Việt Nam và Trung Quốc bình thường hóa quan hệ ngoại giao vào cuối năm 1991. Kể từ đó buôn bán giữa hai nước đã phát triển nhanh chóng. Trị giá tổng số hàng hóa xuất khẩu và nhập khẩu của Việt Nam đối với Trung Quốc tăng từ 692 triệu Mỹ kim vào năm 1995 đến 50.2 tỉ Mỹ kim vào năm 2013. Theo một dự đoán, trị giá hàng hóa trao đổi giữa hai nước có thể lên tới 60 tỉ Mỹ kim vào 2015. (1)
Việt Nam nhập khẩu từ Trung Quốc nhiều nguyên phụ liệu, thành phẩm hóa chất, và máy móc dùng cho việc sản xuất. Riêng về ngành dệt may, Việt Nam phải nhập khẩu khoảng 50-60% nguyên phụ liệu từ Trung Quốc như da làm giầy dép, vải và lụa để làm quần áo. Hàng hóa Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc bao gồm khoáng sản thô như than, quặng sắt. dầu thô, nông lâm sản, thủy sản và đồ thủ công. Khoảng 80% cao su, 40% gạo, 70% thanh long xuất khẩu của Việt Nam bán cho Trung Quốc.
Kinh tế Việt Nam lệ thuộc đáng kể vào Trung Quốc
Bức tranh mô tả cán cân thương mại giữa Việt Nam và Trung Quốc trên đây cho thấy sự phụ thuộc của Việt Nam vào nước láng giềng phương bắc quả thật là rất đáng e ngại. Nhưng phân tách sự kiện này một cách quy mô hơn, chúng ta thấy tình trạng này chưa đến nỗi vô vọng.
Thật vậy, theo Tổng Cục Thống Kê Việt Nam so với trị giá tổng số thương vụ vào năm 2013 của Việt Nam với thế giới 264.3 tỉ Mỹ kim, phần của Trung Quốc tuy dẫn đầu nhưng chỉ chiếm khoảng 19%, so với con số của Hoa Kỳ là 11%, Hàn Quốc 10.3%, Nhật 9.6%, Hiệp Hội Các Nước Đông Nam Á (ASEAN) 15.1%, Liên Hiệp Âu Châu (EU) 12.7%, và các nước còn lại 32.6%.
Một cách khách quan, những con số trên đây cho thấy phần đóng góp của Trung Quốc trong lãnh vực ngoại thương tương đối đáng kể nhưng không có tính cách ngự trị. Sở dĩ Việt Nam buôn bán nhiều với Trung Quốc một phần vì hai nước sát vách nhau và hàng của Trung Quốc mặc dù chất lượng thấp nhưng rẻ và hợp với túi tiền của đa số người Việt Nam.
Tổng số vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam tích lũy tính đến 31-12-2012 là 210.5 tỉ Mỹ kim. Phần của Nhật đứng đầu với 28.7 tỉ Mỹ kim (13.6%), tiếp theo là Đài Loan (12.9%), Singapore (11.8%), và Hàn Quốc (11.8%). Trong khi đó đầu tư của Hoa Kỳ và Trung Quốc chiếm một tỉ lệ khiêm nhường lần lượt là 5% và 2.2%.
Số dự án đầu tư của Trung Quốc tính đến cuối năm 2012 là 893, chiếm 6.1% tổng số dự án đầu tư nước ngoài. Trung bình mỗi dự án trị giá 5.3 triệu Mỹ kim. Trong khi đó, Hàn Quốc có 3,197 dự án ở Việt Nam, chiếm 22% của tổng số dự án đầu tư nước ngoài và trung bình mỗi dự án trị giá 7.8 triệu Mỹ kim và Đài Loan với 2,234 dự án, chiếm 15.4% của tổng số dự án đầu tư nước ngoài và trung bình mỗi dự án trị giá 12.1 triệu Mỹ kim. Tiếp theo là Nhật với 1,849 dự án và Singapore với 1,119 dự án. Như vậy trong lãnh vực đầu tư, vai trò của Trung Quốc khá khiêm nhường.
Tiếp theo, chúng ta phân tách tình trạng Việt Nam nợ nước ngoài trong đó có Trung Quốc. Trước hết là số nợ trong Chương Trình Hỗ Trợ Phát Triển Chính Thức (Official Development Assistance gọi tắt là ODA). Đây là một chương trình tài trợ quan trọng vì ODA có những ưu điểm là cho vay với lãi suất thấp (dưới 2%), dài hạn (25-40 năm), và một phần trong nguồn vốn là tiền viện trợ không phải hoàn trả.
Theo thống kê của Tổ Chức Hợp Tác và Phát Triển Kinh Tế (Organization for Economic Co-operation and Development viết tắt là OECD), gồm 34 quốc gia hội viên có nền kinh tế tiên tiến nhất, trong thời gian 2000-2012 ODA đã giải ngân cho Việt Nam 31.2 tỉ Mỹ kim từ nhiều nước phát triển trong đó có Nhật (đứng đầu với 10 tỉ Mỹ kim), Hàn Quốc, Pháp, Đức, Anh, Úc, Đan mạch, Thụy Điển, Na Uy, Canada và Hoa Kỳ. Các tổ chức tài trợ đa phương như Ngân Hàng Thế Giới qua chương trình Hiệp Hội Phát Triển Quốc Tế (International Development Association – IDA) và Ngân Hàng Phát Triển Á Châu (Asian Development Bank viết tắt là ADB) qua Quỹ Đặc Biệt (Special Funds) đã cho Việt Nam vay 11.3 tỉ Mỹ kim dưới hình thức ODA cùng trong thời gian kể trên. Trong khi đó, OECD không báo cáo món nợ ODA nào từ Trung Quốc.
Về những khoản nợ nước ngoài khác, theo báo cáo gần đây của Ông Đinh Tiến Dũng, Bộ Trưởng Tài Chánh với Quốc Hội Việt Nam, “Việt Nam vay tiền của Trung Quốc để thực hiện các dự án là không nhiều. Trong đó, đầu tư vào thị trường chứng khoán của Trung Quốc chỉ chiếm 0.33% quy mô giá trị của thị trường chứng khoán Việt Nam. Trung Quốc có hai nhà đầu tư lớn đang đầu tư vào hai tập đoàn và công ty, nhưng không có gì đáng lo ngại, vì đây đều là những nhà đầu tư dài hạn.” (2)
Rất tiếc rằng Ông Dũng từ chối không cho biết những con số cụ thể về các khoản nợ Trung Quốc vì tính chất nhậy cảm của vấn đề này.
Tham gia vào những hiệp ước thương mại quốc tế
Một trong những cách hiệu quả nhất để giảm phụ thuộc kinh tế vào Trung Quốc là tham gia vào những hiệp định thương mại quốc tế. Việt Nam đã ký kết hai hiệp định thương mại quan trọng trong quá khứ là Hiệp Định Song Phương với Hoa Kỳ vào năm 2001 và sau đó là gia nhập vào Tổ Chức Thương Mại Thế Giới (World Trade Organization viết tắt là WTO) vào năm 2007. Việt Nam đang thương thuyết sáu hiệp ước thương mại tự do (free trade agreement – FTA) khác là Hiệp Ước Đối Tác Xuyên Thái Bình Dương (Trans-Pacific Partnership – TPP) với 11 quốc gia khác không có Trung Quốc, FTA với Liên Hiệp Âu Châu, FTA với Hàn Quốc, FTA với Na Uy – Thụy Sỹ – Iceland – Liechtenstein, FTA với Liên minh Hải quan Nga – Belarus – Kazakhstan, và Hiệp định Đối Tác Kinh Tế Toàn Diện giữa các nước ASEAN.
TPP, FTA với Liên Hiệp Âu Châu, và FTA với Hàn Quốc trong những hiệp định vừa kể trên là ba hiệp ước sẽ có ảnh hưởng tích cực và mạnh mẽ nhất đến kinh tế Việt Nam và sẽ giúp Việt Nam giảm lệ thuộc vào Trung Quốc.
Mục tiêu chính của TPP là giảm thuế và những hàng rào cản hàng hóa và dịch vụ. Do đó, khi gia nhập TPP, Việt Nam sẽ có cơ hội tăng gia số lượng hàng xuất cảng đến các quốc gia TPP với dân số gần 800 triệu (11 % dân số thế giới) và tổng sản phẩm nội địa (GDP) là khoảng 28 ngàn tỉ Mỹ kim (40% GDP của thế giới). Ngoài ra, những nước TPP sẽ là nguồn cung cấp vốn đầu tư nước ngoài cho Việt Nam và là thị trường tiêu thụ sản phẩm của Việt Nam mà không bị Trung Quốc cạnh tranh. Việc gia nhập TPP sẽ giúp tổng sản phẩm nội địa của Việt Nam tăng 46 tỉ Mỹ kim tức khoảng 13.6% theo kết quả một cuộc nghiên cứu của Peter A. Petri, Michael G. Plummer, và Fan Zhai vào cuối năm 2012.”(3)
Theo Ông Tomaso Andreatta, Phó Chủ tịch Phòng Thương Mại Châu Âu tại Việt Nam, tổng sản phẩm nội địa của Việt Nam có thể tăng trên 15%, tiền lương thực tế của lao động có tay nghề cao có thể tăng khoảng 12%, tiền lương thực tế của lao động phổ thông có thể tăng khoảng 13% và giá trị xuất khẩu có thể tăng lên gần 35% sau khi Liên Hiệp Âu Châu và Việt Nam ký kết FTA.
Hàn Quốc đầu tư rất nhiều vào lãnh vực sản xuất điện tử tại Việt Nam với những dự án quy mô lớn như của Samsung hay LG, nhưng các công ty này vẫn phải nhập khẩu linh kiện từ Trung Quốc. Thí dụ như Samsung Vietnam xuất khẩu điện thoại di động thông minh Galaxy trị giá 23.3 tỉ Mỹ kim, nhưng đã phải nhập khẩu vi mạch và linh kiện từ Samsung China trị giá 21.3 tỉ Mỹ kim. Khi FTA giữa Việt Nam và Hàn Quốc được ký kết, Việt Nam sẽ không phải nhập khẩu linh kiện từ Trung Quốc nữa vì các công ty Hàn Quốc sẽ đến xây dựng nhà máy tại Việt Nam để được hưởng quy chế thuế thấp do hiệp định thương mại này quy định. Điều đó sẽ giúp Việt Nam giảm lệ thuộc vào hàng nhập khẩu từ Trung Quốc. (4)
Tương tự như trong lãnh vực điện tử, một khi Việt Nam gia nhập TPP, các nhà máy làm vải, lụa, khuy áo và chế tạo da sẽ được xây cất tại Việt Nam để được hưởng thuế ưu đãi đối với hàng dệt may và giầy dép. Như vậy số lượng nguyên liệu nhập cảng từ Trung Quốc sẽ tự động giảm xuống.
Nói tóm lại, tham gia vào những thương ước đa phương vừa kể trên là một cách giúp Việt Nam đa dạng hóa thị trường tiêu thụ và nguồn cung cấp nguyên liệu, vốn, kỹ thuật và ngay cả nhân lực. Do đó, kinh tế Việt Nam sẽ bớt phụ thuộc vào Trung Quốc.
Chấm dứt những mãnh lới buôn bán bất chính của thương gia Trung Quốc
Ngoài việc tiến dần đến độc quyền nguy hiểm về xuất nhập khẩu trong một số lãnh vực, thương gia Trung Quốc còn có những thủ đoạn buôn bán bất chính gây thiệt hại cho những nhà sản xuất Việt Nam. Một số bài tường thuật trên báo mạng cho thấy rằng thương gia Trung Quốc đi đến từng ruộng vườn để thu mua các cây con, rễ tiêu, lá điều và ngọn cây làm hư hại mùa màng hay thu mua đỉa mang tính cách phá hoại nông nghiệp. Thương gia Trung Quốc còn nâng giá giả tạo một số nông sản như khoai lang và dưa hấu làm cho nông dân Việt Nam ham lợi tăng gia sản xuất. Vài mùa sau, khi thương gia Trung Quốc không trở lại thu mua nữa, các loại nông sản trở thành ế ẩm khiến cho nông dân Việt Nam buộc phải hạ giá. (5) Trước 1975 cũng đã xẩy ra những vụ tương tự tại miền Nam Việt Nam như vụ thu mua chim cút, khiến nhiều công chức quân nhân đã nghèo lại còn nghèo thêm.
Trung Quốc còn gây khó khăn cho các nông sản xuất khẩu của Việt Nam bằng cách thường xuyên trì hoãn các xe chuyên chở ở biên giới. Chủ nhân của hàng ngàn xe dưa hấu, vải, và rau tươi của Việt Nam mắc kẹt tại đây, nhiều khi buộc phải hạ giá để giảm bớt một phần nào lỗ lã. (6)
Việt Nam cần phải chấm dứt những mánh lời buôn bán bất chính này của Trung Quốc để bảo vệ nông dân và nông phẩm của Việt Nam, chống lại sự lũng đoạn thị trường Việt Nam của Trung Quốc. Một trong những biện pháp hữu hiệu nhất là việc giáo dục và phổ biến tin tức về giá cả và thị trường đến nông dân. Bộ Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn có trách nhiệm về vấn đề này. Bộ Công Thương chịu trách nhiệm giải tỏa những khó khăn ở biên giới. Nếu không được thì phải nhờ Tổ Chức Thương Mại Thế Giới (WTO) can thiệp.
Trung Quốc trúng thầu nhiều dự án tại Việt Nam
Vào cuối năm 2009, các công ty kỹ thuật Trung Quốc đảm nhận nhiều dự án với trị giá tổng cộng lên đến 15.4 tỉ Mỹ kim. Các nhà thầu Trung Quốc thực hiện 90% dự án xây cất những nhà máy nhiệt điện tại Việt Nam, từ đầu tới cuối, không sử dụng bất cứ thứ gì của Việt Nam. Tương tự như vậy, trong tổng số 24 nhà máy xi măng ở Việt Nam, 23 nhà máy do Trung Quốc xây cất. Đây là một ấn đề gây nhiều bất mãn trong quần chúng và các chuyên gia tại Việt Nam hiện nay. Theo Cô Lê Hồng Hiệp, Giảng Sư tại Đại Học Quốc Gia Việt Nam tại Hà Nội, có hai lý do khiến cho các công ty Trung Quốc thành công trong ngành đấu thầu. Thứ nhất là khi cho vay vốn ưu đãi các nhà thầu Trung Quốc đặt một số điều kiện. Thứ hai là các nhà thầu Trung Quốc áp dụng những chiến thuật kinh doanh uyển chuyển. Tuy nhiên cần phải kể đến yếu tố thứ ba là giá đấu thầu của những công ty Trung Quốc khá thấp so với những giá thầu của những công ty khác.
Những điều kiện để được vay vốn ưu đãi thường là Việt Nam phải dùng nhà thầu Trung Quốc, kỹ thuật, đồ trang bị, và dịch vụ của Trung Quốc. Đối với những dự án không dùng vốn Trung Quốc, nhà thầu Trung Quốc vẫn có thể thắng được nhờ cho giá tương đối khá thấp theo luật đấu thầu của Việt Nam, bất kể tiêu chuẩn kỹ thuật. Vấn đề là sau khi trúng thầu, những công ty Trung Quốc thường thuyết phục những cơ quan sở hữu dự án thay đổi các điều khoản của hồ sơ thầu để giảm chi phí hoặc có khi phe lờ những điều kiện này. Ngoài ra, những công ty Trung Quốc ưa thích dùng công nhân Trung Quốc hơn với lý do ngôn ngữ và kỹ năng. Một số phúc trình cho thấy rằng nhiều nhà thầu Trung Quốc hoàn tất dự án không đúng tiêu chuẩn đã ấn định như chậm trễ, chất lượng kém. (7) Các nhà thầu Trung Quốc còn mang những máy móc thiết bị công nghệ cũ để dùng cho những dự án họ trúng thầu. (8)
Ông Đặng Ngọc Tùng, một đại biểu Quốc Hội, đã chất vấn Bộ Tài Chánh Việt Nam rằng “vì sao nhà thầu Trung Quốc thường xuyên không hoàn thành hợp đồng đúng hạn, chất lượng các công trình không bảo đảm, giá thành các công trình thường tăng cao hơn dự kiến, không sử dụng nhân công Việt Nam, song có tới 90% dự án phát triển nguồn điện và 80% dự án phát triển hạ tầng giao thông vẫn được giao cho các nhà thầu Trung Quốc ?”
Nhiều thắc mắc tương tư như trên đã từng được báo chí, các cuộc hội thảo và các hội nghị thường xuyên mang ra bàn cãi, nhưng chưa được nhà nước Việt Nam trả lời. Có một vài lý do gây ra tình trạng đấu thầu bừa bãi này theo những ý kiến thâu thập từ các bài báo phổ biến trên Internet. Thứ nhất là các cơ quan quản lý, đặc biệt là các cơ quan cấp phép cho các dự án đã không hoàn tất trách nhiệm kiểm tra việc thực hiện các dự án. Thứ hai, các nhà thầu Trung Quốc hối lộ những cơ quan quản lý dự án để được bao che. Do đó chính người Việt Nam làm hại chính đất nước của họ.
Hiện nay Bộ Kế Hoạch và Đầu Tư đang duyệt xét lại luật đấu thầu để cho phép những chủ dự án có thể loại bỏ những nhà thầu thiếu khả năng cho dù họ có cho giá thầu thấp. Những công ty trúng thầu sẽ buộc phải ưu tiên sử dụng nhân công Việt Nam cũng như vật liệu, trang bị và dịch vụ có sẵn ở địa phương. Đây cũng chính là những mục tiêu căn bản của kế hoạch đầu tư trực tiếp nước ngoài, kể cả dùng những dự án thầu đề huấn luyện nhân công trong nước.
Việt Nam là một quốc gia hội viên của Tổ Chức Thương Mại Quốc Tế. Do đó Việt Nam phải tuân theo luật WTO. Tuy nhiên Việt Nam vẫn có thể đặt ra những tiêu chuẩn kỹ thuật và hành chánh để bảo đảm dự án phải được thực hiện theo ý muốn, miễn là những tiêu chuẩn này áp dụng đồng đều cho tất cả những nhà thầu, không phân biệt quốc tịch.
Kết luận
Trong nền kinh tế toàn cầu, Việt Nam không thể độc lập hoàn toàn với Trung Quốc và ngược lại, nhưng kinh tế Việt Nam cũng không thể phụ thuộc quá nhiều vào Trung Quốc.
Để giảm lệ thuộc vào Trung Quốc, trước hết, Việt Nam cần phải cố gắng tự sản xuất những hàng hóa tiêu thụ hàng ngày mà mình có thể làm lấy được và phải làm tốt hơn hàng của Trung Quốc và đặc biệt chú trọng đến sự an toàn.
Người tiêu thụ cần phải bỏ thói quen mua hàng rẻ nhưng chất lượng thấp của Trung Quốc. Mặt khác phải hỗ trợ hàng Việt Nam nhất là trong hoàn cảnh Trung Quốc đang xâm lăng Việt Nam. Mua hàng Việt Nam là góp phần vào việc bảo vệ đất nước.
Việt Nam cần phải cải tổ chế độ đầu thầu và ra luật nghiêm trị những kẻ ăn hối lộ và bao che các nhà thầu. Chú trọng đến chất lượng, tiêu chuẩn kỹ thuật, thay vì giá thầu. Khuyến khích nhiều nhà thầu khác nhau thực hiện các dự án thay vì để cho Trung Quốc gần như độc quyền trong một vài lãnh vực trọng yếu (năng lượng và xây cất hạ tầng) như hiện nay.
Việt Nam cần hủy bỏ những xí nghiệp quốc doanh thua lỗ, đặc biệt công nghệ cao, để tập trung phát triển công nghiệp nhẹ, giúp sản xuất những sản phẩm tiêu thụ cho người Việt và những nguyên liệu cần thiết cho những công nghiệp chính của Việt Nam như may mặc và giầy ép. Kế hoạch phát triển trồng 1,000 ha bông tại tỉnh Ninh Thuận là một việc cần sớm thực hiện.
Việt Nam từng xuất khẩu ồ ạt những số lượng than rất lớn sang Trung Quốc, kể cả một lượng 1 triệu tấn than xuất khẩu lậu, với giá rẻ so với giá trị trường quốc tế, mặc dù biết rằng Việt Nam cũng rất cần nguồn năng lượng có sẵn này để phát triển. Người ta nghi ngờ có sự chia chác trong vụ mua bán than này làm cho Việt Nam thất thu khoảng 1 tỷ Mỹ kim. (9) Tuy nhiên Việt Nam lại nhập cảng điện từ Trung Quốc với giá cao gấp ba lần giá điện ở Việt Nam. Như đã tiên liệu, mới đây Việt Nam thiếu than đã phải nhập cảng than từ Nam Dương, cùng một loại than mà Việt Nam xuất cảng sang Trung Quốc. Việt Nam cũng xuất cảng cao su qua Trung Quốc, nhưng lại nhập cảng lốp xe từ Trung Quốc. Không có một chánh sách kinh tế nào phi lý hơn thế. Vì vậy Việt Nam cần phải cải tổ chính sách xuất nhập khẩu, nhất là với Trung Quốc.
Sau hết và quan trọng hơn cả là tham gia vào những thương ước đa phương đặc biệt là Hiệp Định Hợp Tác Xuyên Thái Bình Dương.
Chúng ta không biết CSVN có cam kết gì với Trung Quốc ở hậu trường hay không. Nhưng chúng ta thấy rõ rằng người đồng chí hàng xóm khổng lồ không hề dí súng vào đầu người anh em Việt Nam để bắt buộc Việt Nam phải buôn bán với họ. Phần lớn những giải pháp khả thi giúp kinh tế Việt Nam giảm lệ thuộc vào Trung Quốc hoàn toàn nằm trong tay chánh quyền Hà Nội và người dân Việt Nam.
Washington-DC, 04-07-2014