Trong chính tả Việt Ngữ, nhà cầm quyền Hanoi đã từng bất chấp các quy tắc chính tả và áp đặt cả nước Việt Nam phải dùng chữ “I” ngắn thay cho “Y” dài… Thí dụ, “nước Mĩ” thay cho “nước Mỹ”, “Qui i” thay cho “Quy y”…
Sự áp đặt của bạo quyền đã xảy ra tại miền Bắc VN sau năm 1954 và miền Nam sau biến cố tháng Tư 1975 bởi những mệnh lệnh bằng… miệng do các đồng chí lãnh đạo bên trên! (“Long March”, chữ của Tố Hữu khi nói sau lưng Trường Chinh.)
Sự kệch cỡm đó đã trở thành chính thức, khi các “đỉnh cao của trí t(u)ệ loài ngợm” ban hành thành văn bản, đó là quy định ngày 30-11-1980 của bộ Giáo Dục để tiết kiệm một tí ti… mực viết và in chữ Quốc Ngữ.
Đó chỉ là một trong hàng trăm việc tàn phá vào sự trong sáng của tiếng Quốc Ngữ mà “đỉnh cao của trí tệ loài ngợm” thực hiện nơi quê nhà điêu linh.
Hơn nửa thế kỷ thực hiện những việc quái gở, giờ đây một số “trí thức xhcn” đã phần nào thức tỉnh và rụt rè lên tiếng đòi sửa lại những cái sai của lũ mán rừng.
Bài viết sau này của GSTS về ngôn ngữ học, một “trí thức ưu tú xhcn”, ông Nguyễn Đức Dân đã chỉ ra những cái sự thiếu sót và ngớ ngẩn trong quy định quái gở ngày 30-11-1980 của bộ Giáo Dục nơi thiên đường của bác và đảng:
Nên viết i hay viết y?
Có một quy tắc bất thành văn về tính thẩm mỹ trong chữ Việt: hình chữ phải đẹp. Điều này dẫn tới hiện tượng “phá rào” với quy định viết i/y hiện nay.
Đó là quy định ngày 30.11.1980 của bộ Giáo dục về chính tả liên quan đến hai chữ y và i, như sau: “… trường hợp các âm tiết có nguyên âm i ở cuối thì viết thống nhất bằng i, trừ uy, như duy, tuy, quy…; thí dụ: kì dị, lí trí, mĩ vị. Chú ý: i hoặc y đứng một mình hoặc đứng đầu âm tiết vẫn viết theo thói quen cũ, thí dụ: ý nghĩa, y tế, ỉ eo, ầm ĩ, im, yêu”.
Hiện nay có những ý kiến trái chiều với quy định này.
Những điều còn bỏ qua
Chữ viết là quy ước, chuẩn mực chính tả cũng là quy ước. Chữ Việt là loại chữ viết ghi âm. Khi ta nói, mỗi tiếng là một âm tiết. Mỗi âm tiết gồm có ba bộ phận: âm đầu – vần – thanh điệu. Mỗi vần lại chứa các thành phần nhỏ hơn: vần = âm đệm – âm chính – âm cuối. Như vậy, âm đầu, vần (âm đệm, âm chính, âm cuối), thanh điệu là những yếu tố có liên quan đến chuẩn mực chính tả.
Quy định trên không chú ý tới thói quen khi viết âm tiết có bán nguyên âm đứng cuối được ghi bằng y hoặc i. So sánh tay/tai, hay/hai. Cùng một nguyên âm, có i đứng cuối thì sẽ đọc dài ra, có y đứng cuối thì đọc ngắn đi. Lúc này nguyên âm a thể hiện âm vị /ă/ nên không ít học sinh mắc lỗi viết tăy, hăy.
Quy định không nói tới công dụng của y hay i đứng cuối âm tiết để phân biệt hai vần uy/ui: thuý khác với thúi, quý khác với cúi…
Quy định cũng không đề cập tới quy tắc viết bằng chữ y trong những trường hợp:
- Viết yê, ya khi nguyên âm đôi này đứng sau âm đệm /w/: Nguyễn Khuyến, đêm khuya.
- Viết y sau chữ qu~ (bán nguyên âm u đứng sau /k/): quy luật, quy ước, quyền lực, quyết định…
- Viết yê khi âm tiết vắng phụ âm đầu và là nguyên âm đôi /ie/: yến, yểm trợ, yêng hùng, niêm yết, uyển chuyển, yên tâm… Như vậy, viết yêu không phải là “viết theo thói quen cũ” như nhận định trong quy định đã nêu.
- Dù đứng một mình hay đứng cuối trong các từ phiên âm thì gốc sao phải viết vậy: dao i nốc (inox → inoxydable → không gỉ), muối i ốt… Nguyên âm /i/ đứng cuối nhưng vẫn phải viết là khí ôxy, khí hy đrô.
Những điều chưa chuẩn
Quy định trên không chú ý tới một quy tắc bất thành văn về tính thẩm mỹ trong chữ quốc ngữ: hình chữ phải đẹp, nghĩa là có sự cân đối về độ cao giữa các con chữ trong từ ngữ. Khái niệm này được hiểu như sau:
- Ghép những phụ âm cùng độ cao với /i/ thì có khuynh hướng dùng i: si mê, mị dân, chim ri, rằn ri, rên rỉ, xanh rì, kẻ sĩ, vĩ mô, vi phạm, vì sao, vì vậy, vị trí… Gia Định Báo viết bán sỉ (số 6.5.1882), không thấy số nào viết bán sỷ. “Thói quen viết ỉ eo, ầm ĩ, im…” (quy định) phản ánh quy tắc này.
- Khái niệm cân đối còn được hiểu là trong một từ nếu con chữ một phụ âm nhô cao lên thì ta viết y nhằm tạo ra sự hài hoà trên dưới. Viết lý thì phần trên và phần dưới chữ này cân đối với nhau, còn viết lí thì phần dưới chữ này hơi bị hụt. Vì vậy trong báo Nông Cổ Mín Đàm năm 1902, chúng ta gặp: Lý văn Ngọc; chánh lý; chưởng lý; mạng lý (11.1); không lý vì bộ tướng vậm vỡ; có lý lắm (27.3). Cũng lý do tương tự, trong Gia Định Báo năm 1881, 1882 chúng ta gặp ký tên (26.12); thơ ký (12.2); trong kỳ 15 ngày (15.3)…; trong Nông Cổ Mín Đàm năm 1902, chúng ta gặp xem kỹ (6.3); ích kỹ (9.1, sai thanh hỏi); Nam-Kỳ; dầu thắng kỳ nhứt; anh lấy làm kỳ (24.7); chẳng kỳ lòng súng lớn nhỏ; cho kỷ càng (21.8, sai thanh ngã)… Chúng ta còn gặp thanh ny hồi tục, mỹ danh, làng Bình-hy… Cách viết Hoa Kỳ cũng nằm trong hệ thống trên. Trong những âm tiết vừa dẫn không gặp cách viết “trường hợp các âm tiết có nguyên âm i ở cuối thì viết thống nhất bằng i” như trong quy định.
- Còn “viết theo thói quen cũ, thí dụ: ý nghĩa; y tế…” vẫn phản ánh luật cân đối trong chữ quốc ngữ: dùng y trong ý nghĩa, y tế để có sự cân đối giữa hai tiếng trong một từ ghép.
- Trường hợp ngoại lệ “trừ uy (thì viết y) như duy, tuy, quy…” thì báo thời đó lại viết ngược lại: trong Nông Cổ Mín Đàm, chúng ta gặp nhơn gian qui Sở Khanh, vinh qui, Lão – kị – qui – y (3.4.1902).
- Kích thước con chữ cũng là một lý do thẩm mỹ: chữ i ngắn hơn chữ y tạo ra ấn tượng là một đối tượng nhỏ. Vậy nên có khuynh hướng dùng i ngắn cho những đối tượng tạo ra ý niệm nhỏ: li ti, tỉ mỉ, vi tính; chi li, chi tiết; chơi bi, sân si, lí nhí… chứ không ai viết chơi by, tỷ mỷ, chy ly, chy tiết, vy tính…
Có những thói quen ngôn ngữ không tìm được lý lẽ
Trong tiếng Pháp hiện nay có từ poids (trọng lượng). Thuở xưa, từ này được viết là pois. Tới thời Phục hưng có người cho rằng nó do từ Latinh pondus mà thành, vậy phải thêm d vào sau i mới đúng, thế là người ta đổi pois thành poids. Về sau có người chứng minh được pois chính do từ Latinh pensum (vật được cân xem nặng nhẹ thế nào) mà ra, nhưng người Pháp đã quen dùng poids mất rồi. Vậy là poids vẫn giữ nguyên cho đến ngày nay.
Trong tiếng Việt có những biến thể trong cách viết i/y. Một từ mĩ là đẹp, mọi người quen viết nước Mỹ, châu Mỹ nhưng lại viết mĩ mãn. Những biến thể như vậy gặp rất nhiều. Điều đó là bình thường, không có gì đáng tranh cãi.
Tóm lại: Cách viết i/y trong quy định của bộ Giáo dục không phù hợp với tâm lý người Việt và thực tế tiếng Việt nên chúng ta thường “vượt rào” hoặc mắc lỗi trước quy định này. Nên chấp nhận những biến thể trong cách viết i/y.
GS.TS Nguyễn Đức Dân
Nguồn: Sài Gòn tiếp thị
Đó là một bài viết ngắn, cô đọng và tương đối có sự tìm tòi của tác giả là một GSTS của viện Ngôn Ngữ tại VN.
Tiếc thay, tuy người Việt tại trong nước và tại hải ngoại đều biết rằng quy định kia đã làm xáo trộn trật tự chính tả Việt Ngữ vốn có đã trong sáng từ trước đó (những năm 1950’s); nhưng ít ai thấu hiểu được mức độ tàn phá của nó đến ra sao:
Ngay cả một GSTS về ngôn ngữ học của chế độ là Nguyễn Đức Dân, khi dè dặt chỉ ra những cái sai đã có (của nghị định ban hành ngày 30-11-1980), thì bản thân ông cũng vì thiếu hiểu biết căn bản về chuyên môn nên đã mắc phải những sai lầm mới tai hại không kém.
Chỉ ra những sai lầm của ông GSTS trong bài viết trên, chúng tôi không hề phủ định những phần chính xác khác còn lại trong bài viết đó. Mục đích của chúng tôi trong bài phản biện này là ngăn chặn việc lan truyền thêm những cái sai sót mới đang đem đến kiến thức tai hại cho độc giả không chỉ trong nước. Ngay cả đối với người Việt tại hải ngoại khi đọc bài viết đó của ông GS TS mà thiếu sót kiến thức căn bản Việt ngữ cũng như thói quen suy nghĩ độc lâp, cũng dễ dàng bị “lạc đạn” vì tin vào những điều nhảm nhí này trong việc rà soát lỗi chính tả liên quan đến các mẫu tự “I ngắn” và “Y dài” của mình.
Vì, với cái mác “GS TS ngôn ngữ học” được dùng làm “nhãn hiệu cầu chứng tại tòa”, sẽ có rất ít người dám nghi ngờ đến tính cách khả tín từ những bài viết tương tự như bài này của ông Dân cũng như của các “GS TS ngôn ngữ học” được đào tạo tại VN ngày nay.
1. Ông GSTS viết, “Quy định cũng không đề cập tới quy tắc viết bằng chữ y trong những trường hợp:
- Viết yê, ya khi nguyên âm đôi này đứng sau âm đệm /w/: Nguyễn Khuyến, đêm khuya.
Phần tô đậm màu xanh tươi rói đó, nếu cẩn thận hơn một chút thôi, ông GS TS đã nhìn ra được rằng nó chỉ là một trường hợp riêng biệt trong một nhóm trường hợp tổng quát hơn rất nhiều (a set, a group đối với âm yê). Đó là, khi các nguyên âm kép này đi sau những phụ âm đơn (hoặc kép) khác nhau đồng thời có được nguyên âm “u” đi kèm ngay sau chúng.
Rõ ràng hơn, chúng là các sự kết hợp như chu-yên, chu-yện, chu-yền, hu-yên, hu-yền, hu-yện, lu-yến, lu-yện, qu-yên, qu-yến, qu-yện, thu-yên, tru-yện, tru-yền, tu-yên, tu-yến,… Âm đệm /W/ (ký phiên âm của phụ âm kép “kh”) như ông đã ghi, cần được xếp trong nhóm kết hợp từ vựng vừa kể. Nó không phải là trường hợp riêng biệt như cách liệt kê của ông GS TS.
Ngoài ra, chính trong thí dụ của mình, ông đã không nhìn ra được rằng chữ “Nguyễn” trong “Nguyễn Khuyến” cũng đã can dự vào trường hợp tổng quát nói trên mà chúng tôi đang đề cập.
Thiếu sót vì sự bất cẩn trong bài viết của mình, lỗi này cuả ông GSTS khi quan sát các cấu trúc về chính tả, là một điều đáng tiếc. Tuy nhiên, nó có thể được xem là không quá nặng nề như điều chúng tôi sẽ nêu ra sau đây.
Sai sót lớn và trầm trọng trong bài viết, xoay quanh việc ông GS TS đã to gan, bạo phổi, và nhắm mắt đưa ra một “quy luật bất hành văn (luật không có văn bản) về thẩm mỹ”
2. Thật vậy, ông GS TS về ngôn ngữ học cho rằng, “Quy định trên không chú ý tới một quy tắc bất thành văn về tính thẩm mỹ trong chữ quốc ngữ: hình chữ phải đẹp, nghĩa là có sự cân đối về độ cao giữa các con chữ trong từ ngữ.”
Để có được cái [quy tắc bất hành văn “trong một từ nếu con chữ một phụ âm nhô cao lên thì ta viết y nhằm tạo ra sự hài hoà trên dưới.”, ông GS TS Nguyễn Đức Dân phải dày công nghiên cứu, kể cả việc đem thước li ra, đo dọc đếm ngang tỉ mỉ từng nét dài ngắn của mỗi con chữ cái. Thương hại cho ông GS TS đã hao tâm tổn sức hít bụi thời gian để săm soi kính lúp vào từng số “Gia Định Báo” và “Nông Cổ Mín Đàm” đã ngả màu theo tháng năm. Ấn bản của chúng, đã từ hơn trăm năm trước.
Cuối cùng, cái điều mà ông GS TS khám phá được như một thứ “mặt trời chân lý chói qua tim” đó, khốn khổ thay đã trở thành trò cười nhảm nhí đầy lố bịch của học trò quỷ quái khi bọn chúng tôi còn đang lê la ở các lớp Hai và lớp Ba trong những trường tiểu học tại Saigon:
Chúng tôi không biết bản thân ông GSTS đã được học Quốc ngữ như thế nào? Rồi sau đó ông đã nghiên cứu ra sao về ngôn ngữ trong thiên đường xhcn của các ông(?)
Lẽ nào, trong những năm đầu tiên của bậc tiểu học, ông GS TS đã không được dạy dỗ vài nguyên tắc vô cùng căn bản, khi viết chính tả liên quan đến các nguyên âm “I” và “Y”?
Các nguyên tắc căn bản đó bao gồm ít nhất những điểm sau đây:
a) Trực tiếp sau các phụ âm kép, chúng ta chỉ được phép viết “I ngắn” mà không được viết “Y dài”. Thí dụ: viết là “chi, chí, chỉ, chị, chì, ghi, ghị, ghì, nghi, nghỉ, nghĩ, nghì, khi, khí, khỉ, khị, khì… tri, trí, trĩ, trị, trì” mà không viết là “chy, chý, chỷ, chỵ, chỳ,…”
b) Trực tiếp sau các phụ âm “b, d, đ, g”; tuyệt đối không được viết “Y”, mà chỉ được dùng “I”. Thí dụ, “bi, bí, bỉ, bĩ, bị, bì…”
Ngoài ra, còn có vài nguyên tắc khác và những ngoại lệ cho các phụ âm đi kèm, cũng như một số các trường hợp khác nào đó cho phép viết bằng cả hai nguyên âm “I” và “Y” mà đều được công nhận là đúng trong một số tù điển Việt ngữ được biên soạn đứng đắn.
Nếu thời thơ ấu của ông GS TS được dạy dỗ cẩn thận hơn và ông cũng chịu khó học thuộc bài, thì hai nguyên tắc a) và b) nói trên đã tiết kiệm cho ông thật nhiều công sức “nghiên cứu” vất vả mà rốt cuộc chẳng đem lại chút giá trị nào cả(!) Nguy hiểm hơn, “chân lý” ngây dại, hâm hấp… mà ông GS TS phát kiến ra đó, hiện đang được phổ biến tràn lan trên thế giới mạng lưới toàn cầu bởi những suy nghĩ thiểu năng. Nó góp phần vào việc khiến cho con thuyền Quốc ngữ của nước ta mãi mang phận lênh đênh bọt bèo!
3. Bản thân việc “quản lý hành chánh về ngôn ngữ” đã sai trong chế độc tài cộng sản. Bởi vì hiểu theo nghĩa đen hay bóng cho quyền tự do ngôn luận, thì đó cũng là sự chà đạp nhân quyền. Trên thực tế, Quy Định hành chánh ngày 30/11/1980 của bộ Giáo Dục là một trong hằng trăm việc làm tàn phá vào sự minh bạch và trong sáng của tiếng Việt.
Thương thay cho ông GS TS “ngôn ngữ học” đã hiểu ra được cái sai cần phải được sửa đổi. Thế là, ông đã phải thập thò lên tiếng một cách không chính thức với dư luận, dựa trên “công trình nghiên cứu vĩ đại” của mình. Nhưng “lực bất tùng tâm”. Hoài bão tìm cách sửa lại cái sai do hậu quả của Quy Định cuồng điên kia của ông thì to, tâm ông dạt dào. Khốn nỗi ảnh hưởng của sự phá hoại đã quá nặng nề. Nặng nề đến đỗi, là một nhà “ngôn ngữ học” với học hàm học vị GSTS đeo nặng trên vai đã không giúp ông tìm ra được manh mối của cái sai, cái dở. Hơn ai hết, ông GS TS chính là nạn nhân của Quy Định hành chánh ngày 30/11/1980 do bộ Giáo Dục ban hành. Và, bản thân ông cũng có phần trách nhiệm với kiến thức của chính mình khi khả năng nhận xét vẫn còn vô cùng kém cỏi so với cái “mác” GS TS gắn trước tên tuổi của ông dưới mỗi “công trình nghiên cứu”.
Giá như ông GS TS Nguyễn Đức Dân đã được học hành một cách có quy củ ngay từ tấm bé như chúng tôi đã từng được thừa hưởng tại Saigon trong thời loạn ly, thì kiến thức căn bản về Quốc Ngữ ngày nay của ông đã rất vững vàng mà chẳng cần phải giành giựt cho được mảnh bằng TS. Ông cũng không cần phải chen lấn, xô đẩy cùng những đồng nghiệp của mình để đọ xem ai là kẻ có được lý lịch ba đời trong sạch hơn để được phong hàm GS. Tước-vị GS TS đã không giúp được cho những người “trí thức xhcn” như ông Nguyễn Đức Dân tránh được trở thành trò cười của chúng tôi khi còn là học sinh những năm đầu tiểu học…
Trí thức của xã hội đã như vậy. Thế còn đồng bào của chúng tôi hiện nay đang ở mức độ hiểu biết ra sao về tiếng Mẹ đẻ của chúng ta? Đoạn văn bên trên, tôi đã viết rằng đem những ông GS TS ra làm trò cười khi mình còn bé. Mỉa mai thay, vì thực tế khi những dòng chữ đang tuôn ra giữa đêm khuya, cũng là lúc chúng tôi phải cúi xuống lau vội bàn phím. Vì chợt nhận ra vị mặn của những giọt nước mắt đang thấm trên môi cười ngạo nghễ…
Nhìn thấy những sai lầm trầm trọng của “GSTS về ngôn ngữ học” Nguyễn Đức Dân trong lĩnh vực chuyên môn của ông, chúng tôi trách bản thân ông ta thì ít. Mà thương hại cho những người như ông Dân cũng như nghĩ đến đồng bào của mình hiện đang sống trong nước, càng nhiều hơn…
Nguyên nhân đáng trách vẫn là do chế độ cs bao năm qua đã dùng mán rừng để quản lý hệ thống văn hóa và giáo dục. Thời gian trôi ở trong nước, hàng vốc những GSTS được đào tạo với khả năng chuyên môn như ông Dân. Với mớ kiến thức giả tạo, sai lạc, dật dờ, khật khùng, và ngớ ngẩn… như thế; tránh sao bài viết không có lỗi lầm vừa xảy ra trong khả năng nhận xét, vừa đến từ lỗ hổng của kiến thức góp nhặt bởi những thiếu sót hạn hẹp? Rồi từ đó, thế hệ của các “thiên tai của ngôn ngữ” như ông Dân lại tiếp tục đào tạo ra thành những thế hệ “tai ương trong Quốc ngữ” theo sau…
Đời còn có gì buồn hơn?
Nếu lề lối thi cử để vào được trường công lập tại Saigon trước năm 1975 có khắc nghiệt. Thì nó đã đào tạo ra được những đứa học sinh lớp Sáu (Đệ Thất) trung học có khả năng viết chính tả còn đúng hơn cả ông GSTS trong “thiên đường xhcn”.
Điều này không chỉ là tai họa cho đồng bào Việt Nam hiện ở trong nước. Nó còn là những nọc độc tiêm nhiễm vào cả giới trẻ sinh ra và lớn lên tại hải ngoại. Nó cũng len lỏi vào một số (ít-nhiều, xin tùy độc giả đánh giá!) những người đang tự nhận là trí thức và giới cầm bút người Việt mang kiếp tha hương. Họ đã từng gạt lệ ly hương để đi tìm tự do. Nhưng một số nào đó, vẫn cam chịu nô lệ về mặt tư tưởng vì chưa biết được thế nào là việc sử dụng suy nghĩ của mình một cách độc lập!
Ôi, bước thăng trầm trong chữ nghĩa của tiếng Việt ngày nay. Chẳng phải là “Đoạn trường thương tâm” hay chăng???…
Tiếng nước tôi ! Bốn ngàn năm ròng rã buồn vui
Khóc cười theo mệnh nước nổi trôi, nước ơi
Tiếng nước tôi ! Tiếng mẹ sinh từ lúc nằm nôi
Thoắt nghìn năm thành tiếng lòng tôi, nước ơi
(Tình Ca – Phạm Duy)
Chân Phương
Falls Church, VA.
12/12/12