“Khi Thế giới chú tâm đến Trung Quốc, chánh quyền Trung Quốc phải thực hiện những lời hứa nghiêm chỉnh cải thiện nhân quyền, lý do rất giản dị, nếu không bảo vệ nhân quyền bình đẳng cho tất cả công dân Trung Quốc, ví dụ như loại bỏ hệ thống hộ khẩu ở vùng quê, loại bỏ kỳ thị phái tính, phụ nữ, sắc tộc, tôn giáo, dân thiểu số và đàn áp các tiếng nói đối kháng chính trị, thì nói về “Một giấc mơ” cho cả nước Trung Hoa là lời nói vô nghĩa”. Những dòng chữ trên là lời mở đầu thư ngỏ gởi đến Chủ tịch Hồ Cẩm Đào ngày 8/8/2007 của 42 nhà văn, học giả và các nhà tranh đấu nhân quyền Trung Quốc trong đó có nhà thơ Lưu Hiểu Ba, người đoạt giải Nobel Hòa Bình ngày 8/10/2010.
Những người ủng hộ ông Lưu Hiểu Ba ở Hongkong bày tỏ sự vui mừng trước sự kiện nhà tranh đấu cho nhân quyền và dân chủ này được trao giải Nobel Hòa Bình vào ngày 8 tháng 10, 2010. (Hình: MIKE CLARKE/AFP/Getty Images)
Giải thưởng cao quý Nobel năm nay xứng đáng hơn giải Nobel Hòa bình năm 2009 cho TT Hoa Kỳ Barack Obama. Giải Nobel Văn chương về tay nhà văn người Peru Varga Llosa, nhà văn đối kháng lên tiếng chống sự tham nhũng và độc tài của các chánh quyền Châu Mỹ Latin, người đã viết những câu như “Tôi phải viết lại những chuyện tham nhũng của họ để chính con cháu họ cảm thấy mối nhục của cha ông họ, mối nhục tham nhũng nguy hại cho nhiều thế hệ”. Một ngày sau, 8/10/2010 giải Nobel Hòa Bình về tay nhà thơ đối kháng Trung Hoa Lưu Hiểu Ba, ông là nhà trí thức đối kháng chủ trương thay đổi Trung Quốc bằng phương pháp bất bạo động, đấu tranh đòi dân chủ cho Trung Quốc với Nhân quyền là căn bản, là quyền cần có của người dân. Ông là người Trung Hoa đầu tiên đoạt giải Nobel Hòa Bình, đang bị tù ở Liễu Ninh, ông là một trong ba người trên thế giới được trao giải Nobel Hòa Bình khi còn ngồi trong tù.
Ông đã được các nhân vật nổi tiếng trên thế giới đề nghị giải Nobel Hòa Bình năm nay trong đó có Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 Tây Tạng, ông Vaclav Havel cựu Tổng thống và là nhà văn Tiệp, Desmond Tutu, Mục sư Nam Phi, là những người đã đoạt giải Nobel Hòa Bình.
Trong 20 năm ông Lưu năm nay 55 tuổI vào tù ra khám nhiều lần, ông là giáo sư văn chương đại học Bắc Kinh đã bị kết án 11 năm tù lần chót vì ký vào bản tuyên cáo “Hiến chương 08” đòi Nhân quyền và Hiến pháp cho Trung Quốc. Nhiều người trong 14 nhóm chống đối chánh quyền CSTQ đã không đồng ý với Hội đồng Tuyển chọn giải Nobel mặc dù thành tích chống đối và sự nghiệp văn chương của ông Lưu từ trên 20 năm qua đã nói lên được tinh thần đấu tranh hòa bình, họ cho rằng ông đã mềm mỏng quá đối với chính quyền CS Trung Quốc, năm 1989 đã khuyên sinh viên nên rời bỏ Quảng trường Thiên An Môn khi xe tăng đến và làm lơ Pháp Luân Công, nhưng nhà văn Vaclav Havel đã ủng hộ ông Lưu chủ tịch hộiVăn bút Trung Quốc (từ năm 2003 đến 2007), cựu Tổng thống Tiệp nghĩ rằng ông Lưu đã thực tế hơn các nhà tranh đấu khác, tránh được cảnh thảm sát có thể trầm trọng hơn.
Giải Nobel Hòa Bình 2010 dành cho ông Lưu là một cái tát vào mặt chánh quyền CSTQ, với giọng điệu bá quyền can thiệp vào nội bộ của tất cả các quốc gia như ở vùng Thái Bình Dương và Việt Nam, Trung Quốc đã cảnh cáo Na Uy là giải Nobel Hòa Bình sẽ đưa đến “rạn nứt bang giao” giữa hai nước. Luận điệu của chánh quyền CSTQ: Ủy ban đã trao giải cho “tội phạm” giống như luận điệu của đàn em TC, Thủ tướng CS Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng: “Chúng tôi không đàn áp nhân quyền, chúng tôi chỉ bắt kẻ phạm tội”. Chánh quyền CSTQ quên rằng năm 1991 họ đã kết tội tuyên truyền “âm mưu lật đổ chánh quyền, hành động phản cách mạng” của ông Lưu mà không trừng phạt ông như một kẻ “tội phạm”.
Lưu Hiểu Ba, nhà trí thức tranh đấu
Giải Nobel Hòa Bình cao quý của Na Uy dành cho ông Lưu Hiểu Ba xẩy ra vào mùa thu năm nay khi đảng CSTQ đang họp đại hội thường niên với các Ủy viên Trung ương đảng chọn người thay thế Chủ tịch Hồ Cẩm Đào.
Từ sau cuộc thảm sát Thiên An Môn 1989 và sau khi Cộng Sản Đông Âu sụp đổ, đảng CSTQ đã thành công trong việc cải tổ kinh tế, tạo ra những công ty quốc doanh trá hình như những công ty tư có cả cổ phân trên thị trường chứng khoán Nữu Ước, che lấp bộ mặt Xã hội Chủ nghĩa. Họ đã đào tạo từ 100,000 ngàn đến 1 triệu đảng viên cấp giữa trong 20 năm quen thuộc với thị trường tự do, cho phép dân đầu tư và làm giầu kiểu tư bản nhưng tranh đấu cho dân chủ và thách đố với chánh quyền và đảng vẫn là một “tội ác” lớn đối với chế độ. Năm 2002, đảng chủ trương trao quyền trong trật tự nhưng vấn đề chánh của một nước Trung Quốc tiến bộ trên thị trường quốc tế, với nền kinh tế vượt lên Nhật Bản trong năm nay vẫn là vấn đề chánh trị, dân chúng chống đối thể chế độc tài độc đảng. Đảng Cộng Sản tự biến chuyển nhưng dùng “chiêu bài chủ nghĩa quốc gia” như những phong trào quốc gia vào thế kỷ thứ 19, thập niên 1870 của Lương Khải Siêu, Tôn Dật Tiên và Lý Hồng Chương, chủ trương một nước Trung Hoa giầu mạnh, giữ thể diện quốc gia trên thế giới, đoàn kết không để rối loạn dù chánh quyền có độc tài dân vẫn phải chịu đựng.
Thảm sát Thiên An Môn được chánh quyền CSTQ che dấu nhưng giới trí thức Trung Hoa không quên. Những lãnh tụ sinh viên như Vương Dân, Ngụy Kính Sinh sau 1989 đi ra khỏi Trung Quốc tị nạn nhưng những người khác như nhà thơ Lưu Hiểu Ba ở lại, nổi bật trong vai trò đấu tranh dân chủ nhân quyền. Có những nhà thơ không dính líu đến chánh trị như Liêu Di Vũ, trốn tránh chánh quyền, viết những vần thơ máu “tàn sát” để nhớ lại đêm Thiên An Môn, lính tàn sát sinh viên:
“Bắn, bắn, bắn…
Ta cảm thấy sướng, ta cảm thấy vui
Bắn bể đầu ấy
Lửa đốt cháy tóc, cháy da
Óc phọt ra
Hồn lìa khỏi xác
Máu phun lên cầu, lên hàng rào, trên đường phố
Phun lên trời
Máu trở thành sao và sao đang chạy trốn
Trời đất đảo ngược…
Bắn, bắn, bắn…
(Thơ trong tập Xác Chết Biết Đi)
Thơ Lưu Hiểu Ba cũng viết từ máu, như những người tù Trung Hoa từ mấy ngàn năm lấy máu viết thành thơ, những bài thơ từ trong tù. Những người tù chế độ Cộng Sản không khác nhau dù ở Nga, Trung Hoa hay Việt Nam, những dòng trong bài thơ “Một lá thơ thôi cũng đủ”:
“Khi gió thổi qua đêm
Dùng chính máu của anh
Để viết những giòng thơ mật
Để gởi cho em
Mỗi chữ là chữ cuối cùng”.
Những giòng thơ khác viết từ trong tù như “Một con chuột nhỏ trong tù”, “Ngày nghỉ”, “Người tù tham lam” đọc có những giòng thành thực như những người tù Tây Bá Lợi Á những năm Sô Viết, giọng thành thực hơn giọng thơ trong tù của các lãnh tụ CS Mao Trạch Đồng, Hồ Chí Minh. Người tù họ Lưu viết những giòng cho người vợ vẫn trung thành đợi ngày chồng về:
“Người tù ở trong cuộc đời chật chội của em
Tàn nhẫn và đầy lòng tham
Vẫn không để cho em
Mua một bó hoa, một thỏi Chocolate, một chiếc áo đẹp…
Ngay cả tro bụi cũng không thuộc vào em,
Xác trong tù của đảng Cộng Sản
Trong phòng tù không cửa ra vào, không cửa sổ…
Nhốt anh vào nỗi cô độc mục rửa…
Hắn kiểm soát ngòi viết
Khiến anh phải viết những lá thơ dài bất tận
Khiến anh phải tuyệt vọng đi tìm hy vọng…
…
Năm 2004, nhà văn Lưu Hiểu Ba được giải nhân quyền của hội Phóng viên Không Biên Giới nhưng bị cắt đứt liên lạc với thế giới bên ngoài, điện thoại và mạng lưới bị cắt. Trước đó ông đã ca ngợi Mạng lưới thông tin Internet, xem Internet như là “tặng phẩm của Thượng đế dành cho Trung Quốc”. Trong bài văn họ Lưu đã đặt hy vọng vào Internet như những nhà văn, nhà tranh đấu khác ở Việt Nam mà quên rằng bạo lực, tù và miếng ăn vẫn là những vũ khí của các chế độ Cộng Sản đùng để kiểm soát và đàn áp tiếng nói đối lập. Nhà thơ Lưu Hiểu Ba viết “Ngày hôm nay có hơn 100 triệu người Trung Quốc dùng Internet. Một mặt Internet là phương tiện để kiếm tiền, mặt khác nhà cầm quyền độc tài Cộng sản sợ tự do phát biểu. Ngày 1/10/1999 khi tôi hết hạn ba năm tù trở về nhà, máy tính năm đó tôi thử nhiều lần, cuối cùng tôi quen và không thể rời được… Lần đầu tiên tôi đã gởi bài qua điện thư vài giờ sau tôi đã có được thư trả lời từ chủ bút khiến tôi biết được sự huyền diệu của Internet. Với sự kiểm duyệt ở đây tôi chỉ có thể phổ biến bài ra ở ngoại quốc… Chánh quyền độc tài CSTQ không thể kiểm duyệt hết”.
Hiến chương 08
Người tù lương tâm Lưu Hiểu Ba đã khiến nhà cầm quyền Bắc Kinh giận dữ vì ông vẫn không ngừng tiếng nói ngay khi còn ở trong tù. Giống như những nhân vật “Vòng đầu địa ngục” của Solzhenitzyn, “Mất tất cả không còn gì để sợ”, Lưu Hiểu Ba đã cảnh cáo thế giới về hiểm họa Mô Hình Trung Quốc trước ngày Thế Vận Hội năm 2008. Trong bài viết “Chế độ độc tài dưới ánh sáng của ngọn lửa Olympic” ông đã thấy cái bài bản “Hài hòa” của chủ tịch Hồ Cẩm Đào ca ngợi “Sự hài hòa của xã hội Trung Quốc” từ khi nắm chánh quyền năm 2005 đã là một chiêu bài che dấu cho những sự gian manh xảo trá. Những danh từ “đầu tiên”, “tốt nhất, “hãnh diện của người Trung Quốc trên khắp thế giới”, “hài hòa”, “giấc mơ” xuất hiện thường xuyên trên thế giới truyền thông cũng có hai nghĩa như “double speak” của George Orwell [sách 1984].
Những chữ ấy, danh từ kêu to ấy che đậy những sự thật trắng trợn, xấu xa của chế độ độc tài Bắc Kinh. Danh từ “hài hòa” của Bắc Kinh đã xử dụng trong cơ hội kiếm tiền cho nhà nước nhân Thế Vận Hội “Một thế giới, một giấc mơ chỉ là giấc mơ mà Trung Quốc muốn thành và được chứng nhận như là cường quốc của thế giới, thế giới sẽ chú ý đến các trò chơi thể thao mà quên đi những vi phạm nhân quyền trầm trọng xẩy ra mỗi ngày cho hàng ngàn người dân Trung Hoa”. Ông đã ví dụ với Thế Vận Hội năm 1936 của Hitler và đảng CSTQ ngày nay đã dùng tinh thần Thế vận hội 2008 để cổ võ cho “Chủ nghĩa quốc gia” như Hitler rồi “đàn áp dân thiểu số, không ngừng đàn áp đối lập chánh trị.”
Giang Trạch Dân đã đến Thiên An Môn chúc mừng chiến thắng, giấc mơ trong hàng trăm năm đã thành tựu, Thế vận hội chỉ mang đến ích lợi cho đảng “Một giấc mơ cho cả Trung Quốc” là điều dối trá.