Nhiều người mang thành kiến coi Nho giáo là nền tảng xây dựng nên chế độ quân chủ tập quyền ở các nước Á Đông trước thế kỷ 20. Từ đó, họ suy ra rằng các xã hội Á Đông quen sống với giáo lý Khổng Mạnh thì không thích hợp để phát triển thể chế dân chủ. Các chế độ độc tài cũng nhân đó mà tự biện minh, chủ trương không nên dân chủ hóa, vì dân chủ là một truyền thống Tây phương, các nước Đông phương phải theo lối khác! Các chính quyền ở các nước như Singapore, và bây giờ thêm Trung Quốc, có ý đề cao Khổng giáo để biện minh cho tình trạng thiếu dân chủ trong nước họ. Nhưng tìm hiểu kỹ tận gốc, chúng ta sẽ thấy rằng Khổng Tử, Mạnh Tử không ủng hộ quyền hành tuyệt đối của người đứng đầu quốc gia, mà vào thời đại của họ từ thế kỷ thứ 6 tới thứ 3 trước Công Nguyên, đó là các ông vua chư hầu vị hoàng đế nhà Chu.
Khổng Tử
Nếu học cho kỹ chúng ta sẽ thấy trong Nho giáo từ thời Khổng Mạnh, tức là từ thế kỷ thứ 5 trước Công nguyên, vốn coi trọng vai trò của người dân (Mạnh Tử: Dân vi quý, quân vi khinh) chứ không đề cao vai trò của vua quan. Trải qua hơn 2000 năm các ý kiến trọng dân đã bị những người cầm quyền bỏ quên hoặc cố ý che đậy, xóa lấp đi. Chế độ chính trị ở Trung Quốc từ đời Hán thực sự đặt trên căn bản của Pháp Gia. Nho giáo chỉ được dùng trong việc giáo dục và huấn luyện những người sẽ được tuyển chọn làm quan; còn khi thực hành thì Pháp gia mới là công cụ chính. Chính Pháp gia chủ trương tôn quân quyền triệt để. Bộ máy quan lại muốn chiều ý vua đã gán ghép chủ trương tôn quân quyền đó cho Nho giáo, thí dụ trong khái niệm Tam Cương. Khổng Tử và Mạnh Tử không bao giờ nói đến khái niệm này.
Chúng tôi trình bầy một số điều hiểu lầm về Nho giáo, không phải với mục đích phục hồi lại các tư tưởng chính trị của Khổng Tử, Mạnh Tử, nhưng để tránh các thiên kiến đưa tới hệ quả sai lầm khác. Người ta thường nói rằng văn hóa Đông Phương coi trọng tập thể hơn là cá nhân, điều này đúng. Nhưng đề cao tập thể, tôn trọng cộng đồng, không có nghĩa là đề cao chính quyền và những người cầm quyền. Chế độ Tự do dân chủ không hạ thấp giá trị của tập thể mà chỉ xác định các giới hạn trên quyền hành của những người nhân danh tập thể. Các phong trào dân chủ không tìm cách hạ thấp tập thể, nhưng muốn những người nhân danh tập thể, tự xưng là đại diện cho tập thể, không được đàn áp cá nhân, triệt tiêu giá trị của mỗi cá nhân. Một điều ai cũng thấy là các nước chịu ảnh hưởng Nho giáo rất mạnh như Nhật Bản, Nam Hàn và Đài Loan đều đã xây dựng các định chế tự do dân chủ vững chắc, trong khi họ vẫn coi Khổng Mạnh là những bậc thánh hiền để học. Nếu đọc lại Khổng Mạnh, chúng ta sẽ không thấy có xung khắc giữa Nho giáo và các quyền tự do căn bản của con người.
Tam Cương
Khi nói tới quyền hành của ông vua trong xã hội cổ truyền ở Á Đông, người ta thường nhắc đến quan niệm Tam Cương. Học về Nho giáo, ai cũng nghe nói đến Tam Cương và Ngũ Thường.
Cương, theo nghĩa đen, là sợi dây chính, tức sợi dọc, trong tấm vải hay tấm lưới. Tam cương tức là ba giềng mối chính trong xã hội loài người. Tam Cương gồm có Quân thần (Vua và các quan), Phụ Tử (Cha và Con), Phu Phụ (Chồng và Vợ). Người ta thường giải thích rằng khi đề cao Tam Cương (cùng với Ngũ Thường), Nho giáo đã chủ trương người làm Vua, làm Cha và làm Chồng có quyền hành tuyệt đối đối với bầy tôi, con hay vợ.
Một điều mọi người hay quên đi là trong các sách của Khổng Tử, Mạnh Tử (và Tuân Tử sau đó) không chỗ nào nói đến Tam cương cả. Ngay cả Chu Hi, người giải thích Tứ Thư và Ngũ Kinh vào thế kỷ thứ 12 để sau đó tạo thành kinh điển căn bản trong nền giáo dục và chế độ cai trị của các nước Á Đông cho tới thế kỷ 20, cũng vậy. Chu Hi cũng không bàn đến quan niệm Tam Cương một cách kỹ lưỡng như ông bàn về các đề tài khác, tức là ông không coi Tam Cương là một quy tắc căn bản.
Theo các học giả nghiên cứu Nho giáo thì quan niệm Tam Cương đã được gán cho Khổng Tử ở trong Hiếu Kinh, một cuốn sách với nguồn gốc không được coi là chính xác lắm. Khái niệm Tam Cương chỉ bắt đầu được đề cao từ thời Tiền Hán, hơn 300 trăm năm sau khi Khổng Tử qua đời. Đổng Trọng Thư (thế kỷ thứ 2 trước Công Nguyên) đã nói đến “ba giềng mối” này trong khung cảnh những lý giải về thuyết âm dương, ngũ hành trong sách Phồn Lộ. Đọc lịch sử đời Hán chúng ta hiểu khái niệm đó được diễn tả như thế nào.
Đọc sử gia Ban Cố (32 – 92) người viết bộ Hán Thư, chúng ta thấy vào thế kỷ thứ nhất có những cuộc thảo luận về các lời dậy của Khổng Tử, trong giới quan lại triều đình vua nhà Hán. Ban Cố đã ghi chép lại các ý kiến đó trong bộ Bạch Hổ Thông Đức Luận (白虎通德論). Trong sách này, khi viết về “Tam Cương Lục Kỷ,” Ban Cố viết: “Quân thần, phụ tử, phu phụ, tức có sáu người, tại sao gọi là tam cương? (Bởi vì) một âm một dương gọi là đạo; dương được âm mà thành tựu, âm được dương mà có trật tự; cương nhu tương phối, cho nên sáu người trở thành tam cương.” (Lục Hổ Thông, Quyển 7, đoạn 4, câu 2, 君臣,父子,夫婦,六人也,所以稱三綱何?
一陰一陽謂之道。陽得陰而成,陰得陽而序,剛柔相配,故六人為三綱). Ban Cố nhấn mạnh đến tính chất hòa hợp và cộng tác của hai vế, vua tôi, cha con, chồng vợ, giống như âm với dương, phân biệt và bổ túc, tương phối với nhau. Theo đúng lối hiểu trong truyền thống Nho giáo thì người ta không bao giờ chủ trương âm phải tùy thuộc vào dương. Không thể căn cứ vào thuyết âm dương để biện minh cho tình trạng bầy tôi nhất thiết phải phục tùng ông vua, con phải vâng lời cha tuyệt đối, cho tới vợ phải sợ chồng.
Từ đời Hán, các triều đại ở Trung Quốc duy trì guồng máy hành chánh thư lại do Tần Thủy Hoàng đặt ra để củng cố quyền ông vua và các quan lại, tức là họ sử dụng kỹ thuật cai trị của Pháp gia. Tuy nhiên, đối với bên ngoài, họ lại muốn dùng Nho giáo để biện minh cho chế độ trung ương tập quyền đó; cho nên người ta đã diễn tả thuyết Tam Cương theo nghĩa người này tùy thuộc người kia, giống như đề cao quyền uy tuyệt đối của dương trên âm. Vì thế thuyết Tam Cương được đưa lên địa vị quan trọng tương đương với Ngũ Thường (Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín) trong nền giáo dục Nho giáo. Đó là một thủ đoạn hiểu Khổng Mạnh một cách thiên lệch, với ý đồ củng cố quyền hành tuyệt đối của ông vua.
Nhưng không hề thấy chữ Tam Cương trong Luận Ngữ, là cuốn sách đáng tin cậy nhất thuật lại các lời nói và hành trạng của Khổng Tử vào thế kỷ thứ 6 và 5 trước Công Nguyên. Sau đó hơn một trăm năm, một cuốn khác trong Tứ Thư là Mạnh Tử cũng không hề nhắc đến Tam Cương; mặc dù phần lớn nội dung sách này bàn các vấn đề việc cai trị. Từ thế kỷ thứ 13, đời nhà Tống, Nho giáo được các học giả như Trình Hiệu, Trình Di tới Chu Hi hệ thống hóa và được các triều vua sau này dùng làm sách giáo khoa chính thức mà ai cũng phải học nếu muốn dự thi để làm quan. Chính Chu Hi cũng không coi Tam Cương là quan trọng; trong khi đó ông chỉ chú ý bàn luận về khái niệm Ngũ Luân. Tương tự như Tam Cương, Ngũ Luân mô tả năm quan hệ xã hội tiêu biểu. Ngũ Luân gồm có Quân thần, Phụ tử, Phu phụ, Huynh đệ và Bằng hữu; tức là ngoài “ba giềng mối” Vua, Cha và Chồng giống như Tam Cương còn thêm hai quan hệ quan trọng khác trong xã hội, là anh em và bè bạn.
Khái niệm Ngũ Luân được đề cập lần đầu trong sách Mạnh Tử, thế kỷ thứ ba trước Công Nguyên. Sách do Mạnh Tử viết và các môn đệ hiệu đính, gồm bẩy quyển, mỗi quyển hai phần, thượng và hạ. Trong quyển 3, Đằng Văn Công (Thượng), câu thứ tư, Mạnh Tử nói, “Làm người ai cũng có đạo … Thánh nhân sai ông Tiết làm tư đồ dậy Nhân Luân: Cha con có tình thân (Phụ tử hữu Thân), Vua tôi có nghĩa (Quân thần hữu Nghĩa), Chồng vợ có sự phân biệt (Phu phụ hữu Biệt), người lớn người nhỏ (anh em) có thứ tự (Trưởng ấu hữu Tự), bằng hữu có lòng tin (Bằng hữu hữu Tín).” (Mạnh Tử, 3A: 4: 父子有親,
君臣有義,夫婦有別, 長幼有序,朋友有信)
Ngũ Luân
Nhìn lại quan niệm Ngũ Luân này trong khung cảnh sách Mạnh Tử, chúng ta có thể thấy từ gốc Nho giáo không hề đề cao quyền của vua, của cha hay chồng như lối học thiên lệch sau này, nhất là từ đời Tống, thế kỷ thứ 12 bên Trung Quốc.
Trước hết, chúng ta thấy trong năm mối quan hệ gọi là “nhân luân” này, Mạnh Tử đặt tương quan giữa Cha và Con trước, giữa Vua và Tôi sau. Hoàn toàn khác với lối xếp đặt trong Tam Cương, đặt Vua trước Cha sau. Thứ tự trước sau rất quan trọng, vì đời xưa người ta rất chú ý tới thứ bậc ưu tiên, để nhấn mạnh đến tầm quan trọng, khi phát biểu.
Mạnh Tử
Tại sao Mạnh Tử đặt Cha trước Vua sau? Vì đi từ gần trước, xa sau. Chúng ta biết tư tưởng luân lý và chính trị của Mạnh Tử thường được đặt ra dựa trên căn bản những quan sát của ông về tình cảm tự nhiên và trực giác của con người. Khác với bên Tây phương, Mạnh Tử, giống như Khổng Tử, không trình bầy các ý kiến về đạo đức và xã hội giống như các lời chỉ dậy của thần thánh mà con người chỉ việc tuân theo; mà cũng không coi đó là kết luận của những suy nghĩ thuần lý. Các ông Khổng, Mạnh không đưa ra các nguyên tắc sống như là hệ luận của các lý thuyết, tư tưởng tổng quát và trừu tượng. Với xu hướng gọi là “cận nhân tình” đó, trong 5 mối quan hệ xã hội mà Mạnh Tử nêu ra, ba quan hệ chính đã thuộc về gia đình: Cha con, vợ chồng, và anh em; hai điều khác thuộc về xã hội bên ngoài là quan hệ giữa quốc gia (vua) với người dân (tôi), và quan hệ bạn bè. Vì chú trọng đến tình cảm tự nhiên cho nên Mạnh Tử đặt quan hệ Cha con trước quan hệ Vua tôi, tức là từ gần đi ra xa. Nhưng thứ tự này cũng phù hợp với một ý tưởng khác mà ông đã nói, là dân quý hơn vua (Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh). Cũng vậy, quan hệ vợ chồng được đặt trước anh em, mà anh em thì gần gũi hơn bạn bè cho nên huynh đệ cũng được đặt trước bằng hữu.
Khi nói đến 5 quan hệ Nhân Luân theo thứ tự từ gần đến xa, rõ ràng là Mạnh Tử không có ý nhấn mạnh đến nghĩa vụ xã hội của mỗi người đối với tập thể trong đó có cha, có vua. Vì nếu nói đến nghĩa vụ xã hội thì quốc gia có tầm quan trọng hơn gia đình, phải đặt vua trước, cha sau mới đúng.
Nhận xét thứ hai là khi nói đến 5 mối quan hệ Nhân Luân, Mạnh Tử không hề nói trong mỗi quan hệ đó ai là người có quyền quyết định, ai là kẻ dưới phải vâng lời. Chắc chắn không bao giờ Mạnh Tử chấp nhận có sự vâng lời tuyệt đối trong nhân luân, nếu chúng ta đọc những đoạn khác trong sách. Có thể nói, Mạnh Tử nhắc đến ngũ luân trước hết để làm công việc mô tả (positive) như các nhà xã hội học sau này,chứ không có tính cách quy phạm (normative) như một nhà truyền đạo.
Để hiểu đúng quan niệm của Mạnh Tử về ngũ luân, chúng ta nên nhìn vào toàn thể văn bản trong sách đó để thấy ông đưa quan niệm này ra trong văn cảnh nào. Chúng ta sẽ thấy Mạnh Tử nói về năm mối Nhân Luân này sau khi bàn về sự phân công trong xã hội. Có thể nói Mạnh Tử đã dùng con mắt của một nhà quan sát (hay nghiên cứu) xã hội đương thời, từ đó ông trình bầy 5 mối quan hệ căn bản này.
Trong Đằng Văn Công (thượng), Mạnh Tử nói đến ngũ luân nhân khi Trần Tương đến nói về một nhà hiền triết là Hứa Hành. Hứa Hành là người từ nước Sở ở phương Nam tới miền Sơn Đông nơi Mạnh Tử cư ngụ. Ông ta tự coi đã học theo tư tưởng Thần Nông, đem ra dậy vua nước Đằng hãy tự làm ruộng lấy lúa gạo, tự nấu cơm lấy mà ăn. Nghe vậy, Mạnh Tử đã giải thích rất dài về sự phân công và trao đổi trong xã hội (hơn 2000 năm sau, Adam Smith mới phân tích ích lợi kinh tế của sự phân công và trao đổi theo phong cách duy lý).