Bài viết kỷ niệm 50 năm (1958-2008) thành lập Viện Đại Học Đà Lạt. Dù đã rời xa “VIỆN ĐẠI HỌC ĐÀ LẠT” đúng 40 năm, tính đến năm 2008, những kỹ niệm thời Sinh viên chưa phai mờ trong trí nhớ của tôi, cũng như các anh chị càng sống lâu ở Đàlat để hoàn tất chương trình Cử nhân các khoa, thì càng có nhiều kỷ niệm đối với Thành phố Đàlat sương mờ, đối với Trường Mẹ thân yêu. Ngoài những kỷ niêm chung, mỗi người chúng ta, ai cũng có những kỹ niệm riêng tư nơi phòng trọ, trên Giảng đường, nơi quán nhỏ nào đó ở một góc phố, hay trên con đường dẫn đến nơi hẹn hò của thời Sinh viên đầy hoa mộng, đúng như cái tên Thành phố mộng mơ, Xứ Hoa Anh Đào …
Tôi không được diễm phúc như các anh chị, đã được hưởng trọn vẹn tình thương yêu, dạy dỗ của Đức ông, của quý Cha, Frere, của quý Thầy, Cô, và tình bạn bè cùng khóa, cùng Viện. Sau Tết Mậu thân, lần lược các bạn Sinh viên của trường đến tuổi “ĐỘNG VIÊN” điều vào lính cả, tôi cũng như nhiều bạn giờ đây là “LÍNH” được biết thêm về “tình đồng đội” và tình yêu Quê hương …
Tôi xin kể lại một vài kỷ niên sau khi rời ghế nhà trường, để các bạn cùng chia xẻ nổi vui buồn đời lính phong sương, đầy hiểm nguy mà chúng tôi đã trải qua, chứ không còn mộng mơ như thời Sinh viên cắp sách trường. Thực tế ngoài chiến trường, chúng tôi phải đối diện với các bạn trẻ từ Miền bắc cũng rời ghế nhà trường để vào “BỘ ĐỘI”, với lời thề “SINH BẮC, TỬ NAM”. Ở đây chúng ta không nói ai đúng, ai sai mà chỉ nói đến các kỷ niệm vui buồn đời lính thôi, còn đúng sai thế nào, lịch sử sẽ phê phán.
Cuối tháng 12 năm 1969, tôi nhận chức vụ Trung đội trưởng trung đội tác chiến với quân số 42 người, vì mới bổ sung nên quân số quá đầy đủ, nói đúng hơn là có thừa, chứ thường thì quân số trên vài chục người. Tôi từ Quân trường Đồng Đế mới ra, đen thui như cột nhà cháy, đứng trước hàng quân vừa về tới trại, sau một ngày hành quân, qua sự giới thiệu sơ sơ của Trung úy Đại đôi trưởng với các vị Trung sĩ Tiểu đội trưởng, Trung đội phó và cả Lính của trung đội, vai còn mang ba lô, súng đạn, mặt mày xộm nắng, áo quần bạc màu vì cát bụi, bùn lầy, mồ hôi ướt đẫm, chứ không phải, chỉ “dính bụi hành quân” như trong các bài thơ, bài ca mà chúng ta thường được nghe các ca sĩ, ngâm nga, ca hát trên các đài phát thanh …
Tôi liếc sơ qua hàng quân, hình như họ nhìn tôi bằng nửa con mắt, lúc nầy tôi thật bối rối, nhìn lại mình quả thật còn quá sửa, hay nói theo kiểu nhà binh là “búng ra sửa”, áo quần nhẵn nhụi, thơm mùi vải mới, lúc đó không biết tôi đã nói gì “lí nhí” với họ, chắc họ cũng chẳng thèm nghe tôi nói gì, rồi cho tan hàng ngay, cũng may lấy cớ là ở chiến trường không được tập trung đông người, đạn cối của Việt cộng sẽ gởi đến bất kỳ lúc nào.
Sau 51 ngày đêm hành quân “bình định” còn lại 18 người, trong 51 ngày nầy có một kỷ niệm không bao giờ quên, có thể nói là “lộng giả thành chân” xin phép được chia xẻ cùng quý vị, các anh chị và các bạn trẻ Thụ Nhân.
Nhớ không lầm mỗi năm Việt cộng có nhiều ngày lễ lớn, như ngày thành lập Mặt trận giải phóng Miền nam, ngày thành lập Quân đội Nhân dân v.v… Những ngày nầy thuộc tháng 12 ?, vì mới ra trường nên tôi không để ý mấy vụ nầy, chứ các Sĩ quan tác chiến lâu rồi thì họ có kinh nghiệm, cứ vào những ngày lễ lớn, Việt cộng tập trung quân số đánh lớn, tiêu diệt thật nhiều phe ta, dành thắng lợi lớn, lập công dâng bác và đảng, lúc nầy bác đã mất, thì làm quà dâng đảng vậy.
Căn cứ đóng quân có 2 Tiểu đoàn, một Tiểu đoàn Địa phương quân, và Tiểu đoàn của tôi thuộc SĐ2/BB. Việt cộng muốn tấn công căn cứ quân sự nầy, thì quân số của họ phải cấp Trung đoàn, hay ít nhất phải gấp đôi, hay gấp ba số quân trong căn cứ, Vị trí căn cứ quân sự tốt, nên Việt cộng chỉ tấn công được 3 mặt, còn mặt kia là sông.
Đêm đó trung đội tôi được phân công giữ tiền đồn mặt chính, Việt cộng muốn đánh Căn cứ đóng quân, phải tiến chiếm tiền đòn của tôi trước, tiền đồn ở một cao điểm trọng yếu, được rào sơ sài bằng vài vòng kẽm gai bung. Tôi phân công Trung đội phó tuần tra canh chừng sợ lính ngủ gục, từ 6 giờ chiều đến 12 giờ đêm, còn tôi trách nhiệm từ 12 giờ khuya đến sáng, giờ cao điểm mà Việt cộng có thể tấn công, giờ Hà nội sau giờ Miền nam 1 tiếng, 12 giờ Miền nam thì mới 11 giờ Hà nội, có lẽ nhờ sai biệt một giờ, mà giờ nầy tôi còn ngồi đây để viết thư tâm sự với các anh chi, các bạn trẻ trong gia đình THỤ NHÂN và Thân hữu
Các anh chị biết chuyện gì đã xảy ra trong đêm đó không ? Cái gì đến sẽ đến, dù sợ đến mấy cũng không sao tránh được, gần 12 giờ đêm, tôi vẫn thao thức không sao chợp mắt được, lo lo như có cái gì đó sắp xảy ra, tự nhiên như có ai ghé vào tai tôi “Việt cộng vào sát bờ rào rồi! sao còn ngủ”, tôi vẫn bình tỉnh nằm trên võng, vốn tôi ít tin vào chuyện mộng mị, nhưng hơi lạ, tôi có ngủ đâu mà mộng, nên liền gọi anh Trung đội phó đánh thức trung đội ra phòng tuyến, rồi xin trái sáng của Đại đội để quan sát.
Trái sáng 60 ly của Đại đội vừa tàn, thì đợt pháo kích dử dội khởi đầu bằng B40, Súng cối, Trung liên, Thượng liên … nổ xối xã vào Tiền đồn. Tôi nhảy xuống hầm để liên lạc với Đại đội, vừa run, vừa lập bập, lập bập… mãi một hồi vẫn không liên lạc được với Đại đội, tôi nhảy lên khỏi hầm, vì sợ lính chạy hết, bỏ mình tôi, và truyền tin ở dưới hầm, không chết vì đạn pháo, thì cũng chết vì thủ pháo của đặc công Việt cộng. Việt cộng dùng mìn phá rào (pan-ga-lo) nổ tung những vòng kẽm gai, Tiểu đội đối diện hoàn toàn tê liệt, với hỏa lưc quá mạnh, Tiểu đội bên cũng thiệt hại nặng, tự động rút lui bỏ ngỏ cho Việt cộng.
Khẩu Đại liên M60 tăng cường cho trung đội tôi đã khai hỏa, nhưng không lâu bị B40 khống chế, hỏa lục chính của trung đội đã im tiếng. Việt cộng xung phong ào ạt thừa thắng xông lên, Thủ pháo nổ không ngừng, như pháo nổ liên hồi, anh Trung đội phó chỉ huy khẩu Đại liên M60 hối tôi “chạy Chuẩn úy, chạy Chuẩn úy” Từ đầu đến giờ tôi chưa biết phản ứng ra sao, tôi run quá, biết mình không chạy kịp lính, mà chạy cũng chết, tôi la lớn “chết cũng ở, chết cũng ở” may ra anh Trung đội phó không chạy, bỏ lại tôi một mình, đồng thời la lớn đẻ lấy lại tinh thần. Không ngờ toán đặc công Việt cộng đầu tiên, đã đến sát hòn đá nơi tôi cột võng để tránh đạn thẳng và tránh bắn bia, tên đặc công vc (đcvc) đôi cho tôi quả thủ pháo, poncho, võng bung lên, anh Truyền tin tưởng tôi chết, ở dưới hầm chui lên, tay cầm quả lựu đạn rút chốt đôi liền về phía bên kia hòn đá, nơi đặc công vc vừa đôi thủ pháo, tôi nín thở, tim đập mạnh, sợ đcvc chụp quả lựu đạn đôi lại, hồi hộp chờ quả lựu đạn nổ từng giây, 5 giây, 10 giây, 15 giây… trôi qua nhưng lựu đạn không nổ, (sau nầy mới biết lựu đạn không nổ vì gấp, anh không kịp gở dây thun an toàn mỏ vịt ở phía sau), quả lựu đạn thứ nhì, cũng là quả lựu đạn duy nhất còn lại, sẽ quyết định sự sống còn của hai anh em chúng tôi, anh Truyền tin, mở chốt an toàn, và dây thun phía sau, bồi thêm về phía đcvc đang núp, lựu đạn nổ tung, tôi mừng quá, quả lựu đạn nổ đã chận đứng được đợt xung phong của vc, lúc nầy tôi lấy lại tinh thần, người ta nói rất đúng, đã say thuốc súng thì hết biết sợ.
Lạng quạng lúc đầu, khẩu súng M16 của tôi bỏ đâu mất, có lẽ súng đã bung theo quả thủ pháo của đặc công Việt cộng rồi, tôi liền lấy cây súng trong tay người lính chết dưới chân tôi, bắn xối xã về phía đối phương, thủ pháo chớp nổ, chớp nổ, sáng cả Tiền đồn thay hỏa châu soi sáng, vì hỏa châu soi sáng của Pháo binh yểm trợ đến giờ nầy vẩn chưa có. Trái sáng 81ly của Tiểu đoàn, thì phải liên tục soi sáng căn cứ của Tiểu đoàn.
Bên đồn chính cũng bị đánh thủng một góc, Việt cộng đã tiến đến gần bộ chỉ huy của Đại đội, nhưng Trung úy Đại đội trưởng vẫn ôm súng cối 60ly bắn yểm trợ cho trung đội tôi. Từ đầu đến giờ tôi không liên lạc được với Đại đội vì máy truyền tin C25 bị vc phá tầng số, dĩ nhiên là có tầng số phụ, có lẽ anh truyền tin cũng quýnh quá nên quên. Có 2 quả lựu đạn đã xài hết, lúc nầy anh cũng bình tĩnh thấy tôi còn sống và đang chiến đấu, anh đủ thời gian đổi qua tầng số mới, đẻ liên lạc với Đại đội
Bộ chỉ huy Tiểu đoàn, không liên lạc được với Trung đội tôi, trong lúc Việt cộng đã tràn ngập Tiền đồn, nên Tiểu Đoàn Trưởng gọi Pháo binh cho đánh phủ đầu Tiền đồn của tôi để xóa sổ cả Địch lẩn Ta luôn, điều nầy ta không trách, mà là việc làm cần thiết để bảo vệ Tiểu đoàn và tính mạng của những người còn sống sót. Người em con ông chú cùng khóa đang ở bộ chỉ huy Tiểu đoàn, đã khóc cho số phận hẩm hiu của tôi và của trung đội. Thông thường khi cần thì pháo binh yểm trợ ngay phút đầu rất hữu hiệu, từ soi sáng đến bắn chận, hay phủ đầu. nhưng lần nầy Việt cộng quyết đánh lớn, để nắm chắc phần thắng, Việt cộng cho pháo kích căn cứ pháo binh yểm trợ cho cuộc hành quân, nghe đâu bên Pháo binh cũng bi thiệt hại về nhân sự, nên gần nửa giờ sau Pháo binh mới hoạt động yểm trợ lại được.
May quá lúc nầy tôi vừa liên lạc được với Đại đội, nhưng cũng phải lãnh măn, ba quả pháo chụp trên đầu, phân nửa ngọn đồi phía bắc, bị trọc lóc cây nhỏ vì hỏa lực của Việt cộng quá mạnh, nhưng hỏa lực của ta không kém, sau khi anh Trung đội phó chạy về hướng các tiểu đội tập trung chờ rút lui về hướng Tiểu đoàn, nhưng thấy tôi còn chiến đấu lẻ loi mà không chạy, lở trớn anh đã điều động lính trở lại phản công rất đẹp mắt, Việt cộng chạy vất cẳng lên cỗ, làm tung cả hàng ba bốn chục chiếc dép râu (mỗi đôi mỗi chiếc, không chiếc nào giống chiếc nào), xách thuốc cứu thương, thủ pháo, 1 khẩu Ak47, nhiều quân trang quân dụng khác, có cả thơ tình và bóng dáng “bộ đội gái” trên chiến trường, có lẽ là y tá …
Từ lúc Pháo binh yểm trợ, soi sáng, bắn phủ đầu Việt cộng, lúc nầy máy bay C47 cũng được phái đến yểm trợ, thả hỏa châu soi sáng đến sáng, C47 cũng bắn Đại liên yểm trợ như bò rống, tinh thần binh sĩ lên cao. Tiểu đoàn cũng tăng cường Đại đội để tải thương, thâu dọn chiến trường, tôi không phải lo sợ Việt cộng còn đủ sức để tung ra đợt tấn công thứ hai, thứ ba…
Trận đánh thử lửa nầy, tôi đã giữ được Tiền đồn, không mất khẩu súng nào, dù quân số và hỏa lực địch rất hùng hậu lúc đầu. Còn sự mất mát về nhân sự, không sao tránh khỏi, ngay cả tôi, buổi sáng đứng nhìn Tiền đồn với đôi chút hảnh diện, hảnh diên vì lực lương của mình vẩn còn làm chủ được tình thế, trong lúc đang suy nghỉ lung tung, thì người lính nấu ăn cho tôi, còn gọi là tà-lọt, la hoãn lên, chết cha Chuẩn úy bị thương, tôi nhìn lại quả thật máu me tùm lum, người lính lôi áo tôi lên để xem vết thương nặng nhẹ thế nào ? lạ thật không có vết thương nào!
Thưa các anh chi cùng các bạn trẻ, “MÁU”, máu của “ĐỒNG ĐỘI” đã đổ đêm qua trên Tiền đồn, để bảo vệ từng tất đất QUÊ HƯƠNG, bảo vệ ĐỒNG ĐỘI trong đó có tôi, máu của người lính chết dưới chân tôi, nhưng tay anh vẩn nắm chặt khẩu súng, Cây súng trên tay anh, tôi bóp cò thay anh, máu của anh đã dính vào tôi… vì tôi là ĐỒNG ĐỘI của anh, tôi không quên anh, anh là những anh hùng trong tim tôi…
Sau chiến thắng vẻ vang, huy chương tưởng lục đến với trung đội tôi, có cả huy chương của Mỹ nửa, Cố vấn Mỹ quan sát hiện trường khen lấy khen để, còn tôi cảm thấy hổ thẹn, mà chỉ mình tôi biết thôi… Nếu như tôi không run, có lẽ tôi cũng chạy theo lính rồi, chỉ xui cho Việt cộng, nhè thằng nhát mà đánh, không dám chạy nên phải đánh đến cùng
Tôi rất vui, lúc nầy lính trong trung đội có cảm tình với tôi nhiều, chứ không còn nhìn tôi bằng nửa con mắt như lúc đầu, thậm chí có những anh lính gốc Miền nam, Sàigòn nói với nhau “gớm! chưa thấy chuẩn úy nào chịu chơi như Chuẩn úy R.” !! Chứ họ đâu có ngờ Chuẩn úy run quá trời …
Việt cộng cũng quái ác, sáng sớm hôm sau đã cho người tung tin về Cha mẹ tôi, rằng thì là Chuẩn úy R. đã tử trận đêm qua, mẹ tôi nghe tin ngất xỉu liền, Cha tôi vội chạy vào SĐ thật sớm để nhờ liên lạc với Tiểu đoàn thực hư thế nào, vì tôi là con một, nên Ông bà rất lo lắng.
Nguyên tôi được hoãn dịch vì lý do gia cảnh, lẽ ra tôi được phục vụ đơn vị không tác chiến, nhưng chọn chiến đấu là quyết định của tôi, sau Tết Mậu thân, cuộc chiến càng ngày càng khốc liệt, tôi biết điều đó, nên đã chuẩn bị tinh thần cho mọi bất trắc xảy ra cho tôi, ngay cả tính mạng, vậy mà sự thật ở chiến trường còn khủng khiếp hơn là chúng ta tưởng
Nếu mọi người điều tìm chỗ tốt để được an thân, thì ai là người chiến đấu, nghỉ vậy mà tôi không nạp giấy tờ đã mang theo, để được hưởng quy chế ân huệ dành cho con một, cha mẹ già trên 60 tuổi.
Đơn vị tôi chọn không phải là Sư Đoàn 2/ Bộ Binh, mà là Biệt Động Quân, còn các đơn vị Tổng trừ bị như Sư đoàn Dù, Sư đoàn Thủy Quân Lục Chiến thì tôi không dám mơ. Khóa 2/68, nghe đâu anhThủ khoa chọn Sư đoàn Dù, Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến chỉ lấy năm sáu người, riêng đơn vị Biệt Động Quân họ nhận 40 người, tôi biết chắc, nên tình nguyện vào Biệt Động Quân, không ngờ số người tình nguyện đông quá, nên tôi bị loại vì nhỏ con, tuy không được nhận nhưng tôi vẫn vui, vì thấy Thanh niên thời chiến họ đã sẵn sàng xả thân, hy sinh mạng sống, chiến đấu bất chấp gian khổ, hiểm nguy, để bảo vệ Quê hương, Tổ quốc Việt nam, chứ không phải vì tiền hay chức vị, vì chúng tôi thường nói đùa với nhau, một sự thật mà ai cũng biết, ra trường vài ba tháng sau là rửa cẳng lên bàn thờ, …ăn chuối nhựa
Đôi dòng tâm sự với anh chi và các bạn trẻ, đồng thời cũng để TẠ ƠN những người đã nằm xuống để bảo vệ mình, bảo vệ Quê hương
Kinh chúc quý Thầy Cô, quý anh chị Thụ Nhân và quý bạn trẻ An bình, Hạnh phúc
Kính. Người Lính Gìa:
Võ Văn Rân