phòng không S-300PMU1” từ Nga mà theo tờ Tuổi Trẻ 19/6 thì “được thiết kế riêng cho VN”. Đây là một giọng điệu tuyên truyền “nổ” rẻ tiền ấu trĩ nhằm trấn an nhau và “khè” dư luận của Ha Nội, vì việc thiết kế rồi sản xuất “riêng” 1 “hệ thống” hỏa tiễn phòng không đâu chỉ là việc của vài ngày??!!!
Những hành vi mua vội vũ khí từ Nga của Hà Nội lại càng cho thấy thực trạng của họ là: kho khí tài sau nhiều cuộc chiến tranh sau 1975 tới nay đã cạn, hoặc gần như trống rỗng vì hạn dùng đã hết.
Những câu hỏi sau đây sẽ rất xác đáng khi nêu lên để điểm mặt việc binh của nhà nước VC hiện giờ:
Nếu lại xảy ra chiến tranh với Trung cộng, quân đội VC cầm cự được mấy ngày thì hết đạn? Khi hết đạn thì bổ sung từ đâu? Bạn bè của VN hiện giờ là ai, nếu không muốn nói là chỉ 1 mình Trung cộng? thì lấy ai mà VN dựa dẫm, hỗ trợ???
Nếu kêu thanh niên nhập ngũ, lấy đâu súng ống, đạn dược, áo, quần, dày vớ… các thứ quân trang quân dụng nói chung để đủ trang bị cho họ???
Lấy đâu xe tải quân sự (như Molotova của Nga, GMC của Mỹ), hay tàu chiến, phi cơ chiến đấu… mà chuyển quân, mà tham chiến? Không thể dùng xe car dân sự được! Và nhiên liệu đâu cho máy bay chiến đấu, cho tàu (thủy) chiến? Kể cả các phi hành đoàn không quân lấy đâu ra mà lái máy bay? Trong khi hàng không dân sự (chở khách kiếm ăn) của VN cũng phải thuê rặt những phi công ngoại quốc?…
Trên đây chỉ là vài câu hỏi gợi ý…
B. Đường Lối Chính Trị:
Với vị thế nước nhỏ mà tan hoang vì chinh chiến kéo dài, nhà nước cộng sản phải ý thức được thực tại đó, sau 1975, nếu họ tuy vẫn tham quyền ăn trên ngồi trước, nhưng còn có tí gì nghĩ tưởng tới quốc gia dân tộc, thì hẳn họ đã (dù giả vờ cũng được) dang tay tìm lại anh em miền Nam, là những người hiền tài với trình độ học vấn cũng như truyền thống nền tảng quá ư tốt đẹp nhân bản của miền Nam sẵn có, cùng nhau ngồi lại vạch định tương lai cho xứ sở, mà trong lúc ấy, như ta đã biết, Ha Nội và Trung cộng đang là kẻ thù ngấm ngầm của nhau! Hà Nội, hơn ai hết biết rõ khi chiến tranh kết thúc, thì chỉ còn tình anh em một nhà mới là có thực, còn Tàu cộng vĩnh viễn cũng chỉ “giặc Tàu trăm năm độ hộ” ta mà thôi! Nhưng họ đã tự dối lòng, từ chối anh em!
Tôi tin chắc gần như toàn thể các tướng lãnh, viên chức, trí thức, nhân sĩ VNCH sẽ không hề ngần ngại thù hằn gì, sẵn sàng ngồi lại ở vị thế thứ yếu, nhường đặc quyền đặc lợi cho VC “lãnh đạo” quốc gia, nếu Hà Nội thực tâm tìm hơi ấm anh em đặng thiết kế hướng đi phú cường cho VN sau 1975. Người Việt suýt nữa đã có thể thoát một cơn hiềm thù vô duyên vô bổ…thế mà Không! Chính Hà Nội đã dung dưỡng, tô đậm thù hằn đang còn di hại cho tới ngày nay sau 36 năm chiến tranh kết thúc.
Thiết tưởng, ngoài tác dụng tái thiết xứ sở sao bao năm bị tàn phá bởi chiến tranh, đây còn là hướng duy nhất mạnh và bền trong việc lèo lái xứ sở mà chưa nhất thiết phải lo ngóng về việc chuẩn bị khí tài cho quốc phòng. Vì, một đường lối hợp lý, trong đồng thuận anh em, ngoài khoan hòa khiêm cung mềm dẻo với các lân quốc, chắc chắn sẽ là giải pháp tối ưu cho một sách lược “phòng thủ” mà chưa hoặc không phải dùng tới vũ lực! Bài học ấy nhan nhản trên thế giới như Nam Hàn, Singapour, Đài Loan, Thái Lan mà ngày nay đã hiển hiện thành quả. Trong khi Hà Nội say cơn vĩ cuồng hoang tưởng “chiến thắng”, “vô địch” của họ, thì các nước ấy biết liên kết với Mỹ không những để giao thương học hỏi những kỹ thuật, công nghệ tân kỳ của xứ người mà còn tạo một thế liên minh, dùng vỏ bọc “mạnh” của Mỹ để che chắn cho mình an tâm phục hưng nước nhà. Việc Thái Lan trước 1975 thua xa miền Nam VN về trình độ cũng như văn minh, mà đến 1990 (15 năm sau) trở nên một thiên đường so với VN…đã quá đủ để nói lên điều đó!
TẠM KẾT
Việc đời luôn biến thiên theo lẽ vô thường của cuộc sống mà người làm chính trị không thể không biết: “Không có bạn muôn đời, cũng như không có kẻ thù truyền kiếp”. Kiểm điểm lại quá trình chiến tranh Việt Nam qua những gì phía VC nói, rồi làm, với Trung cộng, rồi với Mỹ, từ 1960 tới nay, đã chứng tỏ chân lý hiển nhiên từ câu nói trên mà không cần phải thêm bớt gì.
Mới cách đây gần hai tháng trở về trước, VC và Trung cộng còn 16 chữ vàng, 4 tốt, mà giờ đây sau 2 lần Trung cộng uy hiếp vỗ mặt cắt cable của 2 tàu dò dầu VN, bắt ngư dân vòi tiền chuộc, bắn chết ngư dân, cướp tàu, cướp ngư cụ, cấm đánh bắt trên vùng biển thuộc lãnh hải VN, và đe dọa dùng quân sự để chiếm mặt biển của VN … mà Hà Nội ngoan ngoãn im re không hề dám làm một động thái nào, thì thử hỏi đó là chân lý gì? Vũ khí để mà làm gì?
Khi chế độ Hà Nội bị Trung cộng vỗ mặt, thì dân chúng biểu tình đả đảo Trung quốc xâm lược. Lẽ ra Hà Nội không còn mong muốn nào hơn, trong khi người dân bị đảng viên của họ khắp các tỉnh thành từ Bắc chí Nam bạc đãi, đánh chết, cướp đất suốt thời gian dài…mà khi nước nhà lâm nguy với kẻ phương bắc ỷ mạnh hiếp yếu hòng bành trướng, dân vẫn một lòng đứng lên cùng nói tiếng nói phản ứng với nhà cầm quyền, hỗ trợ nhà nước trong việc đồng thuận 1 lòng chống địch, thì Hà Nội lại cho người đàn áp thô bạo, bắt bớ dân chúng … như phường cướp giật giữa thanh thiên bạch nhật, bất chấp liêm sỉ tự trọng… thì thử hỏi đó là chân lý gì? Vũ khí để mà làm gì? Để bắn dân sao?
Số ít các nhân viên công an lừa nòi lộn giống đang còn nhắm mắt vô lương cúi đầu phục vụ cho bạo quyền phản quốc kia thực ra chỉ là kẻ tội đồ hạng 2.
Kẻ tội đồ chánh phạm phải kể là cái bộ chính chọe của Hà Nội, nơi đã không còn khả năng vệ quốc, mà ngược lại, họ có vẻ sẵn sàng dùng số vũ khí chẳng còn bao lăm kia mà bắn vào dân chúng. Họ mới chính là một nhúm những kẻ phản quốc ghê tởm nhất trong sử Việt, nhưng dù vậy, số đạn họ đang còn có thể bắn vào dân trong mấy ngày nếu từ Nam chí Bắc đồng loạt biểu tình hỏi tội phản quốc của họ???
LTC [Nguồn: Đàn Chim Việt]
Saigon, 23/6/2011
Chú Thích:
(1): Xin xem:
MỘT NGÀY TẠI HÀ NỘI -Bút Ký- Trung Tá PHẠM HUẤN
TỪ THỰC DÂN ĐẾN CỘNG SẢN -Biên Khảo- Hoàng văn Chí
ĐIỀU TRA ĐỜI SỐNG CƯ DÂN ĐÔ THỊ BẮC VIỆT giai đoạn 1954-1975- VŨ NGỌC TIẾN
(2): Xin xem: Các Lực Lượng Ngoại Quốc Tham Dự Chiến Tranh Việt Nam 1960-1975 Trần Gia Phụng
(3): Giáo Sư Ramses Amer nhận định : Những ai ghé Hà Nội vào thập niên 80 đều thấy rằng miền Bắc Việt Nam thiếu thốn đủ điều, từ lương thực cho đến các mặt hàng tiêu dùng khác vì trước đó các thứ này đều đến từ Trung Quốc. (http://www.rfi.fr/actuvi/articles/110/article_2554.asp)
Các Tài Liệu Tham Khảo:
http://motgoctroi.com/StLichsu/LSCandai/CuocchienTrungViet/ChientranhBiengioiVietTrung.htm
http://motgoctroi.com/StLichsu/LSCandai/CuocchienTrungViet/CuochienVT.htm
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/indepth/cluster/2009/02/090210_border_war_1979.shtml
http://ucchau.ndclnh.com/index.php?option=com_content&view=article&id=536:thm-kch-lao-sn&catid=21:bn-c-tam-tinh&Itemid=31