Thử luận bàn về tương lai Việt Nam Hậu Cộng Sản:
Liệu Việt Nam có khả năng phát triển không ? Từ thực tế tụt hậu ngày nay ta thử nhìn về tương lai
Đây không phải lần đầu tiên mà Trung ương đảng Cộng sản Hà nội nhìn nhận những sai trái, sai lầm trong chánh sách chỉ đạo ! Nhưng lần nầy Trung ương đảng CS Việt Nam lại “bề hội đồng” Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng buộc Thủ tướng phải nhìn nhận (không thì mất ghế?) đơn phương những sai lầm của chánh sách quản trị của chánh phủ mình! Và Thủ tướng nhìn nhận sai lầm ! Và không mất ghế ! Và Trung ương Đảng Cộng sản Hà nội hả hê ra tan hàng…phủi tay, xong việc… Mission accomplie !…
Vậy là “Huề cả làng”! Vật giá vẫn tăng, lạm phát vẫn tăng, nhơn dân vẫn khổ và Đảng Cộng sản Hà nội ta vẫn cầm quyền,… vẫn villa, nhà lầu và xế hộp hai cầu…
Chánh sách quản trị kinh tế chánh trị Việt Nam là việc làm riêng, một chức năng riêng biệt, một đặc quyền của chánh phủ, của Nhà nước Việt nam do Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ đạo. Người công dân Việt Nam trong nước không có quyền bàn tán dòm ngó, bàn luận hay bình phẩm vì sẽ mang trọng tội “chống chánh quyền” và có thể đi tù. Việc ấy đã đành, thế nhưng, cả người Việt Hải ngoại chúng ta, hầu như chúng ta không ai để ý đến xem những tin tức quan trọng “kinh bang tế thế” ấy như những tin tức “xe cán chó” ! Vì dù có quan tâm đến đâu nữa, thì cũng nhưng “nước đổ lá khoai”, vô ích, vô vọng. Vì vậy, từ lâu lắm chúng tôi không nghĩ đến bàn, hay luận gì về cái quái thai “Nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa » hay bàn luận gì về “Phát triển kinh tế Việt Nam” !
Sẳn nay Thủ tướng đương nhiệm (vừa cứu được cái ghế Thủ tướng của mình) nhìn nhận sai trái, và hứa sẽ sửa sai, xin thử đôi lời bàn đến Phát triển Việt Nam.
I. Việt Nam: Con đường phát triển tương lai trong giấc mơ dài của nhóm lãnh đạo Cộng sản
Từ mùa thu năm 1989, khi nhóm Solidarnosc thắng cuộc tranh cử để cầm quyền tại Ba Lan đến tháng 12/1991. đánh dấu ngày Liên Bang Sô Viết vỡ tung và bức tường Bá Linh sụp đổ. Các nhà nghiên cứu chánh trị thế giới vừa ngạc nhiên vừa vui mừng tin rằng chế độ Cộng Sản sẽ tan rã trên khắp thế giới – và chủ nghĩa cộng sản cũng sẽ không còn lý do để tồn tại nữa !
Hai mươi ba năm trôi qua, thế giới vẫn còn 4 chế độ CS tại Á Châu và tại Cu Ba. Cộng Sản Cu Ba là một chế đội CS vá víu. Còn Cộng Sản Tàu, Bắc Hàn và Hà Nội là loại Mác xít Lê-nin-nít nửa chừng xuân, nhưng có một sức phản kháng khá đặc biệt với tất cả những diễn biến thời cuộc bên ngoài, có lẽ là nhờ một chánh sách làm ăn theo thời cuộc, rất đồng bọn, tự bao che, tự bảo vệ lẫn nhau, vừa làm giàu cá thể, vừa làm giàu đoàn thể và đồng bọn, ăn chia kiểu mafia, dựa trên một hệ thống móc ngoặc, tham nhũng khá tinh vi.
Hãy bỏ qua một bên những câu hỏi về Cộng sản Tàu hay Bắc Hàn, chúng ta nên chỉ chăm chú vào Việt Nam và câu hỏi thường xuyên của các nhà bình luận chánh trị là Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay, đang thay hình đổi dạng trên đà suy sụp ? hay chế độ cộng sản Việt Nam đang biền hóa để cải tiến và vượt qua những chướng ngại vật do thời cuộc và sự sống còn bắt buộc?
Xin trả lời, cả hai. Cộng sản Tàu là tấm gương. Nhìn tương lai Tàu sẽ biết tương lai Ta.
Cộng sản Trung hoa đang sửa soạn thay lãnh đạo, sau một màn đấm đá giành giựt quyền lực phe đảng bè phái suốt cà năm nay, trong một không khí kinh tế đang cần một sự thay đổi gần như 180° : từ một nền kinh tế thương mại nặng về gia công và xuất cảng, Trung hoa Cộng sản phải chuyển về củng cố thị trường nội địa, và tự sản xuất. Dỉ nhiên Trung Cộng sau bao nhiêu năm làm gia công cho thế giới với một chánh sách bóc lột sức lao động rẻ của nhơn dân lao động mình đã thu tóm được một gia tài kim ngạch khổng lồ, ngày nay khả dỉ có thể giúp Trung Cộng vượt qua những chướng ngại vật kinh tế, kỹ thuật hay tài chánh … Chánh sách đối ngoại hung hăng, dựa trên chủ thuyết dân tộc Hán cũng do cái khó khăn gặp phải bởi những đòi hỏi ( chánh đáng hay không ) tự lực cánh sinh và độc lập địa phương của các tỉnh (giấc mơ biến Tàu thành một Liên Bang? kiểu Mỹ, kiểu Xô Viết? kiểu Đức? kiểu Thụy sĩ?)… Trung Quốc của Tần Thủy Hoàng hay Trung Quốc thời Chiến quốc? Tương lai sẽ trả lời chúng ta.
Hãy trở về Việt Nam, Việt Nam muốn giống Tàu, nhưng “mậu lúi”, nghĩa là không có tiền ; bao nhiêu tiền tham nhũng đớp sạch, ngày nay đến cả Ngân hàng Quốc gia cũng không đủ ngoại tệ bằng kim ngạch, phải ra biện pháp kiềm kê và kiểm soát ngoại tệ và vàng.
Rất nhiều những người Việt Nam đang hy vọng hảo huyền, mong chờ một Gorbatchev Việt Nam chụp lấy chánh quyền, để sửa đổi. Nhưng nhóm cầm quyền tại Ba Đình vẫn cố gắng giữ lấy tay lái. Họ nhứt định khư khư không thay đổi hướng đi, nhưng họ không cưỡng lại những sự thay đổi bên ngoài. Một sự thả lỏng chánh trị, bằng những bài trả lời «lưỡi gỗ » bằng những bản «vẹt hót”, ai có nghe hay không nghe mặc kệ ! Nếu cần họ «đè bẹp», «khủng bố» mọi dư luận chống đối chế độ ở trong nước và nếu cần họ có thể chấp nhận đổ máu để đập tan mọi hành động «phản kháng » có tổ chức và nguy hiểm cho sự sống còn của chế độ.
Họ vẫn biết là cái chủ nghĩa của họ ngày nay rỗng tuếch không có một tí gì hy vọng giữ bền vững «chế độ anh hùng chủ nghĩa cộng sản nữa» nhưng họ vẫn cố gắng gỡ gạc dưa vào cái «quá khứ anh hùng kháng chiến chống Pháp chống Mỹ».
Hồ chí Minh dù là cái xác khô đét được ướp nằm đó, hàng ngày tô son điểm phấn bởi một nhóm văn công gia nô ca bài «Tư tưởng Hồ chí Minh» tiếp tục hướng dẫn hành động của nhóm cầm quyền mà không thấy có một chương trình, một dự án, không thấy một tư tưởng chánh trị Việt Nam có giá trị khả thi để phát triển đất nước. Đối với tuổi trẻ mọi giấc mơ tương lai đều trở thành xa xỉ.
Cái vòng lẩn quẩn « Kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa » đã không giải quyết được phát triển mà chỉ trói buộc suy nghĩ của nhà cầm quyền CS mà thôi.
Làm sao có thể mở cửa cho đầu tư, cho thương mại theo hướng kinh tế thị trường thật sự mà không bị trói buộc bởi những suy nghĩ định chế sơ cứng của chủ nghĩa cộng sản lỗi thời ?
Làm sao có thể áp dụng một chánh sách kinh tế xã hội mà dung hòa được hai quan niệm «thợ thuyền» và «nông dân» mà không bị mâu thuẩn về bản chất, bởi nông dân còn mang nặng đầu óc về tư hữu?
Hà Nội đang mơ giấc mơ dài giữa hai hình ảnh «tương lai xán lạn kinh tế thị trường» và «quá khứ anh hùng xã hội chủ nghĩa chống ngoại xâm» . Nhằm đề cao «chánh nghĩa tinh thần dân tộc bằng những cuộc chống Pháp Mỹ (nhưng bỏ quên, hay không dám nói đến, Tàu)» ngõ hầu động viên nội lực dân tộc khắc phục khó khăn, đạt được mức tăng trưởng kinh tế cao :nếu tăng trưởng kinh tế không đạt được như dự tính, nhà nước lo sợ sức ép của xã hội sẽ có cơ bùng nổ lớn. Thực tế, những hiện tượng chống đối của nhiều giới trong đó có giới trẻ trí thức xuất hiện quan trọng, càng ngày cho thấy càng rõ nét và gây ảnh hưởng sâu rộng thêm.
II. Những khó khăn phải vượt qua
Muốn phát triển Việt Nam, phải có một chương trình đầy đủ khả năng vượt những khó khăn sau đây :
– giữ vững một chỉ số tăng trưởng của Tổng sản lượng hàng năm vào 7% là tối thiểu. Chỉ ở chỉ số này, mới hy vọng tạo đủ công ăn việc làm cho những công nhơn mới hằng năm bước vào thị trường lao động: giới trẻ và những nông dân trên đà đô thị hóa. Nhưng chỉ số 7% không đủ sức để giảm những bất công xã hội chớ chưa nói đến hy vọng bắt kịp những phát triển của những nước trong khối ASEAN, Thái Lan hoặc Mã Lai Á trong một tương lai dài.
– Cố gắng giải quyết những thiếu sót trong những chương trình nông nghiệp, hiện nay chỉ số phát triển chỉ ở độ mức 4,5%, rất xa với cái 7% lý tưởng: năng suất thu hoạch của nông nghiệp kém, giá cả thị trường nông nghiệp càng ngày càng hạ thấp, những thông tin, hiểu biết về những thị trường nông nghiệp thay thế kém hay không được cập nhật hóa, chương trình tín dụng các ngân hàng nông nghiệp không ứng dụng đúng với tình trạng nông nghiệp hay nhu cầu nông nghiệp nên biến lợi tức của nông dân mỗi ngày mỗi kém cỏi: kết quả họ bỏ ruộng lên thành thị tìm sống qua ngày. Và ngày mai? làm sao cân bằng nông nghiệp, nông nghiệp thực phẩm, nông nghiệp kỹ nghệ, và công nghiệp, chuyển nông nghiệp sang công nghiệp thủy sản, chế biến thủy sản, vân vân, với tình trạng thiếu nước ngọt trong tương lai (do khai thác quá mức các đâp thủy điện ở thượng nguồn sông Mê Kông phía Tàu) và Đồng bằng Sông Cửu Long đang đà nhiễm mặn.
– Làm sao giải quyết được hai tệ nạn đang làm «bế tắc» mọi phát triển của thị trường «Khu vực thứ hai».
a. – Hàng hóa thứ rẻ tiền của Tàu sang tràn ngập vào thị trường tiêu thụ Việt Nam ? Nhập cảng bình thường và nhập cảng lậu, nghĩa là trốn thuế doanh nghiệp.
b.- Một loại kinh tế gia đình không giấy tờ, không cơ sở doanh nghiệp, chui lòn, trốn thuế, trốn nhiệm vụ xã hội nhưng vẫn sản xuất, vẫn trao đổi doanh thương, nửa lậu, nửa thật chỉ làm lợi cho người buôn và các nhân viên cầm quyền hủ hóa tham nhũng.
– Làm sao chống tham nhũng hữu hiệu, chống cửa quan cửa quyền làm khó khăn mọi thủ tục hành chánh. Phần sau tạo thiên vị và bất công để phần trước sanh sôi nảy nở.
– Có dám đóng cửa các cơ sở quốc doanh và nâng cao số cơ sở tư doanh không? Làm sao biến các công thương quốc doanh làm ăn có lời có lãi, có hữu hiệu?
– Có dám có những chương trình tín dụng ra lệnh những ngân hàng chỉ cho vay những dự án làm ăn có lời. Với những bản chiết tính chi thu rõ ràng?
– Lập lại hệ thống ngân hàng, xóa những nợ khó đòi, lập một chương trình đầu tư, và tín dụng với những chương trình phát triển dài hạn có lời, những chương trình xem xét, kiểm tra rõ ràng hằng năm cập nhật hóa lời lỗ.
– Cải tổ toàn bộ lại chương trình giáo dục từ tiểu học đến đại học, cải tổ lại ngành y tế, cải tổ chương trình giảng huấn cán bộ cấp Đại Học, cải tổ và mở mang mạng lưới giao thông và thông tin.
III. Những yếu tố tốt
Hình ảnh bi quan ấy chúng ta có thể vượt qua được nếu chúng ta và đặc biệt nếu nhà nước Việt Nam chấp nhận một vài cải tổ về mặt suy nghĩ và tư tưởng như :
– Áp dụng một nền dân chủ pháp trị;
– Tôn trọng nhơn quyền và tôn trọng những quyền tự do cho công dân, con người;
– Chấp nhận những hoạt động chánh trị của các đoàn thể, đảng phái, ngoài đảng đảng cầm quyền, trong thế đối lập xây dựng;
– Chấp nhận đối thoại với những đoàn thể đảng phái trong hay ngoài nước; với các nước liến hệ bang giao trong tình xây dựng kinh tế, trong dân chủ, trong công bằng với những luật lệ chiếu theo những luật lệ quốc tế về nhơn quyền, về xã hội, về lao động, về y tế, giáo dục, vân vân…
Việt Nam trong thực tế chỉ vì bi quan ấy có thể có một chương trình xây dựng phát triển dựa trên những yếu điểm sau đây :
– Tài nguyên thiên nhiên dồi dào và đặc biệt về dầu khí.
– Tài tháo vát của người Việt Nam trong những lãnh vực làm ăn «ít vốn»: doanh nghiệp, thủ công nghiệp, công việc làm ăn kiểu phường xóm, láng giềng , xây dựng (nhơn công)…
– Việt Nam vẫn là nơi đầu tư ngoại quốc thích vào, mặc dù hiện nay họ đang ở thế chờ đợi một sự «tháo khoán tư tưởng của các nhà cầm quyền cộng sản vẫn còn đỏ»;
– Vì Việt Nam có một sức lao động rẻ tiền, lanh lợi, khôn ngoan, khéo léo, và đặc biệt là một sức lao động trẻ.
– Khu vực tư doanh phải được khuyến khích phát triển và đã có một tiềm lực doanh nhơn đáng kể (do những số tiền dành dụm tiết kiệm đàng hoàng hay chui). Một cộng đồng Việt Nam hải ngoại giàu chất xám, giàu tài năng, giàu tài chánh và có một khả năng thương mại và quản trị cao sẵn sàng «trở về» nếu có một chánh sách khả dỉ, đàng hoàng, khích lệ.
– Địa lý chánh trị của Việt Nam là một địa lý lý tưởng. Nằm trên biển Nam Thái Bình Dương ngó ra hải đạo Nam Bắc Nhật Bản- Malacca.
– ASEAN và tương lai thị trường chung ASEAN sẽ làm đòn bẩy cho sự phát triển.
IV. Kết luận
1. Những quyết định can đảm vì đất nước
Việt Nam phải có một nền chánh trị và một thể chế pháp lý dựa trên một nền dân chủ pháp trị đúng mức, nghiêm chỉnh.
Một nền chánh trị đối ngoại dựa trên một sự giao hảo hữu nghị với các cường quốc và các quốc gia láng giềng khu vực (ASEAN, Đông Á) để thoát khỏi vòng phong tỏa ảnh hưởng của Trung Quốc.
Hãy suy nghĩ lại và làm lại một chương trình phát triển mới.
Hãy cố quên đi «quá khứ anh hùng chống ngoại xâm» một vài giây và cố gắng bỏ đi giọng nói trịch thượng của người chiến thắng đi «xin tiền» các kẻ thù thua trận.
Hãy mạnh dạn có những suy nghĩ thực tiễn để tìm một hướng đi sáng tạo khai triển các tinh túy của tinh chất «Việt». Quá khứ của dân tộc Việt, văn hóa của dân tộc Việt, thành tựu của nhóm người Việt tỵ nạn tại những quốc gia tư bản đã chứng minh rằng Việt Nam có một tiềm lực nếu được và nên sử dụng đúng đắn. Với một chế độ chánh trị và một phương trình chánh trị đúng đắn sẽ đưa Việt Nam nhanh chóng bước vào một kỷ nguyên phát triển thật sự. Chương trình ấy phải được dựa trên một sự tiếp nối những cái hay mới của thế giới văn minh ngày nay và nếu có hoàn cảnh thuận lợi đặc biệt cho phép, sẽ đem Phồn vinh và Phát triển lại cho Việt Nam trong một thời gian rất ngắn.
Thật vậy, Việt Nam đã học hỏi trong sự đớn đau những hệ thống kinh tế, suy nghĩ, tư tưởng chánh trị khác nhau. Việt Nam là một trong một số nước nhỏ trên thế giới nhận được sự góp nhặt vô cùng quí báu ấy. Đó là nhờ vị trí địa lý thuận lợi. Việt Nam sẽ không ngại làm « đứa con lai giống kinh tế » ấy ; Việt Nam sẽ có những yếu tố để phát triển trong những ngày tới khi Việt Nam đã hồi phục được dân chủ dân bản pháp trị.
2. Những giá trị truyền thống cần đổi mới và khai triển
• Một quan niệm nông dân, và văn minh nông dân đặc biệt với hệ thống văn minh “lũy tre“ “lệ làng “ giúp đỡ nhiều cho sự phát triển nông nghiệp và đời sống xã hội cộng đồng.
• Những sự bất công xã hội mà các tiền bối của chúng ta đã vấp phải và đã có chánh sách giải quyết thỏa đáng, nếp sống phong kiến của quan lại vua chúa, tôn giáo.v.v…
• Văn hóa Trung Hoa cổ xưa, đặc biệt tư tưởng của Khổng Tử, những tư tưởng Tống Nho cổ hủ ở Việt Nam, những sai lầm cũ và mới của Trung Hoa do một lớp quan lại Tống Nho vì đặc quyền đặc lợi cố tình bảo thủ để giữ quyền lực đã tác hại xã hội không ít mở đường cho thực dân cộng sản ngày nay.
• Tánh Nhơn Bản của Tam giáo
• Bản chất của Việt Nam là lấy con người và tình thương làm gốc xây dựng xã hội.
• Duy lý (cartesianisme) của các nhà cầm quyền Pháp.
• Sự thực tiễn chất Business, và quản lý của người Mỹ.
3. Những ảnh hưởng thời đại cần phải tránh
• Ảo tưởng của ý thức cộng sản đã lường gạt cả tình lẫn lý nên dứt khoát loại bỏ
• Những sự thái quá do những sự đầu cơ và những sự phá điều lệ (dérégulation) tài chánh của các thị trường chứng khoán và đặc biệt thị trường chứng khoán Á châu, v.v.
Trong không khí thiếu điều chỉnh, thiếu tổ chức, trong không khí đấu tranh giành ảnh hưởng của những “tư tưởng kinh tế”, Việt Nam như một con thuyền dập dờn trôi theo những dòng nước ngược chiều nhau giữa Davos và Porto Alegre.
4. Đào sâu và phát triển phổ biến
Vào những ngày 20/3 va 10/4 năm 2002, tại Washington DC, thủ đô xứ Huê Kỳ, một nhóm nhà nghiên cứu Việt Nam và một nhóm nhà nghiên cứu Hoa Kỳ cùng nhau làm việc, cùng trao đổi những suy nghĩ về các vấn đề chính trị, kinh tế sau 15 năm đổi mới, quân sự và vị trí chiến lược của Việt Nam trong vùng Thái Bình Dương.
Sau nhiều ngày làm việc cả hai nhóm đều chấp nhận một bản nhận định tổng quát về tình hình Việt Nam và đưa ra một Bản Lộ Đồ Thư để giúp chính phủ Huê Kỳ có những suy nghĩ và chọn lựa khi cần đề cập đến vấn đề Việt Nam trong chánh sách đối ngoại của Huê Kỳ vào những ngày tới. Dĩ nhiên Bản Lộ Đồ Thư cũng được gởi về phía Việt Nam, chánh quyền Hà Nội cũng có thể sử dụng Bản Lộ Đồ Thư này như bức cẩm nang để đưa đất nước sớm thoát khỏi tình trạng khủng hoảng hiện tại, chẳng những đem lại Việt Nam một chế độ dân chủ tự do để phát triển, nâng Việt Nam vươn lên tầm vóc các nước láng giềng trong vùng mà còn có khả năng bảo vệ Việt Nam trước những hiểm họa bành trướng của phương Bắc.
Từ những ngày ấy, 10 năm đã qua, Bản Lộ Đồ Thư vẫn còn đó, tình hình thế giới tuy có thay đổi, nhưng những phân tích, những lý luận của của Bản Lộ Đồ Thư vẫn còn giá trị, hiểm họa bành trướng phương Bắc, lúc ấy chỉ là một lý thuyết nghiên cứu, nay đã thành sự thật !
Thực hiện Bản Lộ Độ Thư là chuyển hóa Việt Nam về mặt một tình trạng hiện tại vô cùng xấu, cực kỳ bất lợi cho dân tộc, để tiến lên một tình trạng tốt đẹp hơn, đem lại phúc lợi cho toàn dân, chớ hoàn toàn không nhằm lật đổ, hay gây xáo trộn bất ổn vô ích cho Việt Nam.
Nếu Hà Nội vẫn cương quyết giữ mãi con đường xã hội chủ nghĩa, thì làm sao Hà Nội có thể ở trong nước, xây dựng một sự phát triển hài hòa với các sắc tộc, với các tôn giáo, với những phần tử ly khai, với những người không cộng sản hay cựu cộng sản đang và đã đấu tranh cho dân chủ trong ôn hòa, hay ở ngoài nước đòi hỏi một sự hợp tác ?
Hãy chấp nhận đối thoại, mở cửa, phải chấp nhận xét lại toàn bộ tư tưởng của mình.
Hãy mạnh dạn dứt bỏ mô hình cũ để bước vào một mô hình mới.
Đừng quên Việt Nam có ba yếu tố quyết định quan trọng để tiến lên hàng một trong các nước phát triển ngày mai này :
• Sự khát vọng tự do và dân chủ
• Tuổi trẻ từ 17-25 tuổi chiếm 70% dân số
• Địa lý trên bản đồ Đông Nam Á.
Mong lắm thay !
TS. Phan Văn Song