Trong những ngày tới đây, người ta e ngại rằng kinh tế Hoa Kỳ chưa phục hoạt, kinh tế Âu Châu có thể bị suy trầm và viễn ảnh gọi là đụng đáy lần thứ hai có thể lại xảy ra ở hai bờ Đại Tây Dương hai năm sau khi thế giới bị tổng suy trầm.
Cuộc họp thường niên về kinh tế thế giới năm 2011. AFP photo
Đồng thời, kinh tế Nhật Bản và Trung Quốc cũng có nhiều mối nguy tiềm ẩn ở bên trong: Nhật chưa ra khỏi nạn suy thoái sau khi bong bóng đầu tư bị vỡ hai chục năm trước và Trung Quốc có thể bị vỡ bóng đầu tư trong một vài năm tới. Sau khi các nước tân hưng bùng lên rất mạnh, từ nhiều năm nay, người ta nói đến ngã rẽ của hai khối kinh tế đã phát triển” và “đang phát triển” mà thực tế có khi lại không như vậy và số phận kinh tế của các nước thật ra vẫn giàng vào nhau trong một thế liên lập. Diễn đàn Kinh tế kỳ này sẽ tìm hiểu về hiện tượng đó qua phần trao đổi cùng nhà tư vấn kinh tế Nguyễn Xuân Nghĩa do Vũ Hoàng thực hiện sau đây.
Thế giới liên lập
Vũ Hoàng: Xin kính chào ông Nguyễn Xuân Nghĩa. Thưa ông, khi theo dõi tin tức kinh tế toàn cầu, quả là chúng ta chạy theo ánh mặt trời nhưng bằng phương tiện thông tin điện tử xuất hiện gần như tức thời. Mở đầu cho một ngày mới là tin tức thị trường Á Châu, trước tiên từ bên Úc. Sau đấy là các thị trường Âu Châu, mở cửa đầu tiên tại London, và sáu bảy tiếng sau thì đến thị trường Hoa Kỳ, trước tiên tại New York. Rồi khi New York bước vào buổi tối thì lại đến phiên Á Châu mở hàng, nhiều khi thị trường cổ phiếu nơi này bị chấn động vì tin tức của đêm hôm trước ở Bắc Mỹ hay Âu Châu và lại gây hiệu ứng cho các khối kinh tế kia. Vì vậy, nhiều khi mình khó phân biệt được cái gì là nhân và cái gì là quả, biến cố nào là nguyên do và hậu quả của nó là gì với thế giới còn lại trong một chu kỳ liên tục xoay tròn. Ông có cảm nghĩ như vậy không?
Nguyễn Xuân Nghĩa: Thưa rằng rất đúng như vậy và đấy là một điều rất khó cho truyền thông về kinh tế khi theo dõi và tường thuật hoặc diễn giải về những chuyển động trên các thị trường thế giới. Rất nhiều khi cái nhân tại Âu Châu, thí dụ như vụ khủng hoảng sắp tới của khối Euro và số phận rất bấp bênh của các ngân hàng Âu Châu, sẽ là cái quả cho một vụ sụt giá cổ phiếu tại Hoa Kỳ khi dân Âu Châu đóng của đi ngủ! Rồi bất ổn tại Mỹ lại khiến thị trường chứng khoán Á Châu rơi rụng vào ngày hôm sau.
Tìm ra tương quan nhân quả liên tục ấy đã là một điều khó. Nhưng nếu cố nhìn xa hơn những biến động nhất thời để thấy ra – tôi xin lấy một thí dụ dễ cảm nhận – cả một con nước lớn bên dưới những làn sóng nhỏ, thì mình có hy vọng hiểu được những chuyển động lớn và hậu quả lâu dài của chúng. Đấy là phần vụ của việc phân tích, nó có khác với việc tường thuật những gì vừa xảy ra trong ngày. Và chương trình chuyên đề của chúng ta cố gắng hoàn thành nhiệm vụ phân tích ấy để bổ sung cho những tin tức cập nhật mỗi ngày mỗi giờ.
Bảng điện tại Times Square, New York thông báo “Standard & Poor’s hạ điểm tín dụng Hoa Kỳ từ AAA đến AA +” vào ngày 5 tháng 8 năm 2011. AFP
Vũ Hoàng: Từ hoàn cảnh ấy, xin hỏi ông một câu mà chúng tôi nghĩ rằng sẽ là chủ điểm của chương trình kỳ này. Sau vụ Tổng suy trầm vào các năm 2008-2009, người ta nói đến một thế giới phát triển theo hai tốc độ: tốc độ rất chậm của các nước công nghiệp hoá và tốc độ cao hơn của các nước đang phát triển, đứng đầu là các nước mà ông gọi là “tân hưng”. Thế rồi, hai năm sau đó, là ngày nay đây, thì hình như tình hình lại không như vậy. Những lao đao chật vật của các nước công nghiệp hóa như Hoa Kỳ, Nhật Bản và Âu Châu, vẫn có thể ảnh hưởng đến các nước tân hưng và thậm chí còn kéo kinh tế toàn cầu vào một nạn suy trầm kép. Câu hỏi nêu ra là có phải rằng chúng ta đang ở trong một thế giới liên lập chứ không hoàn toàn độc lập, và số phận của các nền kinh tế vẫn còn giàng vào nhau hay không?
Nguyễn Xuân Nghĩa: Quả thật là thế giới của chúng ta ở trong thế liên lập và hiện tượng toàn cầu hóa về tư bản và tài chính bắt đầu từ hai chục năm trước đã giàng số phận của các nước vào với nhau. Và cuộc cách mạng về thông tin còn tác động rất nhanh vào quan hệ tương hằng đó.
Trước khi xảy ra vụ Tổng suy trầm 2008-2009, người ta đã nói đến hiện tượng gọi là “tách rời” hay “decoupling” của các nền kinh tế tân hưng, như Trung Quốc, Đông Á, Ấn Độ hay Brazil khiến các nước này vẫn bung lên rất mạnh dù cho các đầu máy kinh tế Âu-Mỹ-Nhật có thể bị đình trệ. Sự thật lại không như vậy. Sau vụ Tổng suy trầm đó, người ta cũng tin rằng các nước tân hưng sẽ thoát khỏi nạn trì trệ của ba đầu máy kinh tế kia mà rốt cuộc thì vẫn bị ảnh hưởng.
Trên diễn đàn này, chúng ta đã nhiều lần nói đến kinh tế Trung Quốc và hậu quả tai hại của việc xuất khẩu giảm sút. Trường hợp Việt Nam cũng thế và hai bộ phận mà tôi xin được gọi là “chuyển lực” vẫn tác động vào sinh hoạt kinh tế trong cái thế tương hằng. Đó là ngoại thương tức là trao đổi hàng hoá, và tư bản là chuyển dịch về tài chính hay ngoại hối. Đấy cũng là lý do khiến cho biến động nơi này trở thành tai họa cho nơi khác trong một địa cầu hình tròn!
Nguy cơ khủng hoảng đồng Euro
Vũ Hoàng: Xin cám ơn ông về cách trình bày này. Bây giờ, chúng ta mới đi vào câu chuyện. Ông nói đến hai bộ phận gọi là chuyển lực đó khiến việc đầu tư hay buôn bán nơi này có thể vẫn ảnh hưởng đến nơi khác và giàng chung các nền kinh tế với nhau. Chuyện ấy thể hiện thế nào?
Nguyễn Xuân Nghĩa: Ba nền kinh tế Âu-Mỹ-Nhật đã lên tới trình độ thịnh vượng từ lâu và trở thành ba đầu máy tiêu thụ cho các nền kinh tế khác qua ngả xuất khẩu. Thí dụ ai cũng hiểu là Việt Nam xuất khẩu các mặt hàng tiêu dùng chủ yếu vào Hoa Kỳ và Âu Châu. Khi ba khối kinh tế này bị trì trệ hoặc suy trầm thì sức tiêu thụ phải giảm, lượng hàng nhập khẩu cũng vậy và các nền kinh tế tân hưng đều bị ảnh hưởng vì bộ phận chuyển lực đầu tiên là ngoại thương. Càng lệ thuộc vào xuất khẩu mà không lo phát triển thị trường nội địa thì càng bị ảnh hưởng nặng.
Năm 2008, khi thấy nguy cơ suy trầm, các nền kinh tế tân hưng bèn ứng phó bằng cách gia tăng đầu tư, tăng chi hoặc bơm tín dụng để kích thích sản xuất và tiêu thụ. Việc nâng mức đầu tư ngay trong hiện tại là để gia tăng khả năng tiêu thụ sau vài ba năm. Nhưng đấy là khi bộ phận chuyển lực thứ hai tác động, nó chỉ tác động chậm hơn vài năm thôi. Chúng ta nhìn vào trường hợp Trung Quốc thì thấy rõ nhất hiện tượng này. Trung Quốc ào ạt bơm tiền đầu tư để kích thích sản xuất mà sau cùng chính quyền từ trung ương đến địa phương đều mắc nợ mà sức tiêu thụ của thị trường nội địa vẫn không tăng và xứ này vẫn phải trông cậy vào thị trường tiêu thụ Âu-Mỹ-Nhật. Bộ phận chuyển lực ở đây là tư bản, là tài chính.
Kết hợp hai chuyện hàng hóa và tiền bạc với nhau thì ta có hiện tượng thương phẩm lên giá, lạm phát và bong bóng đầu cơ vì nhà nước và các ngân hàng đầu tư quá nhiều vào phương tiện sản xuất mà xuất khẩu lại không tăng, tiêu thụ nội địa vẫn èo uột! Trung Quốc gặp hoàn cảnh lưỡng nan đó nên sẽ khó hạ cánh an toàn.
Vũ Hoàng: Chúng ta quay về chuyện Âu Châu là nơi mà tình hình kinh tế và tài chính lại có vẻ nguy ngập nhất. Hình như ông đã nhiều lần cảnh báo về nguy cơ khủng hoảng của đồng Euro. Liệu khối kinh tế này có triển vọng gì không, khi mà tuần trước, tân Tổng giám đốc Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF là bà Christine Lagarde đã cảnh báo rằng nền tài chính toàn cầu đang như đi trên lớp băng mỏng và có thể sụp bất cứ lúc nào. Tình hình có nguy ngập đến vậy không?
Nguyễn Xuân Nghĩa: Tôi thiển nghĩ rằng còn nguy ngập hơn vậy vì những ách tắc chính trị trong nội bộ các nước Âu Châu nên rất khó giải quyết vụ khủng hoảng của đồng Euro.
Nhiều trung tâm nghiên cứu kinh tế quốc tế đã báo động về một vụ khủng hoảng ngân hàng tại Âu Châu trong những ngày tới đây, có khi còn nghiêm trọng hơn vụ khủng hoảng tài chính tại Mỹ cách đây đúng ba năm. Kế tiếp mới là vụ khủng hoảng của đồng Euro khiến cho Hy Lạp rồi Tây Ban Nha hay Bồ Đào Nha có thể sẽ ra khỏi khổi Euro để trở lại đồng nội tệ của họ. Một kịch bản khác là nước Đức có thể bị khủng hoảng chính trị vì đảng cầm quyền bị đả kích là cứ phải gánh nợ cho các nước tiêu xài vô trách nhiệm nhờ đồng bạc thống nhất. Nếu tình trạng ấy mà xảy ra và xảy ra qua bộ phận chuyển lực là tư bản và tài chính, thế giới sẽ bị đại họa và trước mắt thì Việt Nam còn mất một nguồn xuất khẩu quan trọng cho nền kinh tế của mình.
Vũ Hoàng: Chúng ta trở lại chuyện Hoa Kỳ với nguy cơ bị đụng đáy hai lần như ông thường nói, trong khi lại bội chi quá nặng và mắc nợ quá nhiều nên mới bị hạ điểm tín dụng. Liệu Hoa Kỳ có kịp hồi phục và kéo các nước khác ra khỏi viễn ảnh đen tối đó không?
Nguyễn Xuân Nghĩa: Tôi sẽ rất thận trọng khi nói về kinh tế Hoa Kỳ vì có thể gây ấn tượng sai lạc là chúng ta thiên vị và thiếu khách quan khi đang sinh sống trên đất Mỹ!
Trước hết, xứ này là một thị trường tiêu thụ khổng lồ, nhưng chủ yếu là tiêu thụ hàng hóa của Mỹ! Số hàng hoá chế biến tại Hoa Kỳ chiếm 88,5% của tổng số tiêu thụ, chỉ có gần 12% là hàng nhập khẩu mà thôi. Vì vậy, Mỹ không bị hiệu ứng về ngoại thương như các xứ khác mà còn chi phối xứ khác nhờ sức tiêu thụ đó khi dân Mỹ trở thành tằn tiện hơn. Ta sẽ nói về chuyện này sau.
Thứ hai, và ta liên hệ đến trường hợp Trung Quốc và Á Châu nói chung. Nước Mỹ có một lãnh thổ trời cho là thuận tiện về canh tác hơn hẳn mọi quốc gia còn lại trên thế giới, đó là vùng châu thổ của năm sáu con sông lớn, lại đan kết với nhau. Xứ này còn đạt trình độ tổ chức sản xuất nông nghiệp quá cao nên một thiểu số lao động có thể nuôi được cả nước và còn dư ngũ cốc bán cho cả thế giới. Trong khi ấy, Trung Quốc thì chỉ vặt mũi bỏ mồm và đủ ăn là mừng!
Tôi có đọc thấy và sau khi kiểm chứng lại thì phải nói rõ là khối dự trữ ngoại tệ gọi là khổng lồ của Trung Quốc, vì lên đến hơn ba ngàn tỷ đô la, chỉ đủ mua sản lượng ngô bắp của Hoa Kỳ trong 12 năm là hết! Chưa nói gì đến các loại ngũ cốc hay lương thực khác mà nước Mỹ có thể sản xuất ồ ạt khi thấy có lời! Và lương thực mới là sản phẩm sinh tử cho sự ổn định và tồn tại.
Tuy nhiên, và đây là mặt trái của cả khung cảnh bất ổn hiện nay, Hoa Kỳ khó ra khỏi suy trầm trong vài năm tới, với thất nghiệp còn cao và dân chúng càng tằn tiện thì sản xuất càng khó tăng trưởng. Khi ấy, nghĩa là ngay lúc này đây, phản ứng của người dân lẫn các chính trị gia rất dễ đưa tới chế độ bảo hộ mậu dịch, nghĩa là tranh chấp nặng về quyền lợi ngoại thương.
Tình hình Việt Nam
Vũ Hoàng: Chúng ta đi vào phần cuối là tổng kết về tình trạng liên lập đó đối với Việt Nam. Việt Nam bị nhập siêu về ngoại thương và bất ổn về ngoại hối khiến chính quyền lúng túng và dân chúng thì hốt hoảng, điển hình là cơn sốt về vàng sau cơn sốt về đô la khiến các nhà nghiên cứu quốc tế đã liên tục cảnh báo và Việt Nam còn bị hạ điểm trái phiếu ở dưới cấp giấy lộn đến hai ba nấc, là B trừ. Trong điều kiện đó nếu kinh tế toàn cầu bị suy trầm kép và chiến tranh mậu dịch lại có nguy cơ bùng nổ thì tình hình sẽ ra sao?
Nguyễn Xuân Nghĩa: Tôi rất dè dặt khi nói về chuyện chính sách quản lý kinh tế quốc dân của Việt Nam vì có thể gây ấn tượng sai là chúng ta có ác ý. Thật ra, thế giới cũng đã nói nhiều về những chính sách thái quá và bất cập của Việt Nam nên mình khỏi cần nhắc lại! Tuy nhiên, từ gần 10 năm nay, diễn đàn này đã nói đến yêu cầu sinh tử là phát triển thị trường nội địa làm lực đẩy và vì vậy cần ưu tiên cải thiện hạ tầng cơ sở vận chuyển và luật lệ cho tư doanh kịp bung lên để thay thế dần thành phần kinh tế nhà nước. Chuyện ấy không xảy ra và doanh nghiệp nhà nước lại còn được tăng cường củng cố nên gây thêm lệch lạc trong chính sách kinh tế vĩ mô.
Bây giờ khi tình hình đang đi vào chỗ trũng, Việt Nam lại bị kẹt ở giữa, vì đạt xuất siêu với kinh tế Hoa Kỳ chừng nào thì lại bị nhập siêu với kinh tế Trung Quốc chừng đó. Bình quân thì mỗi tháng hơn một tỷ. Từ đã lâu, Hoa Kỳ có chủ đích nâng đỡ kinh tế Việt Nam thì nhiều người tại Việt Nam – từ cấp lãnh đạo tới các địa phương – lại dùng lợi thế ấy để thay cho Trung Quốc bán hàng Trung Quốc vào Mỹ! Đâm ra kinh tế Việt Nam lệ thuộc quá nhiều vào Trung Quốc và trong mâu thuẫn mậu dịch sắp tới xứ này sẽ dễ bị khủng hoảng nhất. Đấy là ta chưa nói đến chuyện tranh chấp chủ quyền ngoài Đông hải! Chẳng lẽ trong thế giới liên lập, Việt Nam lại tự cô lập và trôi vào trật tự của Trung Quốc?
Vũ Hoàng: Xin trân trọng cảm tạ ông Nghĩa về cuộc phỏng vấn này.