Tôi đơn giản chỉ là người lính tầm thường, nhưng thủy chung sống với cái “motto” ở quân trường: TỔ QUỐC – DANH DỰ – TRÁCH NHIỆM. Khi quốc gia bị nạn ngoại xâm thì cầm súng chống giặc để gìn giữ biên cương và bảo vệ nền độc lập; khi giã từ quân ngũ thì sử dụng ngòi bút làm vũ khí để chống lại sự bất công và bênh vực kẻ bị đàn áp. Tôi cương quyết theo đuổi con đường đó cho tới hơi thở cuối cùng, bất chấp hệ lụy, vì nghĩ rằng đó là nghĩa vụ làm người. (Xin cảm ơn nhà phát minh Internet và chủ các trang mạng đã giúp cho tiếng nói của tôi được dịp đóng góp với đồng bào quốc nội trong cuộc đấu tranh vì quyền con người). Bắc Việt du nhập vào đất nước một chủ nghĩa phi nhân và đi xin vũ khí của ngoại bang để thôn tính Miền Nam dưới chiêu bài thống nhất, nên chúng tôi cần có sự trợ giúp phương tiện của nước khác để kháng cự, chứ không phải là lính đánh thuê! Giả thiết rằng Miền Nam chiến thắng Miền Bắc mà thi hành chính sách trả thù người thua trận thì tôi cũng chống!
Dù ở phía thua trận, nhưng tôi vững tin Miền Nam chưa thua cuộc, bởi vì Miền Nam có chính nghĩa. Mà chính nghĩa thì bao giờ cũng thắng! Vấn đề là thời gian. Nói tóm lại, năm 1975, cộng sản thắng những trận đánh, nhưng thua cuộc chiến tranh (They won the battles, but they lost the war). Như Tôn Tử nói: “Hạ được thành, đoạt được đất, nhưng không chiếm được lòng người là thất bại”. Đúng thế! Miền Bắc không giải phóng Miền Nam như họ rêu rao. Họ thống trị Miền Nam còn ác hơn Thực dân xâm lược. Bộ mặt xảo trá của cộng sản không còn đánh lừa được ai. Cho nên nhạc sĩ Nhật Ngân, bạn học của Lê Hiếu Đằng, đã sáng tác bài nhạc có tựa đề “Anh giải phóng tôi hay tôi giải phóng anh?” (Bài hát này do ca sĩ Ngọc Minh thường hát khi mới đặt chân đến bến bờ tự do). Ngay cả Bộ trưởng Trương Như Tảng trong cái gọi là Chính phủ Lâm thời Miền Nam cũng vượt biên tìm tự do là dấu hiệu mở đầu Miền Nam đang thắng cuộc. Do đó, tôi đề nghị nhà báo Huy Đức trong lần tái bản tác phẩm của ông nên đổi lại là “Bên Thắng Trận”, chứ không phải là “Bên Thắng Cuộc”.
Vừa rồi, tôi viết bài “Căn bệnh khủng hoảng trí tuệ” là ý nói đến những nhà trí thức có bằng cấp to, địa vị lớn, nhưng lùn về trí tuệ vì vô tình hay hữu ý đứng về phía đảng tội ác, khiến cho xứ sở lâm vào cảnh điêu đứng như ngày hôm nay. Tôi tuyệt nhiên không xúc phạm người bị khuyết tật chậm trí khôn bẩm sinh, “down syndrome symptoms”. Người có giáo dục và có lòng nhân không bao giờ lấy sự khuyết tật của người khác làm đề tài chế giễu. “Lé, lùn, thọt” là ngoại hình, không phải là cái xấu. Cái xấu là sự bất lương, gian xảo, lưu manh và vô nhân cách!
Trí thức được đánh giá là người thông tuệ nhìn xa trông rộng, lương thiện, có nhân cách. Họ là bộ óc của đất nước nhằm vạch ra con đường đưa dân tộc thoát ra khỏi sự ngu dốt, nghèo đói để tiến đến nền văn minh, có văn hoá và nhân bản. Ai nấy đều kính trọng người trí thức như bậc thầy, vì họ là tài nguyên quý báu bậc nhất quốc gia. Do thanh danh cao cả đó, người trí thức dù muốn cũng không dám làm giàu bất chính, nghèo nhưng không hèn và không bị bạo lực khuất phục. Người trí thức không uốn mình trước cường quyền để hưởng lợi cá nhân.
Thông qua lịch sử, chúng ta thấy rõ Hồ Chí Minh chọn con đường cộng sản không nhằm mục đích giải phóng dân tộc, mà vì bộ máy cai trị cộng sản phù hợp với bản chất của ông ta: tàn ác, man rợ, gian trá, lừa đảo giống như các lãnh tụ Staline, Mao Trạch Đông mà ông tôn thờ. Lãnh tụ cộng sản còn khủng khiếp hơn bạo chúa thời phong kiến: Muốn đày đọa ai là đày đọa; muốn cưỡng dâm ai là cưỡng dâm, muốn giết ai là giết, muốn xa hoa đến thế nào thì đều có kẻ xu nịnh phục vụ. Chúng chỉ cần chụp cái mũ phản động, âm mưu lật đổ “Nhà Nước Cách Mạng” lên đầu kẻ nào phản kháng, chống đối là xong!
Không ai có thể phủ nhận lòng yêu nước của các nhà trí thức đã lên đường kháng chiến chống Thực dân Pháp vào năm 1945. Nhưng khi cái tổ chức mình dấn thân tham gia đề ra chủ trương “trí, phú, địa, hào, đào tận gốc trốc tận rễ” mà vẫn nhắm mắt phục vụ thì người ta phải nghi ngờ khả năng nhận thức của họ. Vì có học, họ không dốt, nhưng họ ngu vì đồng lõa với CÁI ÁC.
Ông bà ta đã dạy: “Bần cùng sinh đạo tặc”, “Đói thì đầu gối phải bò”, “Dân giàu thì nước mạnh”. Hồ Chí Minh chủ trương bần cùng hóa nhân dân thì không thể làm cho nước mạnh, mà chỉ làm cho người dân vì bản năng sinh tồn phải trở thành đạo tặc và mất nhân cách (vì phải bò). Cái Đảng chủ trương bao cấp, tức phân phát miếng ăn cho dân, là biện pháp dùng bao tử kiểm soát tư tưởng thì nhân dân chỉ là một đàn súc vật ngoan ngoãn. Đâu cần phải là người học rộng, xuất thân từ các trường lớn ở ngoại quốc mới thấy con đường “Xã hội chủ nghĩa” kiểu Hồ Chí Minh là tội ác chống dân tộc? Nhóm nhà văn trong phong trào Nhân Văn Giai Phẩm như cụ Phan Khôi là một trong những người thấy trước Việt Nam sẽ đi vào vòng nô lệ nước Tầu. Khi cụ Phan Khôi viết “chè Tàu”, “thịt kho Tàu” đều bị cấp trên phê bình và bảo phải sửa là “chè Trung Quốc”, “thịt kho Trung Quốc”. Đến khi cụ dịch “pomme de terre” là “khoai nhạc ngựa” thì bị đảng chê cụ già nua lẩm cẩm, tại sao không dịch là “khoai Tây”. Cụ giải thích: Bởi vì người Tàu dịch khoai tây là “mã linh thư” (tức là nhạc ngựa). Điều đó chứng tỏ lãnh đạo Miền Bắc buộc người dân không được phép xúc phạm Trung quốc, tức là đã sợ Tàu từ dạo đó chứ không phải bọn lãnh đạo ngày nay vì tha hóa mà trở nên “hèn với giặc, ác với dân”. Tinh thần nô lệ đến cỡ đó thì sao nước không mất được?
Tôi tin rằng bất cứ học sinh, sinh viên nào ở Miền Nam đã đọc cuốn “Trăm Hoa …” của cụ Hoàng văn Chí thì không thể nào đi theo cộng sản được. Bởi vì người đọc sẽ thấy sự tồi bại, nịnh hót, tàn ác của cái bọn gọi là lãnh đạo văn hóa. Ví dụ như Tố Hữu và Xuân Diệu:
Hoan hô Hồ Chí Minh
Cây hải đăng vô sản
Bão táp chẳng rung rinh
Lửa trường kỳ cách mạng
Hoan hô Sít-ta-lin
Đời đời cây đại thọ
Rợp bóng mát hoà bình.
Hoặc là:
Chúng ta có Bác Hồ
Thế giới: Sít-ta-lin
Đảng ta phải mạnh to
Thế giới phải đỏ mình.
Ở một chỗ khác, thi sĩ khát máu hô:
Giết, giết nữa, bàn tay không phút nghỉ
Cho ruộng đồng lúa tốt, thuế mau xong,
Cho Đảng bền lâu, cùng rập bước chung lòng
Thờ Mao Chủ tịch, thờ Sít-ta-lin… bất diệt!
Đó là thơ của Tố Hữu, người nịnh bợ ngoại bang số 1; còn sau đây là thơ của Xuân Diệu:
Mỗi lần đấu tranh gay go
Chúng con lại được Bác Hồ tới thăm,
Nghe lời Bác dạy khuyên răn,
Chúng con ước muốn theo chân của Người…
Chúng con thề nguyện một lời:
Quyết tâm thành khẩn… lột người từ đây.
Đó là thơ Xuân Diệu nịnh Bác; còn sau đây là lời Xuân Diệu nạt nhân dân. Ta hãy nghe lời hò hét:
Anh em ơi! Quyết chung lưng
Đấu tranh tiêu diệt tàn hung tử thù
Địa hào, đối lập ra tro,
Lưng chừng phản động đến giờ tan xương.
Thắp đuốc cho sáng khắp đường,
Thắp đuốc cho sáng đình làng đêm nay.
Lôi cổ bọn nó ra đây
Bắt quỳ gục xuống, đọa đày chết thôi…
Dưới thời Thực dân Pháp, Xuân Diệu đã làm những bài thơ trữ tình rất người, được độc giả yêu chuộng. Chỉ vì sống dưới chế độ cộng sản thì Xuân Diệu trở thành một kẻ nịnh hót vô nhân cách. Nhân đây, tôi xin kể một mẩu chuyện nhỏ về Xuân Diệu: “Sau 30 tháng 4 năm 1975, Xuân Diệu vào Nam gặp gỡ một số văn nghệ sĩ Miền Nam bị kẹt lại. Thi sĩ P.N. (bạn tôi yêu cầu dấu tên) thấy Xuân Diệu mỗi lần “độc tấu” thơ của Hồ Chí Minh đều rút khăn tay trong túi ra lau nước mắt, P.N. hỏi: “Tại sao anh cứ phải khóc như thế?”. Xuân Diệu đáp: “Tôi phải giả bộ khóc như thế thì sau khi trình diễn xong, Đảng mới phát cho lạng thịt bò!”. Còn nhà văn Nguyễn Tuân, một con người khinh bạc mà phải thú nhận với bạn bè một câu rất thảm hại: “Tao sống được đến ngày hôm nay là nhờ tao biết … sợ!” Nếu Xuân Diệu, Nguyễn Tuân di cư vào Miền Nam năm 1954 thì đâu đến nỗi mất nhân cách và sắt máu như thế? Trái lại họ sẽ được trọng vọng nữa là đàng khác! Nếu nhạc sĩ Phạm Duy cứ ở mãi với Việt Minh, không tìm đường về với tự do thì làm sao có một sự nghiệp sáng tác đồ sộ? Câu hỏi đặt ra: “Ai đã làm những trí thức tầm cỡ như những nhà văn tên tuổi một thời trở nên mất nhân cách, nếu không phải là chế độ chuyên chính vô sản do Hồ Chí Minh và tập đoàn thống trị?
Thạc sĩ Hoàng Xuân Nhị, một nhà nghiên cứu chủ nghĩa Mác-Lê, học ở ngoại quốc về không tranh luận nổi với học trò mình, sinh viên Bùi Quang Đoài, thì nhờ Đảng “cất” đi người học trò bất hạnh đó ở một nơi bí mật (thủ tiêu?), không ai biết số phận nạn nhân ra sao, còn sống hay đã chết? Nếu cộng sản vỗ ngực khoe chủ nghĩa Marx-Lénine là vô địch thì thừa lý lẽ để tranh luận, đối thoại; chứ sao khi bị đuối lý thì chụp cho người ta cái mũ “phản động”?
Hồ Chí Minh và tập đoàn cai trị dùng sự khủng bố, gieo rắc sự sợ hãi khiến cho nhân dân cả nước bị mất nhân cách vì phải im lặng trước sự bất công, sai trái. Cuối cùng, chính Hồ Chí Minh cũng trở thành người mất nhân cách! Nếu ai đã từng đọc tác phẩm “Viết cho Mẹ và Quốc hội” của Nguyễn văn Trấn thì sẽ biết bọn chuyên quyền Lê Duẩn, Lê Đức Thọ khống chế “Bác” mà “Bác” phải ngồi im, không dám bênh vực đàn em bị kết tội oan. Bởi vì suốt một đời hoạt động của nhà “Kách mệnh” chuyên môn làm những điều khuất tất, mờ ám nên bị đàn em nắm con bài tẩy. Do đó, “Bác” rất sợ đàn em tiết lộ thâm cung bí sử thì danh giá vị “Cha Già Dân Tộc” mà “Bác” vô cùng mơ ước sẽ trở thành bãi phân.
Ông Nguyễn Trọng Vĩnh viết bài “Từ Đảng Cộng sản ban đầu đến Đảng Cộng sản hiện nay” đăng trên trang mạng Boxitevn như sau:
“Nếu không có sự lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam, của Chủ tịch Hồ Chí Minh và lòng tin của nhân dân thì làm gì có trận thắng Điện Biên Phủ “Lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” giải phóng nửa nước? Tuy có sai lầm trong cải cách ruộng đất, Tổng bí thư Trường Chinh từ chức, Bác Hồ xin lỗi dân, và sửa sai, dân lại tín nhiệm Đảng và theo Đảng.
Nếu không có sự lãnh đạo của Đảng Lao động ViệtNam và Bác Hồ được dân tin thì sao có thể đánh thắng đế quốc Mỹ hiện đại, giàu mạnh hơn ta gấp nhiều lần, thực hiện được hoàn toàn độc lập thống nhất. Uy tín của Việt Nam rất cao, được thế giới khâm phục”.
Vì trọng người cao tuổi, tôi đã viết cho Tướng Vĩnh một bức thư với lời lẽ nhã nhặn, lịch sự để chứng minh bằng sự kiện lịch sử cho ông thấy rằng Hồ Chí Minh là kẻ có tội đối với dân tộc Việt Nam, là người biến một nửa nước thành nhà tù và tệ hại hơn nữa ông Hồ là kẻ bán nước. Ông Vĩnh chê bọn cầm quyền hiện nay tham nhũng, nhưng ông quên rằng dưới thời Hồ Chí Minh, nhà thơ Phùng Quán chỉ làm bài thơ “Chống tham ô lãng phí” và bài “Lời Mẹ dặn” đề cao Sự Thật thì bị đày đọa mút chỉ. Hữu Loan cũng mô tả bộ máy cai trị ở Miền Bắc bằng mấy câu thơ:
“Một điều đau xót
Trong chế độ chúng ta
Trong chế độ “Dân chủ Cộng hoà”
Những thằng nịnh hót còn thênh thang đất sống…”
Thế mà ông Vĩnh dám viết: “Thực tế trên đây là giai đoạn hào hùng của dân tộc Việt Nam cũng là giai đoạn quang vinh của Đảng cộng sản Việt Nam (Đảng Lao động ViệtNam)”. Nhân cách của một ông Tướng, một ông Đại sứ để đâu mà tâng bốc Đảng một cách dối trá như vậy?
Tưởng rằng sau bức thư tôi viết cho ông (tôi nhờ ông Nguyễn Huệ Chi chuyển bằng email thì không thể thất lạc được), Tướng Vĩnh sẽ thức tỉnh để nhìn lại bản thân, không ngờ mỗi một bài viết của ông sau đó càng gia tăng cường độ sùng bái Hồ Chí Minh. Tôi nghĩ rằng ông Vĩnh cũng chỉ là người nịnh bợ Hồ Chí Minh một cách vô liêm sỉ như bọn Tố Hữu, Xuân Diệu nên được Hồ Chí Minh móc cho cái lon tướng, cho làm Đại Sứ; chứ chẳng phải loại người yêu nước thương nòi khi lên án bọn cầm quyền sau năm 1975 biến chất, tha hóa. Mang danh nghĩa là nhà “cách mạng lão thành”, nhưng kỳ thực ông Vĩnh chỉ là Ông Bình Vôi như cụ Phan Khôi ám chỉ Hồ Chí Minh:
“Những kiếp người đã sống lâu trăm tuổi
Y như một cái bình vôi
Càng sống càng tồi
Càng sống càng bé lại”
Nên nhớ sau Đại hội 20 của Đảng Cộng Sản Liên Xô ngày 20 tháng 2 năm 1956. Khrushchev đọc bài diễn văn hạ bệ Staline, Mikoyan được cử làm sứ giả sang Việt Nam chỉ thị cho Hồ Chí Minh thi hành “tân chính sách”, hãy ngưng chiến dịch “cải cách ruộng đất”, nhưng Hồ Chí Minh vẫn tiếp tục tiến hành cho đến cuối năm 1956 thì mới dùng những giọt nước mắt cá sấu để xin lỗi quốc dân và hứa hẹn sửa sai. Lòng dân oán thán chưa yên thì Hồ Chí Minh đưa ra phong trào “Trăm hoa đua nở” rập khuôn theo Trung Cộng nhằm dò xét loại trí thức nào chống Đảng để hốt trọn gói (chữ của cộng sản). Thử hỏi lấy thước đo gì để ông Vĩnh bảo rằng dân tín nhiệm Đảng, lại tin yêu Đảng mà chưa hề có một cuộc trưng cầu dân ý một cách công khai, minh bạch?
Sang đến ông Lê Hiếu Đằng vì bệnh thập tử nhất sinh mới viết một bài tính sổ đời mình có vẻ chân tình, yêu nước, nhưng rồi cũng có câu: “Đảng Cộng sản Việt Nam HIỆN NAY đã KHÔNG CÒN là đảng cách mạng như trước đây nữa”, làm như thể cái đảng cộng sản mà ông tham gia trước đây không phải là ĐẢNG CƯỚP! Cái đảng nhân danh “giải phóng”, vơ vét tất cả nhân lực, tài lực, vật lực làm nghèo cả Miền Bắc để xâm lăng Miền Nam, rồi cướp sạch sành sanh tài sản Miền Nam mà dám bảo là ĐẢNG CÁCH MẠNG à? Những ông cộng sản từ già tới trẻ đều có chung một sách giống nhau. Mặc dầu đã phản tỉnh, nhưng còn khoe cái hào quang dĩ vãng (nhơ nhớp) mà bị phê bình, thì lập tức quy cho người ta là Chống Cộng Cực Đoan! Giá như còn tại chức, tại quyền thì họ không tiếc gì chữ Phản Động, chống phá Nhà Nước Cách Mạng hoặc âm mưu lật đổ chính quyền!
Năm 2011, anh Mai Thái Lĩnh – một trong những nhà trí thức từ Đà Lạt – viết cho tôi một email đại ý như sau: “Tôi biết anh Hà Sĩ Phu và anh rất thân nhau, nhưng tại sao khi anh Hà Sĩ Phu khen người nào thì anh lại chống người đó?” Sự thể là như thế này: Anh Hà Sĩ Phu khen anh trí thức (!) Miền Nam Lê Hiếu Đằng theo cộng sản nay đã có can đảm ký tên trong bản kiến nghị xin nhà cầm quyền ngưng cho Tàu khai thác bô-xít ở Tây Nguyên, thì tôi chê Lê Hiếu Đằng dám “dũng cảm” chống chính quyền Miền Nam dù bị Tòa Án Mặt Trận Vùng III Chiến Thuật kêu án tử hình khiếm diện; nhưng nay chỉ khép nép ngồi nhà ký tên vào bản kiến nghị mà thôi. Tôi trả lời anh Mai Thái Lĩnh như sau: “Anh Hà Sĩ Phu với tôi tuy hai mà một, tư duy về con đường dân chủ hóa cho đất nước chẳng có gì khác nhau cả. Chẳng qua hai anh em tôi ở vào cái vị thế khác nhau mà thôi. Anh Hà Sĩ Phu giống như người cha nhân từ thấy một đứa con hoang đàng trở về nhà thì vỗ về để khuyến khích đứa khác cũng tìm đường trở về. Còn tôi là người cha nghiêm khắc thấy đứa con trở về thì ra điều kiện phải bỏ thói nghiện cần sa, mê cờ bạc mới được trở về, nghĩa là dứt khoát, vì ngôi nhà này không là nơi tạm thời cho kẻ trú mưa tránh nắng”. Ý tôi muốn nói với anh Mai Thái Lĩnh rằng người cộng sản lầm đường khi thức tỉnh phải có một lời xin lỗi dân tộc Việt Nam.
Tại sao ư? Vì dù nhiều dù ít gì thì người sinh sống ở Miền Nam được ăn hạt gạo của Miền Nam, được hít thở không khí tự do ở Miền Nam mà chạy theo cộng sản, làm nội tuyến cho cộng sản để giật sập một chế độ có nền dân chủ phôi thai đều có tội cả. Anh Hà Sĩ Phu không ở vào hoàn cảnh như anh em binh sĩ ở Miền Nam, những người lính trở về từ chiến trường, chỉ mong có được giây phút an bình để nghỉ ngơi rồi tiếp tục ra trận để cận kề cái chết. Trong khi những phần tử được tự do ăn học lại làm tay sai cho cộng sản phá nát hậu phương thì chúng tôi dù thiện chiến tới đâu cũng thể đánh thắng quân thù được! Họ đấu tranh đòi chấm dứt chiến tranh mà không bao giờ họ lên án quân xâm lược từ Miền Bắc thì đủ chứng tỏ họ là những kẻ gian lận, vô nhân cách, chứ chẳng phải vì yêu chuộng hòa bình gì cả.
Những người cộng sản phản tỉnh như ông Vĩnh, ông Đằng cũng như phần lớn những người cộng sản phản tỉnh khác đều chê những người cộng sản đang cầm quyền tha hóa, hèn với giặc ác với dân, chứ không nghĩ rằng bọn cầm quyền này là con đẻ, là sản phẩm của cái bộ máy cai trị do Hồ Chí Minh lập nên. Nếu những người cộng sản mệnh danh là “phản tỉnh” đang còn ở địa vị cầm quyền thì họ cũng hèn với giặc, ác với dân thôi. Đó là thực tế! Chẳng qua họ không có cái dũng của người trí thức như nhạc sĩ Tô Hải, tác giả Hồi Ký của một Thằng Hèn. Họ là trí thức giả mạo, vì không dám thú tội!
Đọc các bài viết của ông Vĩnh, ông Đằng, độc giả đều thấy trình độ nhận thức và lý luận của họ vừa thấp kém vừa quanh co trước sau bất nhất. Khi bị độc giả phê bình thì bảo rằng đó là những phần tử Chống Cộng Cực Đoan. Mục đích duy nhất của họ là bào chữa cho cái quá khứ u mê chẳng biết chủ nghĩa xã hội là gì, nhưng vẫn làm quan to trong cái Nhà Nước Xã Hội Chủ Nghĩa giống như các ông bà tai to mặt lớn trong buổi hội thảo do Phó Thủ tướng Trần Phương chủ trì trước ngày Đại hội Đảng.
Người nào còn quan tâm đến Đất Nước đều mang một nỗi buồn như tôi: Cả nước bị Hồ Chí Minh đánh lừa để đảng cộng sản lên ngôi thống trị; rồi cả nước đều phải sống trong sự sợ hãi đành không dám nói lên ý nghĩ thật của mình, tức là phải nói dối để tồn tại. Một dân tộc bị rơi vào cuộc khủng hoảng nhân cách thì chỉ còn con đường đi làm đầy tớ mà thôi! May thay Trời Phật đã phái xuống trần gian những nam nữ anh hùng hào kiệt mà tiêu biểu là Nguyễn Phương Uyên. Hôm kia có người bạn hỏi tôi tại sao không viết một bài ca ngợi sự dũng cảm của Phương Uyên, tôi đáp: “Tôi không đủ ngôn ngữ để ca ngợi một nhân vật có nhân cách vĩ đại như Phương Uyên. Tôi chỉ biết chấp tay, quỳ xuống bái phục nàng, vì tôi hình dung nàng là một vị Thiên Sứ xuống trần thế để báo hiệu ngày cáo chung của Đảng Cộng Sản trên đất nước Việt Nam”. Bạn hỏi tại sao tôi nghĩ thế, tôi đáp: “Bởi vì muốn lật đổ một bạo quyền có một tập đoàn lãnh đạo đã mất hết khả năng biết xấu hổ (tức là không có nhân cách) thì những nhà tranh đấu cần phải có một nhân cách lớn mới được. Nghĩa là mỗi công dân trong nước phải ý thức rằng Con Người sinh ra là có quyền Tự Do; chứ không chấp nhận mình bị đối xử như con vật”. Động cơ đấu tranh là giành lại phẩm giá của mình; chứ không phải hận thù giai cấp như cộng sản. Thật vậy, câu trả lời ngắn ngủi của Phương Uyên trước mặt quan tòa ở Long An sẽ đi vào lịch sử nhân loại giống như Mục sư Martin Luther King thét lên trước quần chúng: I Have A Dream!
Tôi vẫn khẳng định rằng kẻ nào hô hào đấu tranh cho tự do dân chủ, cho đa nguyên đa đảng thì không nên luôn mồm xưng tụng Hồ Chí Minh, vì Hồ Chí Minh đã đánh lừa cả dân tộc, là một kẻ phá hoại đạo đức truyền thống của tổ tiên, là kẻ bán nước cho kẻ thù truyền kiếp phương Bắc.
Đoàn kết là cần thiết để có sức mạnh là tất yếu, nhưng không thể đoàn kết với những người như ông Nguyễn Trọng Vĩnh mà trong lòng còn tơ tưởng đến Hồ Chí Minh, một tội đồ khủng khiếp!
Bằng Phong Đặng Văn Âu